Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

skkn chủ nhiệm thpt CÔNG tác GIÁO dục đạo đức CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.81 KB, 35 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIA LAI
TRƯỜNG THPT HOÀNG HOA THÁM
TỔ NGOẠI NGỮ


ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG

CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Họ và tên: Nguyễn Thị Thương
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Năm học: 2012-2013

Gia Lai, tháng 3/2013


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Có tài mà không có đức là
người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó” và Người đã
đưa ra nguyên lý về đạo đức: “Cây thì phải có gốc, sông thì phải có nguồn,
là người thì phải có đạo đức. Nếu cây không có gốc thì cây chết, sông
không có nguồn thì sông cạn, làm người mà không có đạo đức thì không
phải là người”.
Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là động lực của mọi sự phát
triển xã hội. Con người càng có nhân cách cao đẹp thì sự tác động của con
người đến xã hội đó càng to lớn. Do đó không thể xem nhẹ vai trò của giáo
dục trong sự phát triển của xã hội. Trong các mặt giáo dục Đức, Trí, Thể,


Mỹ và Lao động - Hướng nghiệp - Dạy nghề, giáo dục đạo đức bao giờ
cũng được đặt lên hàng đầu “Được xem là nền tảng, gốc rễ để tạo ra nội lực
tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác”.
Thời kì hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội to lớn cho
đất nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất đáng kể về Kinh tếVăn hóa- Xã hội. Song thách thức cũng không nhỏ, đó là mặt trái của nền
kinh tế thị trường đã và đang tác động rất mạnh đến tư tưởng, lối sống của
một bộ phận dân cư, trong đó không thể không kể đến một bộ phận lớn
thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên sống thụ động, không có lý
tưởng, không có mục đích rõ ràng, sống chạy theo các nhu cầu vật chất tầm
thường, ngại cống hiến, ngại khó khăn, sống thích hưởng thụ - sống “nhờ”,
sống không có niềm tin, hoang mang, buông thả... Đảng ta đã nhận định và
đánh giá thực trạng này trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương 2 khóa VIII: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh
viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng, theo lối sống
thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản thân và đất
2


nước” và cũng đã nêu rõ: “Xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết
tha, gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng,
có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
Vì vậy công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng. Để đáp ứng mục tiêu giáo dục theo xu hướng của thời đại,
việc cần thiết và mang tính cấp bách hiện nay đó là việc nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường.
Đối với trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai
trong những năm gần đây đang dần khởi sắc, đạt được những kết quả đáng
khích lệ trong giáo dục toàn diện đó là nhờ vào kết quả của giáo dục kỷ
cương, nề nếp đặc biệt là giáo dục đạo đức cho học sinh. Nhiều giải pháp
thích hợp được áp dụng nhằm nâng cao giáo dục đạo đức học sinh góp

phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
Xuất phát từ những lý do khách quan và chủ quan như đã phân tích ở
trên, tôi chọn đề tài: “Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học
phổ thông” nhằm đưa ra những biện pháp trong quá trình làm công tác
giáo dục học sinh tại trường THPT Hoàng Hoa Thám, Pleiku, Gia Lai.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường
THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai.
- Đề cập một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức ở
trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai nhằm đào tạo ra
con người mới đáp ứng yêu cầu của quê hương đất nước trong giai đoạn
phát triển hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực tế ở đối tượng học sinh của trường THPT Hoàng
Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai.

3


- Từ thực trạng, đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku,
tỉnh Gia Lai.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định cơ sở khoa học của công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức học sinh ở trường THPT
Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai.
- Nêu một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai.
5. Phương pháp nghiên cứu:

- Nghiên cứu các tài liệu của Đảng về giáo dục-đào tạo, của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
- Nghiên cứu các giáo trình, tài liệu, các kinh nghiệm thực tiễn về
giáo dục đạo đức học sinh.
- Khảo sát thực tế, điều tra thực tế, so sánh, thống kê chất lượng giáo
dục đạo đức trong 2 năm học gần đây 2010-2011, 2011-2012 của trường
THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai.

4


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
Cơ sở khoa học của công tác giáo dục đạo đức học sinh THPT
1.1. Cơ sở lý luận của công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường
THPT
- Xét về góc độ tâm lý lứa tuổi:
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 19
tuổi. Ở Việt Nam quy định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi. Như vậy
học sinh THPT ở lứa tuổi cuối lứa tuổi vị thành niên, là giai đoạn phát triển
mạnh về thể chất và sinh lý. Ở thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn
này, các em luôn có xu hướng khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm
chủ bản thân, muốn tìm tòi, phát hiện khám phá, tìm hiểu những điều chưa
biết của cuộc sống, các em muốn có quyền tự quyết định trong các công
việc và việc làm của mình và không muốn sự ràng buộc của gia đình, bố
mẹ và người lớn tuổi. Ở giai đoạn phát triển này sự kiểm tra, giám sát, chỉ
đạo của người lớn làm các em cảm thấy rất khó chịu, bực bội và rất dễ nổi
nóng.

- Xét về góc độ xã hội:
Ở lứa tuổi này sự giao tiếp với bạn bè là nhu cầu rất lớn. Các em có
xu hướng tụ tập thành từng nhóm có cùng sở thích, phù hợp tính tình để vui
chơi, đùa nghịch, có những lúc, những nơi các em có hành động không
đúng, không phù hợp với lứa tuổi của mình. Trong giai đoạn này quá trình
phát triển sinh lí ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của các em, các em rất
dễ bị xúc động khi có một tác động nào đó, lòng kiên trì và khả năng tự
kiềm chế yếu, các em dễ bị lôi kéo kích động. Ở lứa tuổi này tính tình
không ổn định, dễ nổi cáu, khi thì quá sôi nổi, nhiệt tình nhưng khi gặp khó
khăn lại dễ buông xuôi, chán nản. Hơn nữa các em luôn ở hoặc trạng thái
hiếu thắng hoặc tự ti vì thế dễ dàng dẫn đến những hành động thiếu suy
5


nghĩ chín chắn, nhiều lúc vi phạm nội quy học sinh (hoặc chuẩn mực đạo
đức) mà vẫn không biết.
Trong cuộc sống, các mối quan hệ con người với thiên nhiên, con
người với xã hội, con người với con người, con người với chính bản thân
vô cùng phong phú và phức tạp. Nếu cách ứng xử không phù hợp với lợi
ích của xã hội thì các cá nhân, tổ chức sẽ bị lên án và coi là thiếu đạo đức.
Vì vậy để chỉ đạo và quản lý tốt quá trình giáo dục đạo đức học sinh trong
trường THPT, chúng ta cần phải nắm được Đạo đức là gì?
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm đạo đức. Tuy
nhiên có thể hiểu khái niệm này dưới 2 góc độ:
* Góc độ xã hội:
Đạo đức là một hình thái xã hội đặc biệt được phản ánh dưới dạng
nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con
người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người
với xã hội, giữa con người với nhau và với chính bản thân mình.
* Góc độ cá nhân:

Đạo đức chính là những sản phẩm, nhân cách của con người, phản
ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong
các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ
với người khác và với chính bản thân mình.
Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của cá nhân, của con
người là quá trình tác động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hoá
những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức - xã hội thành
những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt
đạo đức, công dân và đáp ứng các yêu cầu của xã hội.
Quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục
đích, có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức theo yêu
cầu của xã hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức của cá nhân, nhằm góp

6


phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của xã
hội.
Đặc điểm của quá trình giáo dục đạo đức
- Có sự gắn kết chặt chẽ với quá trình dạy học trên lớp và dạy học
giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Có định hướng thống nhất các yêu cầu, mục đích giáo dục giữa các
tổ chức giáo dục trong và ngoài nhà trường.
- Tính biện chứng, phức tạp trong quá trình phát triển, biến đổi về
nhân cách của học sinh về mặt đạo đức.
- Tính lâu dài của quá trình hình thành, phát triển các phẩm chất đạo
đức.
- Tính đột biến và khả năng tự biến đổi.
- Phát triển thông qua hoạt động và giao lưu tập thể.
- Tính cá thể hoá cao.

- Chứa nhiều mâu thuẫn.
- Có sự tương tác hai chiều giữa nhà giáo dục và đối tượng được giáo
dục.
- Tính khó khăn trong việc đánh giá kết quả, sự phát triển đạo đức của cá
nhân.
Chức năng, nhiệm vụ của quá trình giáo dục đạo đức
- Quá trình giáo dục đạo đức là một bộ phận cấu thành quá trình giáo
dục trong trường THPT. Tạo ra nhịp cầu gắn kết giữa nhà trường và xã hội,
con người với cuộc sống.
- Giáo dục đạo đức được xem là nền tảng, gốc rễ tạo ra nội lực tiềm
năng vững chắc cho các mặt giáo dục khác.
- Giáo dục đạo đức phải làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế
giới quan Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, tính

7


chân lý khách quan của các giá trị đạo đức, nhân văn, nhân bản của các tư
tưởng đó, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình.
- Giáo dục đạo đức phải thấm nhuần các chủ trương, chính sách của
Đảng, biết sống và làm việc theo pháp luật, sống có kỷ cương nền nếp, có
văn hoá trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và
giữa con người.
- Trên cơ sở thông qua việc tiếp cận với cuộc đấu tranh cách mạng
của dân tộc và hoạt động của cá nhân để củng cố niềm tin và lẽ sống, lý
tưởng sống, lối sống theo con đường CNXH.
- Giáo dục đạo đức phải làm cho nhận thức ngày càng sâu sắc
nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực và các giá trị đạo đức xã hội XHCN. Biến
các giá trị đó thành ý thức, tình cảm, hành vi, thói quen và cách ứng xử
trong đời sống hàng ngày.

- Quá trình giáo dục đạo đức cần phải theo đặc điểm của từng loại
đối tượng trong giáo dục.
- Quá trình giáo dục đạo đức có nhiệm vụ: Phát triển nhu cầu đạo
đức cá nhân; hình thành và phát triển ý thức đạo đức; rèn luyện ý chí, hành
vi, hình thành thói quen ứng xử đạo đức; phát triển các giá trị đạo đức cá
nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời đại.
- Quá trình giáo dục đạo đức không chỉ định hướng cho các hoạt
động giáo dục đạo đức mà còn định hướng cho hoạt động dạy học nói
chung, dạy môn học đạo đức nói riêng (môn GDCD, một số môn học
khác…). Với tư cách là người quản lý giáo dục, trước hết cần phải hiểu biết
một cách sâu sắc những vấn đề chung của quá trình giáo dục đạo đức. Từ
đó mới có những định hướng, mục tiêu sát thực, xây dựng được những
chương trình, kế hoạch khả thi và có những biện pháp tổ chức chỉ đạo thích
hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quản lý giáo dục nói chung,
quá trình giáo dục đạo đức nói riêng.

8


Nội dung giáo dục đạo đức
Trong giai đoạn hiện nay, ở nước ta đang diễn ra công cuộc đổi mới
sâu sắc trong phạm vi toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục luôn được coi trọng,
là "Quốc sách hàng đầu". Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
cho học sinh cần được coi trọng và đặt lên vị trí hàng đầu.
Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cần phải tăng cường giáo dục
thế giới quan khoa học. Trên cơ sở tăng cường thế giới quan khoa học cần
tăng cường giáo dục tư tưởng cách mạng XHCN cho học sinh. Qua giáo
dục đạo đức phải nâng cao lòng yêu nước, tăng cường ý thức lao động và
tự lao động (động cơ, thái độ đúng đắn, chăm chỉ, nỗ lực vươn lên làm chủ
khoa học). Bên cạnh đó cũng phải đồng thời tăng cường giáo dục pháp luật,

giáo dục lòng thương yêu con người và hành vi ứng xử có văn hoá (không
ăn nói cục cằn, thô lỗ, thiếu văn hoá, thiếu tôn trọng người khác, biết ứng
xử lễ phép tế nhị, lịch sự)
Trong nhà trường phổ thông, các phẩm chất đạo đức cần trau dồi cho
học sinh một cách liên tục, khoa học, hợp lý, và được phân thành từng
nhóm theo từng mối quan hệ xã hội: quan hệ cá nhân với xã hội, cộng đồng
(trung thành với lý tưởng CNXH và CNCS, yêu nước XHCN, yêu hoà
bình, tự hào dân tộc, tin yêu Đảng và kính yêu Bác Hồ…); quan hệ cá nhân
với lao động (chăm chỉ học tập, say mê khoa học kỹ thuật, quý trọng lao
động); quan hệ cá nhân với bản thân, với người khác như ruột thịt, bạn bè,
đồng chí; đồng thời cũng phải giáo dục đạo đức gia đình, quan hệ bạn bè,
tình yêu.
1.2. Cơ sở pháp lý của công tác giáo dục đạo đức học sinh trong
trường THPT
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá
VIII đã nêu rõ: "Nhiệm vụ mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng
những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và

9


CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, CNH-HĐH đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân
tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm
năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy
tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại,
có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức kỷ luật cao là những con người kế thừa
và xây dựng CNXH vừa hồng vừa chuyên".
Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 2, Chương I) nêu rõ: "Mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri

thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc".
Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 23, mục 2, Chương II): "Mục tiêu
của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
- Điều lệ trường THCS, trường THPT, trường THPT có nhiều cấp
học ban hành theo Thông tư số 12/2011/TT- BGDĐT (Điều 28, Chương
III) quy định về việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học
sinh và việc thông tin với phụ huynh học sinh.
- Điều lệ trường THCS, trường THPT, trường THPT có nhiều cấp
học (Điều 41, Chương V) quy định những điều cấm đối với học sinh.
- Điều lệ trường THCS, trường THPT, trường THPT có nhiều cấp
học (Điều 45, 46, 47 Chương VII) quy định về quan hệ giữa nhà trườnggia đình và xã hội.

10


1.3. Cơ sở thực tiễn của công tác giáo dục đạo đức học sinh trong
trường THPT
Hồ Chủ tịch đã dạy: “Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là
một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của công tác trong nhà trường
XHCN. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài, đức là đạo
đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH của nước ta, đòi hỏi con người
Việt Nam phát triển toàn diện đúng như định hướng của Đảng. Song trong

thực tế không ít học sinh không xác định được hướng đi đúng đắn, nhận
thức còn hạn chế, không có lí tưởng rõ ràng, không chịu phấn đấu rèn
luyện, sống chỉ biết đòi hỏi quyền lợi mà không tự hỏi mình đã cống hiến
gì cho xã hội và những người xung quanh.
Giáo dục đạo đức học sinh phải được tiến hành bằng nhiều biện
pháp, có mục tiêu phù hợp. Phải được xây dựng nội dung, kế hoạch cụ thể
và được làm thường xuyên liên tục, phải có hệ thống mới đạt kết quả cao.
Giáo dục đạo đức cho học sinh phải được tiến hành bằng nhiều hình
thức phong phú, linh hoạt, phù hợp với lứa tuổi học sinh. Thông qua các
hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Đồng thời phải biết kết hợp
giáo dục giữa nhà trường - gia đình - xã hội để tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Huy động mọi nguồn lực, mọi sự hỗ trợ của tất cả các tổ chức, các cơ quan
ban ngành, các đoàn thể cùng phối hợp để thực hiện tốt xã hội hoá giáo
dục, góp phần nâng cao đạo đức, chất lượng cho học sinh.

11


Chương 2
Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh
trường THPT Hoàng Hoa Thám
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế- xã hội của phường Yên Thế
Phường Yên Thế nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thành phố Pleiku,
có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh trật tự, phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của thành phố. Diện tích tự nhiên 1,276,13 ha; dân số
4.067 hộ với 18.108 nhân khẩu, có 17 tổ dân phố với 4.051 hộ là dân
tộc kinh- 18.076 nhân khẩu và 1 làng đồng bào dân tộc thiểu số
Brukngol (Tày, Êđê, Chăm, Giao và Giẻ Triêng). Là phường vùng
ven, đời sống kinh tế của đại bộ phận nhân dân chủ yếu phụ thuộc vào
nông nghiệp, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày được cải

thiện. Các ban ngành đoàn thể ngày được củng cố vững chắc, và hoạt
động có hiệu quả cao.
Về chính trị: Trong những năm qua, Đảng uỷ phường làm tốt công
tác vận động quần chúng nêu cao tinh thần cảnh giác đấu tranh làm thất bại
âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ địch, giữ vững an ninh chính trị- trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn phường. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được phát huy, niềm tin của cán bộ đảng viên và nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng được nâng lên khá cao.
Kinh tế phát triển hàng năm, đời sống của nhân dân ngày càng được
cải thiện. Áp dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, nhiều
loại giống cây trồng mới đạt hiệu quả được nhân dân đưa vào đầu tư canh
tác với diện tích lớn, tập trung chủ yếu là các loại cây ăn quả, cây công
nghiệp như: cao su, cà phê, sầu riêng, bơ, ...; nhiều hộ gia đình mạnh dạn
thành lập trang trại gia đình, mở doanh nghiệp tư nhân đáp ứng nhu cầu của
người dân địa phương. Hạ tầng đường giao thông được đẩy mạnh đầu tư
xây dựng.

12


Về văn hoá xã hội, các cuộc vận động xây dựng quỹ đền ơn đáp
nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ chăm sóc người cao tuổi, quỹ bảo trợ trẻ
em đạt kết quả cao; cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới ở khu dân cư” đã đi vào chiều sâu và có hiệu quả cao; các chính sách
xã hội khác được quan tâm nhiều.
2.2. Một số nét về trường THPT Hoàng Hoa Thám
Trường THPT Hoàng Hoa Thám nằm trên địa bàn phường Yên
Thế, vùng ven thành phố Pleiku, được thành lập vào ngày 01 tháng 02 năm
1996 theo quyết định số 98/QĐUB của UBND tỉnh Gia Lai. Quá trình xây
dựng và phát triển, đội ngũ giáo viên của nhà trường ngày càng lớn mạnh

cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng đáp ứng
tương đối đầy đủ cho nhu cầu giảng dạy của thầy và học tập của trò, đặc
biệt là chất lượng giáo dục học sinh. Nguồn học sinh được xét tuyển chủ
yếu là con em thuộc các phường, xã lân cận của thành phố (xã An Phú và
xã Biển Hồ) và một số xã của các huyện (xã Chư Đăng Ya- ChưPăh, xã
IaDêr- Iagrai).
Năm học 2012-2013, nhà trường có 37 lớp với tổng số học sinh là
1555 (Tính đến hết HKI). Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên gồm 92
đồng chí. Cơ cấu tổ chức của nhà trường như sau:
- Chi bộ gồm 22 đồng chí đảng viên- Luôn đạt chi bộ TSVM.
- Lãnh đạo nhà trường gồm 4 đồng chí được phân công nhiệm vụ cụ thể.
- Tổ chức Công đoàn được kiện toàn và luôn đạt CĐCS vững mạnh xuất
sắc.
-Tổ chức Đoàn thanh niên có 38 chi đoàn, trong đó 37 chi đoàn học sinh và
1 chi đoàn giáo viên (CĐGV gồm 15 đồng chí). Luôn đạt đạt danh hiệu
vững mạnh xuất sắc.

13


Kết quả giáo dục trong 2 năm gần đây như sau :
Năm học

Kết quả hạnh kiểm

Số học
Tốt

Khá


TB

Yếu

753

347

374

08

50.8%

23.4%

25.2%

0.6%

689

369

290

03

51.0%


37.3%

21.5%

0.2%

sinh

2010-2011

1482

2011-2012

1351

Kết quả học tập

Số
học
Năm học

sinh

2010-2011

1482

2011-2012


1351

HS đậu

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

39

250

676

431

86

478/490

2.6%

16.9%


45.6%

29.1%

5.8%

97.55%

38

270

664

350

29

378/379

2.8%

20.0%

49.1%

25.9%

2.2%


99.73%

đại học

Qua bảng trên, chúng ta thấy rất rõ rằng kết quả giáo dục của năm
học sau cao hơn năm học trước.
Số học sinh vi phạm buộc phải xử lí kỷ luật cũng theo xu hướng
giảm đi nhiều. Học sinh vi phạm bị xử lí kỷ luật ở các mức độ đuổi học,
đuổi học 1 tuần, hoặc cảnh cáo cũng giảm nhiều. Học sinh khối 11, khối 12
có ý thức hơn nên ít vi phạm hơn học sinh khối 10. (phụ lục 1, 2)
Đạt được kết quả trên đó là nhờ sự nỗ lực của đội ngũ quản lý, các tổ
chức trong nhà trường, đặc biệt là tập thể hội đồng sư phạm nhà trường.
2.3. Những tồn tại, khó khăn
Trong những năm công tác trước đây tại trường (từ năm 2010 trở về
trước), tôi nhận thấy do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan làm
cho chất lượng giáo dục chưa cao đó là kỷ cương nề nếp của học sinh chưa
14


thực sự được đưa lên hàng đầu, còn thiếu những giải pháp cụ thể trong việc
nâng chất lượng chất lượng đạo đức cho học sinh. Việc kết hợp giữa giáo
dục nhà trường - gia đình - xã hội còn chưa thật sự sâu sát. Nhiều trường
hợp địa phương còn bao che, giải quyết chưa nhất quán. Nhiều phụ huynh
phó mặc con em cho nhà trường vì mải đi kiếm sống xa nhà hoặc nuông
chiều quá mức, bất lực trong giáo dục con cái. Một số giáo viên còn trẻ
chưa có nhiều kinh nghiệm trong xử lý tình huống sư phạm, thiếu kinh
nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp, đôi khi còn lúng túng, hoặc quá cứng
nhắc, áp đặt, thiếu tính thuyết phục trong công tác giáo dục học sinh. Bên
cạnh đó, chất lượng đầu vào còn thấp so với mặt bằng, năng lực tiếp thu
kiến thức của học sinh còn hạn chế đã dẫn đến ở học sinh còn có những

biểu hiện sa sút về mặt đạo đức như sau:
- Một số em chưa xác định được mục tiêu học tập, có nhiều trường
hợp coi việc học là do gia đình yêu cầu nên thiếu động cơ học tập.
- Phần lớn các em là con nhà nông hoặc buôn bán nhỏ, một số học
sinh ở trọ vì nhà xa, số khác phải tự lập ở nhà một mình vì bố mẹ đi làm lô
rẫy xa nên trong giao tiếp các em còn vụng về, hay nói trống không hoặc
nói năng còn cục cằn không suy nghĩ, nhiều lúc còn phát ngôn bừa bãi.
- Một số em còn mải chơi, đua đòi, thiếu trung thực trong học tập,
cúp học chơi games thậm chí có em còn gây bè phái đánh nhau làm mất trật
tự trong nhà trường.
2.4. Nhiệm vụ đặt ra trong công tác quản lý nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Hoàng Hoa Thám
Trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và phân tích cụ thể thực trạng công
tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường qua những năm học trước, từ năm
học 2010-2011 lãnh đạo nhà trường đã chỉ đạo làm tốt công tác giáo dục
đạo đức học sinh với nhiệm vụ cụ thể đó là:

15


a. Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng.
b. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên bộ môn và
giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức và rèn luyện nhân cách
cho học sinh (đặc biệt là GVCN).
c. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của Đoàn thanh niên và Hội
liên hiệp thanh niên Việt Nam.
d. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống.
e. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh.
f. Kết hợp giáo dục giữa nhà trường - xã hội - gia đình trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh.


16


Chương 3
Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở
trường THPT Hoàng Hoa Thám trong những năm gần đây
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng trong trường học
Trong trường THPT vị trí của Chi bộ là trung tâm chính trị tập hợp
các lực lượng quần chúng nhằm thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Chi bộ chỉ đạo các hoạt động
của nhà trường, là hạt nhân, là nền tảng của sự đoàn kết, chính vì thế luôn
quan tâm xây dựng chi bộ nhà trường trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt
vai trò của mình, thực hiện phương châm "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm
chủ, Nhà nước quản lý". Mỗi một đảng viên phải đầu tàu gương mẫu trong
mọi hoạt động, đặc biệt là trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Thường xuyên cập nhật thông tin, quán triệt các quan điểm, đường
lối, nghị quyết của Đảng và các cấp chính quyền. Sinh hoạt định kỳ vào
đầu tháng để đề ra chủ trương kế hoạch cụ thể, giao trách nhiệm cho các tổ
chức trong nhà trường thực hiện. Thường xuyên quan tâm công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, giáo viên, học sinh. Đặc biệt đề
ra nghị quyết chuyên đề về giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà
trường.
Theo dõi kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sửa chữa những tư tưởng lệch
lạc sai đường lối, chủ trương mà chi bộ đã đề ra.
3.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên bộ môn
và giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức và rèn luyện nhân
cách cho học sinh
3.2.1. Đối với giáo viên bộ môn
Đặc thù của người giáo viên vừa là nhà sư phạm, vừa là nhà tổ chức,

vừa tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Phương tiện lao động của
người giáo viên là phẩm chất nhân cách và trí tuệ của chính họ. Những

17


phẩm chất đó tạo nên sức mạnh, niềm tin và lý tưởng nó thấm nhuần vào
bài giảng, từng hoạt động giáo dục của họ. Để giáo dục đạo đức cho học
sinh trước hết cần chú ý bồi dưỡng lòng nhân ái sư phạm cho đội ngũ giáo
viên. Lòng nhân ái tình yêu thương con người là cái gốc của đạo lý làm
người, tình yêu thương học sinh là điểm xuất phát của sự sáng tạo sư phạm
làm cho giáo viên có trách nhiệm cao với công việc của mình.
Xukhômlinski đã nói "nhờ sức mạnh của tình yêu đó mà nhà sư phạm có
tâm hồn cao thượng, tinh thần sảng khoái, trí tuệ sáng suốt, tình cảm nhạy
bén và tinh tế …" . Tình yêu thương học sinh thể hiện trong các hoạt động
dạy học và giáo dục đó cũng là cơ sở xuất phát của tình yêu nghề. Ý thức
thái độ và tình yêu nghề thể hiện ở việc không ngừng nâng cao phẩm chất
đạo đức để trở thành gương sáng, tạo niềm tin trước học sinh, trước nhân
dân. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt yêu cầu đạo đức của người
thầy lên hàng đầu, người đòi hỏi thầy giáo "không những phải có trí tuệ
phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng chỉ vì quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách đạo đức …". Đối với người giáo viên lòng yêu
nghề, sự say sưa hứng khởi, sự kiên trì, khắc phục khó khăn trong học hỏi
rèn luyện, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục, tất cả vì học sinh thân
yêu là biểu hiện đạo đức cách mạng và lý tưởng nghề nghiệp.
Chính vì vậy mà tập thể nhà trường đã xây dựng được phong trào tự
học, tự rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng cho
cán bộ giáo viên (thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, họp hội đồng
sư phạm, các buổi học tập chính trị); đẩy mạnh thực hiện tốt cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy giáo,

cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”
Từ đó giáo viên thấy được vai trò của mình và có ý thức tham gia
vào hoạt động giáo dục đạo đức học sinh thông qua các bài học trên lớp.
Thông qua các tiết dạy học hoặc các buổi sinh hoạt ngoại khóa, giáo viên
bộ môn có thể đan xen, lồng ghép, tích hợp các kiến thức vào giáo dục đạo
18


đức học sinh như: Môn Ngữ văn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, lòng yêu
thương con người, biết phân biệt các việc nên làm, biết ghét cái xấu, biết
làm theo điều thiện, biết giúp đỡ những con người hoạn nạn khó khăn. Với
môn học Lịch sử giúp học sinh hiểu biết truyền thống đấu tranh dựng nước
và giữ nước của ông cha ta, biết tự hào và trân trọng về những truyền thống
đó mà thấy rõ trách nhiệm của mình với quê hương đất nước. Môn Địa lý
qua các bài giảng giúp học sinh hiểu thêm về quê hương, đất nước những di
sản thế giới, những danh lam thắng cảnh của đất nước từ đó các em tăng
thêm lòng trân trọng và có ý thức bảo vệ các di sản, danh lam đó. Mặt khác
giúp học sinh hiểu về môi trường và bảo vệ môi trường. Đối với các môn
Khoa học tự nhiên giúp học sinh nhận thức, lựa chọn đánh giá đúng đắn
các giá trị và tìm ra những hành vi, biện pháp hợp lý trong đời sống đạo
đức của mình. Đặc biệt thông qua môn Giáo dục công dân giúp học sinh
nắm được các khái niệm cơ bản về các phạm trù đạo đức trong việc ứng xử
hàng ngày, nắm được các chuẩn mực đạo đức, các hành vi trong các hoạt
động và các mối quan hệ; biết rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, lương tâm, đạo
đức, kỹ năng sống để chuẩn bị bước vào cuộc sống mới.
- Thường xuyên động viên, nhắc nhở các giáo viên bộ môn để họ
hiểu trách nhiệm giáo dục đạo đức học sinh trong trường là một nhiệm vụ
của mọi người, không của riêng ai. Từ đó trong các giờ lên lớp giáo viên sẽ
chú ý hơn, quan tâm hơn để uốn nắn lời nói, tác phong, hành động của học
sinh trong việc thực hiện những nội quy, quy chế nhà trường. Biện pháp

này có tác động tích cực trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh.
Điều 31 chương IV khoản 1 điểm đ) - Điều lệ trường Trung học nêu
rõ: "Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước
học sinh; thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh."
Như vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc giáo dục đạo đức
học sinh.

19


3.2.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp quản lý học sinh, gần gũi, gắn
bó dễ tìm hiểu được tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của học sinh, là
người mà học sinh cảm thấy thân thiết như cha mẹ, như người thân ruột thịt
của mình, muốn thổ lộ, giải bày. Vì thế việc phân công giáo viên chủ
nhiệm lớp luôn được ưu tiên chú trọng, phải chọn trong các giáo viên vững
vàng về lập trường chính trị tư tưởng, có phẩm chất tốt, có nhiều kinh
nghiệm, yêu nghề, năng động, thương yêu học sinh, hết lòng vì sự nghiệp
giáo dục.
- Thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm để họ nắm
vững được nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình; lập kế hoạch, có
biện pháp, phương pháp giáo dục cụ thể phù hợp từng đối tượng học sinh
trong công tác chủ nhiệm. Đồng thời biết kết hợp với giáo viên bộ môn,
ban cán sự lớp và ban đại diện phụ huynh để theo dõi, giúp đỡ để kịp thời
uốn nắn, giáo dục học sinh, nhất là các học sinh có vấn đề về đạo đức, như
trong Điều 31 chương IV khoản 2 điểm c)- Điều lệ trường Trung học quy
định về nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm là: "Phối hợp chặt chẽ với gia
đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh… trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp
của học sinh”.

- Thành lập khối tổ giáo viên chủ nhiệm, tổ chức hội nghị giáo viên
chủ nhiệm để trao đổi và học tập kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao năng
lực chủ nhiệm.
- Giáo viên chủ nhiệm còn kết hợp chặt chẽ với Ban nề nếp, Ban
chấp hành Đoàn trường để kịp thời uốn nắn và xử lý nghiêm minh đối với
những học sinh vi phạm nội quy, quy định của trường như: đi muộn, trốn
học, bỏ tiết, trang phục không đúng quy định…

20


- Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự khách quan, công bằng trong
việc đánh giá xếp loại để tạo niềm tin cho học sinh. Đây là biện pháp tâm
lý rất quan trọng, có hiệu quả tích cực.
- Hàng tháng và cuối mỗi đợt thi đua, lãnh đạo nhà trường đánh giá
công tác quản lý lớp của giáo viên chủ nhiệm thông qua kết quả học tập và
rèn luyện của tập thể lớp phụ trách để động viên kịp thời những giáo viên
chủ nhiệm làm tốt công việc, bên cạnh đó cũng nhắc nhở các giáo viên chủ
nhiệm làm chưa tốt công việc của mình.
3.3. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh và Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam
Chăm lo xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ đoàn, hội là những
người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn, năng nổ nhiệt
tình trong mọi công việc.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp thanh niên
có trách nhiệm trước chi bộ, lãnh đạo nhà trường về giáo dục mục tiêu, lý
tưởng cách mạng cho đoàn viên, thanh niên trong nhà trường thông qua
nhiều hình thức: Hội thảo, thi tìm hiểu, vẽ tranh, ngoại khóa, cắm trại, giao
lưu với các đoàn trường bạn; thành lập các câu lạc bộ theo sở thích như:
câu lạc bộ yêu thơ, câu lạc bộ Toán học… nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến

thức một cách nhẹ nhàng từ đó hình thành các ước mơ và hoài bão cao đẹp.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp thanh niên
thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng tập huấn cán bộ đoàn nòng cốt,
bồi dưỡng đối tượng đoàn và coi trọng công tác phát triển đoàn viên mới
hàng năm.
Trong năm học, luôn phải bám sát nhiệm vụ năm học và nhiệm vụ
của Đoàn trường học để từ đó lập ra các kế hoạch cụ thể. Tổ chức tốt 10
chủ đề hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo từng tháng trong năm
học. Tổ chức các đợt thi đua theo từng chủ đề, thi đua dài hạn và ngắn hạn.

21


Thành lập đội cờ đỏ học sinh để thường xuyên kiểm tra đánh giá thi đua.
Đồng thời có sơ kết, tổng kết, kiểm tra, đánh giá chất lượng hoạt động để
có sự động viên khen thưởng các cá nhân, tập thể kịp thời, bên cạnh đó phê
bình khiển trách các cá nhân vi phạm để kịp thời sửa chữa.
Xây dựng kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa Đoàn trường, giáo viên
chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, đặc biệt với Đoàn cấp trên, với Ban đại diện
CMHS, tạo ra các hoạt động bổ ích góp phần giáo dục đạo đức học sinh.
Từ đó giúp các em học sinh có ý thức làm chủ, bồi dưỡng tình yêu thương,
ý chí cộng đồng tạo ra sự gắn kết giữa cá nhân - gia đình - xã hội. Bồi
dưỡng lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý. Rèn luyện đức
tính, cần cù, sáng tạo, ham học hỏi, suy nghĩ độc lập và có sự quyết đoán
trong mọi hoạt động. Cụ thể:
- Tổ chức thăm hỏi các gia đình thương binh liệt sĩ nhân ngày 27/7,
tổ chức tham gia chăm sóc khu danh lam thắng cảnh của địa phương (khu
danh lam Biển Hồ- Hồ TơNưng), chăm sóc nhà truyền thống ghi công của
Sư đoàn 320- Quân đoàn III,...
- Tổ chức các buổi lao động làm vệ sinh phát quang đường xá, cống

rãnh giúp đỡ các gia đình neo đơn, các gia đình khó khăn ở Làng Sơr- Biển
Hồ.
- Tham gia tốt các phong trào từ thiện, nhân đạo. Tổ chức tốt tháng
thanh niên cho đoàn viên, thanh niên.
- Từng tháng có kế hoạch tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia
các hoạt động bảo vệ môi trường ở nhà trường và ở nơi công cộng.
- Tham gia và chăm sóc tốt công trình thanh niên (hệ thống cây xanh
và vườn hoa trong khuôn viên nhà trường).
Bên cạnh đó còn kết hợp với công an phường Yên Thế, tổ chức
tuyên truyền, giáo dục ý thức của đoàn viên thanh niên về trật tự giao
thông, an toàn xã hội, tránh xa các tệ nạn xã hội. Đồng thời tổ chức lễ ký

22


kết bàn giao các đoàn viên cho địa phương trong dịp hè, dựa vào kết quả
hoạt động hè tại địa phương để làm tiền đề đánh giá ý thức của đoàn viên
trong năm học tiếp theo.
3.4. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống
Đầu năm học mới nhà trường giới thiệu cho học sinh truyền thống
của nhà trường, các hình ảnh về những tháng năm mới thành lập còn nhiều
gian khổ, những thành tích mà nhà trường đã đạt được, các thế hệ đã
trưởng thành từ nhà trường, nay đang góp sức xây dựng quê hương đất
nước, các thế hệ thầy cô giáo đã và đang công tác trong nhà trường và các
thành tích của họ thông qua tập san định kỳ của nhà trường.
Hàng năm, tổ chức chương trình “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ
trường THPT Hoàng Hoa Thám” để đoàn viên, thanh niên có cơ hội gặp
gỡ và giao lưu với học sinh cũ đã thành đạt. Đây là cơ hội và việc làm có
tác động tích cực động viên học sinh trong học tập và hành động.
Tổ chức các buổi nói chuyện, toạ đàm của các cán bộ lão thành cách

mạng thuộc Hội Cựu chiến binh phường Yên Thế với đoàn viên, thanh niên
trong nhà trường. Từ đó hình thành trong học sinh lòng yêu quê hương đất
nước, ý chí tự cường về mái trường, về quê hương, lòng tự hào dân tộc.
Tổ chức tốt tháng Thanh niên, huy động "Thanh niên tình nguyện",
tham gia chiến dịch “Mùa hè xanh” . Trong những dịp sinh hoạt này học
sinh gặp gỡ, giúp đỡ các gia đình khó khăn, các gia đình có công với cách
mạng để bồi dưỡng lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý.
Tổ chức tốt lễ trưởng thành - tri ân cho học sinh khối lớp 12 hàng
năm.
Lập kế hoạch, tổ chức tốt các đợt thi đua theo các chủ đề, cuối mỗi
đợt thi đua đều có đánh giá và xếp loại cho từng cá nhân học sinh theo chi
đoàn, chi hội.

23


3.5. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh
Tập thể học sinh là một tổ chức có cùng môi trường học tập, có cùng
lứa tuổi, là nơi các em dễ bộc lộ bản thân. Vì thế giáo viên chủ nhiệm cần
giúp các em học sinh xây dựng được một tập thể lớp có kế hoạch và tổ
chức hoạt động tự quản.
Để phát huy được hoạt động tự quản của học sinh cần có sự đầu tư
về đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ chi đoàn cụ thể:
- Ban cán sự lớp là những học sinh có phẩm chất, có năng lực, nhiệt
tình và có uy tín với tập thể lớp.
- Căn cứ vào số lượng học sinh phân chia lớp thành các tổ có tỷ lệ
chất lượng, phù hợp với vị trí địa lý. Trong mỗi tổ có thể chia thành các
nhóm nhỏ có cùng sở thích, tổ chức tốt phong trào "đôi bạn cùng tiến"
- Có sự định hướng giữa giáo viên chủ nhiệm với Ban chấp hành
đoàn trường về cơ cấu nhân sự của Ban chấp hành chi đoàn để có sự thống

nhất điều hành hoạt động của tập thể lớp.
Đội ngũ cán sự lớp và Ban chấp hành chi đoàn có nhiệm vụ điều
hành hoạt động của lớp theo các tiêu chí của lớp và quyết định của nhà
trường. Điều hành tập thể lớp giúp giáo viên chủ nhiệm trong các hoạt
động tập thể.
Sau mỗi đợt phát động thi đua, cuối học kỳ, cuối năm học, cán sự lớp
phải có trách nhiệm đánh giá và xếp loại kịp thời để biểu dương, khen
thưởng các tổ, các cá nhân thành viên tốt, đồng thời nhắc nhở, khiển trách
và có biện pháp điều chỉnh các vi phạm.
Cán sự lớp kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, đoàn trường, tìm hiểu
và nắm được hoàn cảnh, sức khoẻ, đặc biệt là các em có hoàn cảnh khó
khăn, hạn chế về nhận thức hoặc có mặc cảm về cuộc sống, bạn bè, để có
kế hoạch giúp đỡ, chia sẻ, tương thân tương ái, tin yêu bạn bè, động viên
khuyến khích bạn vượt qua hoàn cảnh, vượt lên số phận.
24


3.6. Kết hợp giữa giáo dục nhà trường - gia đình - xã hội để giáo
dục đạo đức học sinh
Hoạt động giáo dục học sinh là nhiệm vụ của toàn xã hội, đạo đức
học sinh lại càng cần sự phối kết hợp của toàn xã hội. Chính vì lẽ đó mà
trong những năm qua nhà trường đã xây dựng Ban đại diện cha mẹ học
sinh lớp hoạt động tích cực có hiệu quả. Hàng tháng GVCN thông tin về
học tập và rèn luyện kịp thời cho gia đình để cùng nhau giáo dục học sinh.
Đồng thời nắm chắc, tìm hiểu cụ thể những thông tin phản hồi từ phía phụ
huynh học sinh. Từ đó phối hợp với gia đình để uốn nắn, giáo dục học sinh
khi sự việc còn ở trứng nước, tránh trường hợp xảy ra mới xử lý.
Bên cạnh đó đã thực hiện tốt cam kết giữa học sinh - nhà trường - gia
đình - xã hội. Việc thực hiện cam kết không vi phạm pháp luật, không sa
vào các tệ nạn xã hội giữa học sinh và công an được làm thường xuyên

trong năm học. Xây dựng đề án an ninh trường học kết hợp với an ninh địa
phương có học sinh học tại trường, thông tin, thông báo các hiện tượng học
sinh vi phạm và có biện pháp cùng nhau giáo dục. Nhà trường cùng với
Ban đại diện CMHS luôn có sự liên hệ chặt chẽ với chính quyền địa
phương, thông qua các cấp chính quyền địa phương để quản lý học sinh
cùng với nhà trường và gia đình. Với đề án an ninh trường học này trong
mấy năm qua hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật giảm rõ rệt.
- Trường hợp có học sinh vi phạm kỷ luật, nhà trường kết hợp với
Ban đại diện CMHS, và cha mẹ học sinh vi phạm để kịp thời giáo dục một
cách nghiêm khắc. Đồng thời có kế hoạch theo dõi và giúp đỡ học sinh vi
phạm tiến bộ.

25


×