Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.57 KB, 12 trang )

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM
Phùng Văn Nghệ1
Ngành Quản lý đất đai Việt Nam tính từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc
lệnh số 41 ngày 03 tháng 10 năm 1945 để kết thúc hoạt động của cơ quan quản lý
đất đai thuộc Thực dân Pháp và mở đầu cho hoạt động quản lý đất đai của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tới nay đã trải qua 65 năm phát triển. Ngành
đã có nhiều đóng góp lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở bất kỳ
giai đoạn lịch sử nào, ngành Quản lý đất đai Việt Nam đều đóng vai trị quan
trọng trong hệ thống tổ chức Nhà nước.
I. VÀI NÉT VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI DƯỚI CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN
VIỆT NAM VÀ TRONG THỜI KỲ PHÁP THUỘC

Do vai trò đặc biệt quan trọng của đất đai, các Nhà nước phong kiến Việt
Nam đã quan tâm đến công tác quản lý đất đai, mà trước hết là việc đưa ra các
chính sách, pháp luật điều tiết các quan hệ về đất đai. Chính sách đất đai trước
hết tập trung vào việc thu thuế điền và xác định các hình thức sở hữu về đất đai
như sở hữu tư nhân, sở hữu công làng xã và sở hữu trực tiếp của Nhà nước - "Đất
vua, chùa làng".
Mỗi triều đại (Lý - Trần - Hồ - Lê - Nguyễn) đều lựa chọn cho mình
phương pháp xử lý các mối quan hệ về đất đai theo cách riêng, phù hợp với từng
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, lợi ích cụ thể của giai cấp thống trị và yêu
cầu xây dựng của nhà nước đương thời. Tuy nhiên, các triều đại phong kiến Việt
Nam phải mất 31 năm, từ năm Gia Long thứ 4 (1805) đến năm Minh Mạng thứ
17 (1836), khắp cõi đất Việt Nam mới ghi chép đầy đủ từng mảnh ruộng, sở đất,
con đường, khu rừng, núi sông... vào sổ địa bạ của mỗi làng, từ thành thị đến
vùng biên cương. Cơng trình đo đạc, thành lập địa bạ trên quy mơ tồn quốc của
Nhà Nguyễn là cơng trình to lớn và có ý nghĩa nhất trong lịch sử quản lý đất đai
thời kỳ phong kiến Việt Nam, đóng góp rất quan trọng trong việc hoạch định các
chính sách về quản lý đất đai và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam ở thế kỷ thứ
XIX. Hiện nay, nước ta đang lưu giữ 11.000 quyển địa bạ của thời kỳ này và trở


thành một tư liệu lịch sử quý giá của Quốc gia.
Thời kỳ Pháp thuộc, Thực dân Pháp chú trọng phát triển chế độ sở hữu
lớn về ruộng đất ở Nam Kỳ, duy trì chế độ cơng điền và chế độ sở hữu nhỏ ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ. Tổ chức hệ thống quản lý đất đai trên lãnh thổ Việt Nam theo 3
cấp: Cơ quan quản lý Trung ương là Sở Địa chính thuộc Thống sứ Bắc Kỳ,
Khâm sứ Trung Kỳ và Thống đốc Nam Kỳ, về sau trực thuộc Phủ Tồn quyền
Đơng Dương; Cơ quan cấp tỉnh là Ty Địa chính; cấp cơ sở làng xã có nhân viên
địa chính là chưởng bạ ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và hương bộ ở Nam Kỳ. Thực dân
Pháp đã tiến hành đo đạc bản đồ địa chính từ năm 1871 ở Nam Kỳ, sau đó cơng
việc đo đạc được triển khai ra khắp lãnh thổ. Các bản đồ được xây dựng để thành
lập hồ sơ địa chính phục vụ cho việc thu thuế, quản lý đất đai.
                                                            
1

Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai

12


II. QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra một kỷ nguyên
mới của nước Việt Nam, kỷ nguyên dân tộc độc lập, dân quyền, dân chủ. Trải
qua gần 65 năm, kể từ ngày 03/10/1945 cho đến nay, ngành Quản lý đất đai Việt
Nam đã trưởng thành và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau với cơ
cấu tổ chức, tên gọi khác nhau. Có thể tóm tắt lịch sử q trình hình thành và
phát triển của Ngành theo các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn 1945 - 1959
Sau khi giành được độc lập, cơ quan quản lý đất đai của Phủ Tồn quyền
Đơng Dương là Sở Trước bạ - Văn tự - Quản thủ điền thổ và Thuế Trực thu được

Bộ Tài chính tiếp nhận (Sắc lệnh số 41 ngày 03 tháng 10 năm 1945 của Chủ tịch
nước). Sau đó ngành Địa chính được thiết lập (Sắc lệnh số 75 ngày 29 tháng 5
năm 1946 của Chủ tịch nước) với tên gọi Nha Trước bạ - Cơng sản - Điền thổ.
Kèm theo đó là hệ thống các đơn vị trực thuộc ở 03 cấp tỉnh, huyện, xã nhằm duy
trì, bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ. Đến năm 1953 do yêu
cầu của kháng chiến, các Ty Địa chính được sáp nhập vào Bộ Canh nơng, rồi trở
lại Bộ Tài chính để phục vụ mục đích thu thuế nơng nghiệp.
Cải cách ruộng đất năm 1953 - 1958 đã mang lại sự khởi sắc cho ngành Địa
chính. Đứng đầu là Sở Địa chính thuộc Bộ Tài chính, hệ thống các cơ quan ngành
dọc của Sở trực thuộc Ủy ban hành chính các cấp, có nhiệm vụ phối hợp với các
cơ quan khác thực hiện kế hoạch hóa và hợp tác hóa nơng nghiệp nông thôn.
Như vậy, từ 1945 đến 1959 hoạt động của ngành Quản lý đất đai chủ yếu là
hình thành hệ thống cơ quan quản lý đất đai trong chế độ mới với chức năng,
nhiệm vụ bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ. Trong những năm
kháng chiến chống Pháp, ngành Địa chính đã có một số thay đổi về hoạt động góp
phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ huy động thuế nông nghiệp phục vụ kháng
chiến, kiến quốc. Sau thắng lợi của cuộc Cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1953 1958), ngành Địa chính đã thực hiện tốt các nhiệm vụ: tổ chức đo đạc, lập bản đồ
giải thửa và sổ sách địa chính để nắm diện tích ruộng đất, phục vụ việc kế hoạch
hóa và hợp tác hóa nơng nghiệp, tính thuế ruộng đất, xây dựng đô thị.
2. Giai đoạn 1960 - 1978
Do sự phát triển quan hệ ruộng đất ở nông thôn và củng cố quan hệ sản
xuất Xã hội chủ nghĩa, ngành Quản lý ruộng đất được thiết lập (Nghị định số 70CP ngày 09 tháng 12 năm 1960 và Nghị định số 71-CP ngày 09 tháng 12 năm
1960 của Hội đồng Chính phủ), chuyển từ Bộ Tài chính sang Bộ Nông nghiệp
với nhiệm vụ quản lý mở mang, sử dụng và cải tạo ruộng đất trong nông nghiệp.
Quản lý ruộng đất bao gồm 3 nội dung chủ yếu: Lập bản đồ, địa bạ về ruộng đất,
thường xuyên chỉnh lý bản đồ và địa bạ cho phù hợp với sự thay đổi về hình thể
ruộng đất, về quyền sở hữu, sử dụng ruộng đất, về tình hình canh tác và cải tạo
ruộng đất; Thống kê diện tích, phân loại chất đất; Nghiên cứu xây dựng các luật
lệ, thể lệ về quản lý ruộng đất trong nông nghiệp và hướng dẫn, kiểm tra việc thi
hành các luật lệ, thể lệ ấy. Hệ thống quản lý ruộng đất được tổ chức thành 4 cấp:

Trung ương là Vụ Quản lý ruộng đất; cấp tỉnh là Phòng Quản lý ruộng đất; cấp
huyện là Bộ phận Quản lý ruộng đất; cấp xã là Cán bộ quản lý ruộng đất.
13
 


Tóm lại, trong giai đoạn 1960 - 1978, ngành Quản lý ruộng đất đã phát
triển hệ thống bộ máy và đội ngũ cán bộ từ Trung ương tới địa phương, mở rộng
các nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Cơ quan quản lý ruộng đất có nhiệm
vụ chủ yếu là giúp Bộ Nông nghiệp “quản lý việc mở mang, sử dụng và cải tạo
ruộng đất trong nông nghiệp”. Ngành Quản lý ruộng đất đã có những đóng góp to
lớn trong việc mở rộng và sử dụng có hiệu quả diện tích đất nơng nghiệp, xây
dựng kinh tế hợp tác xã và phát triển nông thôn.
3. Giai đoạn từ 1979 đến nay
Để tăng cường công tác quản lý đất đai, thống nhất các hoạt động quản lý
đất đai vào một hệ thống cơ quan chuyên môn, năm 1979, Tổng cục Quản lý
ruộng đất được thành lập - "Tổng cục Quản lý ruộng đất là cơ quan trực thuộc
Hội đồng Bộ trưởng, thống nhất quản lý nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trên
lãnh thổ cả nước nhằm phát triển sản xuất, bảo vệ đất đai, bảo vệ môi trường, sử
dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao đối với tất cả các loại đất" (Nghị quyết số
548/NQQH ngày 24 tháng 5 năm 1979 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội). Cơ
quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập theo 03 cấp:
- Cấp tỉnh, có Ban Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Sau Luật Đất đai năm 1987 cho tới năm 1993 hầu hết các Ban Quản lý ruộng đất
trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã chuyển thành Chi cục Quản lý đất đai
hoặc Chi cục Quản lý ruộng đất trực thuộc Sở Nông - Lâm nghiệp;
- Cấp huyện, có Phịng Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp
huyện, một số địa phương khu vực đô thị thành lập Phòng Quản lý nhà đất hoặc
Phòng Nhà đất; từ năm 1988 - 1994, Phòng Quản lý ruộng đất sáp nhập vào các
Phịng Nơng Lâm nghiệp hoặc Phịng Kinh tế;

- Cấp xã, có Cán bộ quản lý ruộng đất chuyên trách.
Trước yêu cầu về tổ chức lại các cơ quan quản lý Nhà nước và tăng cường
công tác quản lý đất đai, năm 1994 Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc
và Bản đồ Nhà nước được hợp nhất và tổ chức lại thành Tổng cục Địa chính
(Nghị định số 12/CP ngày 22 tháng 02 năm 1994 của Chính phủ). Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chính được quy định
tại Nghị định số 34/CP ngày 23 tháng 4 năm 1994 của Chính phủ, theo đó Tổng
cục Địa chính là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về đất đai và đo đạc - bản đồ trên phạm vi cả nước. Ngay sau khi thành lập Tổng
cục Địa chính, ở địa phương các Sở Địa chính được thành lập trên cơ sở Ban
Quản lý ruộng đất và trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chi cục Quản lý
ruộng đất hoặc Chi cục Quản lý đất đai. Một số thành phố lớn thành lập Sở Địa
chính - Nhà đất. Tại cấp huyện, từ năm 1995 cơ quan quản lý đất đai là Phịng
Địa chính (hoặc Phịng Địa chính - Nhà đất) trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp
huyện. Tại cấp xã, có Cán bộ Địa chính xã (hoặc phường, thị trấn) và thường
kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng.
Theo định hướng thành lập các Bộ đa ngành, năm 2002 Bộ Tài nguyên và
Môi trường được thành lập (Nghị quyết số 02/2002/QH11 của Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ nhất ngày 05 tháng 8
năm 2002 và và Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của
14
 


Chính phủ). Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tài ngun và mơi trường có 2 đơn vị
chun trách quản lý nhà nước về đất đai là Vụ Đất đai và Vụ Đăng ký và
Thống kê đất đai. Ngay sau đó, tại địa phương các Sở Tài ngun và Mơi
trường được thành lập trên cơ sở sáp nhập Sở Địa chính với các đơn vị quản lý
nhà nước về mơi trường, địa chất khoáng sản, tài nguyên nước. Chức năng quản
lý nhà nước về đất đai ở cấp tỉnh do một số đơn vị cấp phòng trực thuộc Sở Tài

nguyên và Mơi trường thực hiện. Tại cấp xã, có Cán bộ Địa chính xã (hoặc
phường, thị trấn) và thường kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng và
một số chức năng quản lý nhà nước khác thuộc lĩnh vực tài nguyên môi trường.
Để đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, năm
2008, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường được
quy định cụ thể hơn - Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ,
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: đất đai; tài nguyên
nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; mơi trường; khí tượng, thuỷ văn; đo đạc,
bản đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo; quản lý nhà nước các
dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ (Nghị định số
25/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Theo Quyết định số 134/2008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 10 năm 2008 của
Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Quản lý đất đai được thành lập, là cơ quan trực
thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, để tập trung các hoạt động quản lý nhà
nước về đất đai ở cấp Trung ương về một đầu mối chuyên trách. Tổng cục Quản
lý đất đai có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước; thực hiện các dịch vụ công
theo quy định của pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu:
- Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược,
chương trình quốc gia, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án về quản lý và sử dụng
đất đai để ban hành, phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, phê duyệt: quyết định, chỉ thị, thông tư, tiêu chuẩn quốc gia,
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế - kỹ thuật và định mức sử dụng đất.
Chỉ đạo, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, chương trình quốc gia, quy hoạch, kế
hoạch, đề án, dự án về quản lý và sử dụng đất đai sau khi được phê duyệt.
- Tổ chức triển khai thực hiện trên phạm vi toàn quốc đối với các nhiệm
vụ: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đăng ký và thống kê đất đai; giá đất; về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; về phát triển quỹ đất, quản

lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản; lưu
trữ và thông tin đất đai; về thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo; hợp tác quốc tế và nhiều nhiệm vụ chuyên môn khác...
Về cơ cấu tổ chức bộ máy, đến nay Tổng cục Quản lý đất đai có 14 đơn vị
trực thuộc, trong đó có 9 đơn vị quản lý nhà nước, 5 đơn vị sự nghiệp (bao gồm 2
đơn vị sự nghiệp mới được bổ sung là: Trung tâm Đào tạo và Truyền thông đất
đai; Trung tâm Kiểm định chất lượng sản phẩm địa chính).
Tại cấp tỉnh: Một số địa phương tiến hành thành lập Chi cục Quản lý đất
15
 


đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để thống nhất quản lý nhà nước về đất
đai vào một cơ quan chuyên trách. Đến nay, tổ chức của Ngành ở cấp tỉnh có cơ
cấu hồn chỉnh nhất gồm 63 Sở Tài ngun và Mơi trường với đầy đủ các phịng,
ban chức năng về quản lý đất đai và các đơn vị sự nghiệp. Ngồi ra cịn có: Trung
tâm Phát triển quỹ đất, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (hiện tại trong cả
nước có 63 Văn phịng cấp tỉnh và 55 tổ chức Phát triển quỹ đất cấp tỉnh); Quỹ
phát triển đất...
Tại cấp huyện: Cơ quan quản lý đất đai là Phịng Tài ngun và Mơi
trường. Ngồi ra, các địa phương đã thành lập Văn phòng Đăng ký quyền sử
dụng đất (đến nay cả nước có 528 Văn phịng cấp huyện) trực thuộc các Phịng
Tài ngun và Mơi trường để thực hiện các thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất,
lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp huyện.
Tại cấp xã: có Cán bộ Địa chính xã (hoặc phường, thị trấn) và thường
kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng và một số chức năng quản lý
nhà nước khác thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
Lực lượng cán bộ của Ngành ngày càng phát triển, hiện tại tồn Ngành có
trên 33.000 người. Trong đó, số cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp làm công

tác quản lý đất đai (chia theo các cấp) như sau: Trung ương có trên 450 người
(đại học và trên đại học 81%, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp 19%); cấp
tỉnh có trên 6.000 người (đại học và trên đại học 72%, cao đẳng và trung học
chuyên nghiệp 28%); cấp huyện có trên 12.000 người (đại học và trên đại học
67%, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp 33%); cấp xã, phường, thị trấn có
trên 11.000 cán bộ địa chính, với gần 73% đã qua các khố đào tạo chính quy,
bán chính quy (đại học 3,4%, trung học chuyên nghiệp 36,1%; sơ cấp 60,5%);
ngồi ra cịn hàng nghìn người ở các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức
khác đang phối hợp hoạt động với Ngành về đo đạc - bản đồ, quy hoạch (xây
dựng), giải quyết tranh chấp khiếu nại, tố cáo về đất đai (Thanh tra Chính phủ),
xử lý vi phạm về pháp luật đất đai (Kiểm sát, Tồ án) và các hoạt động kinh tế,
dịch vụ khác…
Cơng tác đào tạo cán bộ cho Ngành được quan tâm đầu tư, các trường
Trung học đã đào tạo được trên 21.000 cán bộ, hàng nghìn cơng nhân cung cấp
cho tồn Ngành. Bên cạnh sự lớn mạnh không ngừng về số lượng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức của Ngành, cơ sở vật chất (trụ sở làm
việc, các phương tiện, trang thiết bị, điều kiện làm việc) và chế độ chính sách đối
với cán bộ, cơng chức, viên chức và người lao động luôn được Đảng, Nhà nước
hết sức quan tâm, ngày càng tạo điều kiện và là động lực cho sự phát triển cả về
bề rộng lẫn chiều sâu cho Ngành. Đây vừa thể hiện vai trò của Ngành Quản lý
đất đai đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đồng thời cũng là trách
nhiệm to lớn của toàn Ngành trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tóm lại, trong giai đoạn từ 1979 đến nay, ngành Quản lý đất đai đã phát
triển theo hướng hiện đại, mở rộng phạm vi quản lý đối với tất cả các loại đất.
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai được mở rộng ra nhiều lĩnh vực (từ 07
nhóm nội dung đã phát triển thành 13 nhóm nội dung). Hệ thống cơ quan và đội
16
 



ngũ cán bộ đã từng bước được hoàn thiện, năng lực quản lý, chuyên môn và công
nghệ được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu của hệ thống quản lý đất đai hiện đại.
Hoạt động của Ngành đã góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước; đảm
bảo công bằng và ổn định xã hội; tăng thu cho ngân sách nhà nước; chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; bảo vệ mơi trường. Chưa bao giờ ngành Quản lý đất đai lại có cơ
cấu tổ chức 04 cấp từ Trung ương đến địa phương hoàn chỉnh và hùng mạnh nhất
về mọi mặt, ngang tầm với nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao và là Ngành
có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội về tất cả các lĩnh vực kinh
tế - xã hội; quốc phòng - an ninh…
III. NHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ THÀNH TỰU CỦA NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

1. Xây dựng và hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai
Kể từ ngày đầu thành lập, công tác xây dựng chính sách, pháp luật đất đai
đã thể chế hóa được các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước gắn với
mục tiêu, yêu cầu của từng thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ đầu (1945 - 1954), các chính sách đất đai được ban hành
(chủ yếu là các Sắc lệnh) quy định về ruộng đất đối với nông dân; về thuế nông
nghiệp, tăng gia phát triển sản xuất nông nghiệp; tịch thu và chia cấp ruộng đất.
Những quyết sách đúng đắn đó đã trở thành động lực quan trọng, hết sức to lớn
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, góp phần tăng cường khối liên
minh công nông, là cơ sở cho quá trình phát triển cách mạng Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV và các Đại hội tiếp theo về
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, ngành Quản lý đất đai đã xây dựng trình Quốc hội ban
hành Luật Đất đai năm 1987; Luật Đất đai năm 1993; Luật Đất đai sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998, 2001; Luật Đất đai năm 2003 và
nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật.
2. Điều tra cơ bản
Trong 65 năm qua, ngành Quản lý đất đai Việt Nam đã thực hiện nhiều

cuộc điều tra về đất đai phục vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đánh giá chất lượng đất, năm 1958, bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc tỷ lệ
1/1.000.000 đã được hoàn thành, sơ bộ phân loại đất và phân vùng địa lý thổ
nhưỡng Việt Nam. Từ 1961 đến 1964, đã hoàn thành việc xây dựng bản đồ thổ
nhưỡng vùng Đồng bằng Trung du miền núi phía Bắc tỷ lệ 1/50.000. Đến năm
1974 đã hoàn thành việc xây dựng bản đồ thổ nhưỡng cấp tỉnh của miền Bắc. Từ
năm 1976 - 1985, xây dựng bản đồ thổ nhưỡng cấp tỉnh của các tỉnh phía Nam.
Cơng tác điều tra, khảo sát đánh giá, phân hạng đất được bắt đầu từ năm
1968, chủ yếu là phân hạng đất nơng nghiệp ở một số tỉnh phía Bắc. Đến năm
1980, Ngành đã tổ chức thực hiện phân hạng đất nông nghiệp cho các huyện, thị
trong cả nước. Kết quả của công tác đánh giá, phân hạng đất mang tính thực tiễn,
khoa học phục vụ tốt cho việc tính thuế sử dụng đất nơng nghiệp, là cơ sở để xác
định giá trị về chất và lượng đất đai trong thị trường quyền sử dụng đất ở nước ta
hiện nay.
17
 


Đánh giá thối hóa đất, chống xói mịn đất, bảo vệ đất ở 5 vùng: Trung
du Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây nguyên và Đồng bằng
sông Cửu Long. Kết quả điều tra đã đưa ra được các giải pháp chống, giảm thiểu
thối hóa đất nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên đất.
Công tác điều tra, thống kê, kiểm kê đất đai được Ngành thực hiện
thường xuyên: Điều tra, phân phối đất đai (1964 - 1965); điều tra thống kê đất
nông nghiệp (1966 - 1967); điều tra thống kê đất nơng nghiệp, đất có khả năng
nơng nghiệp và đất chuyên dùng khác (năm 1969); tổ chức điều tra đất hoang
hóa tại 2.380 xã thuộc các tỉnh Đồng bằng Bắc bộ (năm 1977); điều tra thống kê
tình hình đất đai trong tồn quốc (năm 1977 - 1978). Từ năm 1990 đến nay, công
tác thống kê đất đai hàng năm và kiểm kê đất đai (5 năm một lần) được thực hiện
có hiệu quả. Đồng thời những năm qua, Ngành đã tổ chức nhiều cuộc điều tra

chuyên đề nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu chuyên sâu phục vụ quản lý nhà
nước về đất đai.
3. Đo đạc, lập bản đồ địa chính, đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng hệ thống thông tin đất đai
Từ năm 1958, công tác đo đạc lập bản đồ giải thửa được thực hiện nhằm
phục vụ việc kế hoạch hóa và hợp tác hóa nơng nghiệp, tính thuế ruộng đất, xây
dựng đơ thị. Từ khi thành lập Tổng cục Quản lý ruộng đất (năm 1979) và thực
hiện Chỉ thị số 299/TTg, công tác điều tra, đo đạc lập bản đồ giải thửa đã được
đẩy nhanh tiến độ, phục vụ cho việc quản lý, thu thuế, hoạch định chính sách và
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng.
Từ năm 2000, bản đồ địa chính được lập trong hệ quy chiếu VN 2000.
Đến nay cả nước đã đo đạc lập bản đồ địa chính với tổng diện tích 23.200.000 ha,
đạt 70,3% tổng diện tích tự nhiên.
Cơng tác đăng ký đất đai, thành lập bộ hồ sơ địa chính ban đầu đã được
thực hiện ngay từ năm 1980. Cơ quan quản lý đất đai các cấp đã tăng cường thực
hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, tạo điều kiện thuận lợi
cho người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ đăng ký đất đai. Đến nay, trên 92% hộ
gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng đất đã kê khai đăng ký đất đai.
Công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện từ
năm 1987. Trong thời gian qua các địa phương đã và đang tập trung thực hiện
theo Nghị quyết số 07/2007/QH12, đến năm 2009, thực hiện Nghị định số
88/2009/NĐ-CP của Chính phủ, ngành Quản lý đất đai tổ chức cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Việc
thống nhất cấp một loại Giấy chứng nhận đã tạo thuận lợi cho việc chuyển
nhượng nhà đất, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển và hoạt
động lành mạnh. Đến nay, cả nước đã cấp được 30.248.000 Giấy chứng nhận với
diện tích 16.976.000 ha. Trong đó: đất sản xuất nơng nghiệp đã được cấp GCN
đạt 86,0 % (14.428.824 giấy/7.635.913 ha); đất lâm nghiệp đạt 72,0% (1.212.832
giấy/8.841.606 ha); đất nuôi trồng thuỷ sản đạt 74,8 % (963.052 giấy/500.786
ha); đất ở nông thôn đạt 81,0% (11.145.566 giấy/409.374 ha); đất ở đô thị đạt

71,5 % (3.448.199 giấy/79.916 ha); đất chuyên dùng đạt 39,6 % (114.319
giấy/213.061 ha); đất cơ sở tôn giáo đạt 42,4 % (14.315 giấy/5.572 ha).
18
 


Công tác xây dựng hệ thống thông tin đất đai đã từng bước chuẩn hóa dữ
liệu địa chính và xây dựng dữ liệu số đến từng thửa đất. Hiện nay, hệ thống thông
tin đất đai (LIS) được xây dựng dựa trên hai công nghệ cơ bản là công nghệ hệ
thống thông tin địa lý (GIS) và hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu.
Công tác lưu trữ, thông tin đất đai đang từng bước được hiện đại hóa,
đáp ứng yêu cầu tra cứu, sử dụng cho các mục tiêu khác nhau. Công nghệ GIS
phát triển đã cung cấp khả năng mới cho việc sử dụng bản đồ địa chính, đó là xây
dựng hệ thống thông tin đất đai trên cơ sở các loại bản đồ dạng số, đặc biệt là bản
đồ địa chính, giúp cho việc xử lý, quản lý và khai thác thông tin đất đai một cách
hiệu quả. Hoàn thành việc sắp xếp, đưa vào lưu trữ hồ sơ đất đai đến hạn đưa vào
lưu trữ; tiếp tục phối hợp trong việc thu thập các thông tin, cập nhật vào cơ sở dữ
liệu đất đai; thực hiện cung cấp thông tin cho các tổ chức và doanh nghiệp; hồn
thành việc đưa Trang thơng tin điện tử đi vào hoạt động.
4. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Từ năm 1987, ngành Quản lý đất đai đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý
luận, thực tiễn, phương pháp lập quy hoạch sử dụng đất, kết quả là đã xây dựng
được hệ thống văn bản, tài liệu hướng dẫn về công tác lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất khá đầy đủ, khoa học.
Ngành Quản lý đất đai đã hồn thành xây dựng trình Quốc hội phê duyệt
kế hoạch sử dụng đất cả nước giai đoạn 1996 - 2000 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm (2006 - 2010) của cả nước.
Ở địa phương, đã có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành
việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 được Chính phủ xét
duyệt; 100% đơn vị cấp huyện và gần 11.000 đơn vị cấp xã hoàn thành việc lập

quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010.
Hiện nay, công tác lập quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2010 - 2020 và kế
hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015 ở tất cả 4 cấp (Quốc gia, tỉnh, huyện, xã)
trong cả nước đang được triển khai.
5. Giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất
Việc ban hành các chính sách, pháp luật đất đai với sự thay đổi một cách
căn bản, đặc biệt là trong công tác giao đất sử dụng lâu dài đến người lao động.
Ngành Quản lý đất đai đã tham mưu cho Nhà nước điều chỉnh chính sách đất đai
phù hợp với yêu cầu thực tiễn và khơng ngừng cải cách thủ tục hành chính trong
việc giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất. Vận dụng linh hoạt cơ chế giao đất, cho
thuê đất và thu hồi đất nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà
đầu tư trong nước và nước ngồi đầu tư vào Việt Nam.
Đến nay diện tích đất đã giao, đã cho thuê là 25,16 triệu ha, chiếm 76,4%
diện tích tự nhiên của cả nước. Trong đó: Hộ gia đình, cá nhân 49,55%; các tổ
chức kinh tế trong nước 21,98%; Ủy ban nhân dân xã 11,28%; tổ chức, cá nhân
nước ngoài, liên doanh với nước ngoài 0,12%; các đối tượng khác 13,59%.
6. Tài chính đất đai và thị trường bất động sản
Việc Nhà nước công nhận đất có giá là nền tảng quan trọng để phát huy
19
 


nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở cho việc
hình thành thị trường bất động sản tại Việt Nam.
Nhiều chính sách liên quan đến tài chính đất đai được ban hành như đổi
đất lấy hạ tầng, đấu giá, đấu thầu dự án có sử dụng đất... Chính phủ quy định
phương pháp xác định giá đất, khung giá các loại đất, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương và công bố công khai vào ngày 01/01
hàng năm.
Nguồn thu từ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng liên tục

tăng và trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội. Hàng năm
nguồn thu từ giao đất, cho thuê đất chiếm khoảng 7,25% tổng thu ngân sách.
Đối với thị trường bất động sản khi hoạt động theo đúng quy luật thì hàng
năm có thể tạo ra cho ngân sách nhà nước hàng chục tỷ USD. Tuy nhiên, hiện
nay thị trường quyền sử dụng đất và thị trường bất động sản nước ta vẫn đang
hoạt động ở cấp độ thấp.
7. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai
Ngành Quản lý đất đai tham mưu giúp Chính phủ, Quốc hội phân cấp
trong cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về tranh chấp đất đai đã giúp chính
quyền địa phương chủ động, kịp thời giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu
kiện, tranh chấp kéo dài; huy động được nhiều lực lượng trong xã hội tham gia.
Đặc biệt, trong những năm qua công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo về tranh chấp đất đai đã hạn chế khiếu kiện vượt cấp, tạo niềm tin trong
nhân dân, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
8. Nghiên cứu khoa học - công nghệ và hợp tác quốc tế
Trong giai đoạn trước năm 1983, các đề tài nghiên cứu tập trung vào khâu
điều tra cơ bản (đo đạc, điều tra thổ nhưỡng, thống kê đất đai...). Công tác
nghiên cứu khoa học chủ yếu thiên về phục vụ sản xuất nông - lâm nghiệp mà
không quan tâm nhiều đến nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Từ 1983 đến 1993, Tổng cục Quản lý ruộng đất đã thực hiện 2 chương trình
nghiên cứu: Xây dựng tổng sơ đồ quản lý, sử dụng vốn tài nguyên đất dài hạn; Sử
dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên đất đai môi trường và thực hiện 35 đề tài.
Từ năm 1994 đến nay, đã triển khai thực hiện 2 đề tài độc lập cấp Nhà
nước, 70 đề tài nghiên cứu cấp Bộ và nhiều đề tài cấp cơ sở, 03 dự án thử
nghiệm, 5 dự án phục vụ cho các mục tiêu của ngành Quản lý đất đai. Kết quả
nghiên cứu của nhiều đề tài được ứng dụng vào thực tế tại các địa phương hoặc
làm căn cứ khoa học cho việc xây dựng, hồn thiện chính sách, pháp luật của
Nhà nước
Các hoạt động hợp tác quốc tế được đẩy mạnh. Giai đoạn 1983 - 1993
(Tổng cục Quản lý ruộng đất) đã có quan hệ với 17 nước và 3 tổ chức quốc tế.

Thời kỳ 1994 - 2002 (Tổng cục Địa chính) đã chủ trì thực hiện 19 chương trình,
dự án để hỗ trợ tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai do Chính phủ
Bang Tây Ơxtrâylia, Vương quốc Thụy Điển, Hà Lan, Nhật Bản, Pháp và các tổ
chức UNDP, ADB… viện trợ khơng hồn lại.
20
 


Từ khi thành lập đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang quản lý thực
hiện một số dự án lớn về lĩnh vực quản lý đất đai với giá trị 35 triệu USD và
đang thực hiện dự án Hiện đại hóa hệ thống quản lý đất đai Việt Nam với tổng
kinh phí 250 triệu USD. Hoạt động hợp tác quốc tế được thực hiện trên cơ sở
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hội giai đoạn 2001 - 2010 với phương châm
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
IV. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Trong quá trình vừa xây dựng vừa phát triển, ngành Quản lý đất đai Việt
Nam từng bước trưởng thành và có những đóng góp to lớn, đáp ứng tốt nhất mọi
yêu cầu phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ.
Ngành Quản lý đất đai Việt Nam có vị trí, vai trị quan trọng và tác động mạnh
mẽ, tích cực đến mọi mặt về kinh tế, chính trị - xã hội, an ninh - quốc phịng và
mơi trường:
1. Đối với việc thu ngân sách và tăng trưởng kinh tế
Thông qua hoạt động đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, Ngành đã có những đóng góp đáng kể
cho việc thu ngân sách, tăng trưởng kinh tế, trong đó đất đai đã tham gia trực tiếp
như một nguồn vốn nội lực thông qua thị trường bất động sản và gián tiếp thông
qua các chính sách pháp luật đất đai làm tăng tỷ trọng đóng góp của các ngành

như cơng nghiệp và xây dựng, sản xuất nông nghiệp, thương mại dịch vụ,...
Từ năm 1994, nguồn thu từ đất chủ yếu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thuế nhà đất và thuế chuyển quyền sử dụng đất, tổng thu chỉ khoảng 2.000 tỷ
đồng mỗi năm. Tổng thu từ đất năm 1999 là 3.641 tỷ đồng, trong đó từ thuế sử
dụng đất nơng nghiệp là 1.286 tỷ đồng, từ thuế nhà đất 295 tỷ đồng, từ thuế
chuyển quyền sử dụng đất 327 tỷ đồng, từ tiền sử dụng đất 376 tỷ đồng, từ tiền
thuê đất 339 tỷ đồng, từ bán nhà sở hữu Nhà nước 478 tỷ đồng. Từ khi Luật Đất
đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, các khoản thu từ đất có rất nhiều thay đổi.
Tổng thu từ đất năm 2004 là 17.594 tỷ đồng, trong đó: thuế sử dụng đất nơng
nghiệp là 130 tỷ đồng; thuế nhà đất 438 tỷ đồng; thuế chuyển quyền sử dụng đất
640 tỷ đồng; tiền sử dụng đất 14.202 tỷ đồng; tiền thuê đất 846 tỷ đồng; bán nhà
sở hữu Nhà nước 1.338 tỷ đồng. Lúc này nguồn thu chính là tiền sử dụng đất,
chiếm tới 80% tổng thu từ đất.
Hiện nay, hàng năm nguồn thu từ giao đất, cho thuê đất chiếm khoảng
7,25% tổng thu ngân sách. Năm 2009, thu khoảng 32.905 tỷ đồng, trong đó: thuế
sử dụng đất nơng nghiệp 67 tỷ đồng; lệ phí trước bạ 1.337 tỷ đồng; thuế nhà đất
1.203 tỷ đồng; thuế chuyển quyền sử dụng đất 262 tỷ đồng; tiền sử dụng đất
36.304 tỷ đồng; tiền thuê đất 2.625 tỷ đồng; bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước
1.471 tỷ đồng; thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ chuyển quyền sử
dụng đất 1.083 tỷ đồng; thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển quyền
sử dụng đất 1.053 tỷ đồng. Với chủ trương đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài
ngun và mơi trường, nguồn lực đất đai đang và sẽ là một trong những nguồn
lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phấn đấu đến năm
2020 mức thu đạt 20 - 22% tổng thu ngân sách.
21
 


2. Đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội
Từ năm 1979, Chính phủ có quyết định về việc tận dụng đất nơng nghiệp,

Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 100/CT-TW và đến Đại hội Đảng VI, Đại hội của đổi
mới (tháng 12/1986) đã giải quyết được những vấn đề cơ bản về quan hệ đất đai
thời gian trước đó. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa, đất đai đã góp phần đáng kể vào sự ổn định xã hội và phát triển kinh
tế đất nước. Sau Khốn 10, chính sách đất đai khơng chỉ là mệnh lệnh hành chính
mà cịn được xem xét dưới góc độ kinh tế đã tạo ra nguồn nội lực to lớn thúc đẩy
sản xuất phát triển, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Kết quả với trên 3/4
diện tích đất tự nhiên của cả nước đã được giao cho các đối tượng sử dụng là
thành tựu lớn nhất của ngành Quản lý đất đai đạt được trong những năm qua.
Bước chuyển biến rõ nét nhất là từ một nước thiếu lương thực, nước ta đã sản
xuất đảm bảo đủ lương thực tiêu dùng trong nước, có dự trữ chiến lược và xuất
khẩu, đưa nước ta lên vị trí hàng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới.
Góp phần xố đói giảm nghèo: Phần lớn các hộ nghèo hiện nay ở nơng
thơn là những hộ có ít đất hoặc khơng có đất sản xuất do chuyển nhượng, “gán
nợ”, hoặc bỏ hoang hóa, sử dụng kém hiệu quả do thiếu vốn đầu tư ... Chính vì
vậy, chính sách quản lý đất đai có vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc xố đói
giảm nghèo khơng chỉ trước mắt mà còn cả lâu dài. Nâng cao an tồn pháp lý về
quyền sử dụng đất thơng qua việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là một trong các giải pháp quan trọng trong việc tạo vốn từ đất đai; người sử
dụng đất có thể góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất để
vay vốn đầu tư cho sản xuất, tạo việc làm, nâng cao đời sống.
Góp phần đảm bảo an ninh lương thực: Hiện nay, cả nước có khoảng
75% số dân sống ở vùng nông thôn, sản xuất lương thực là chủ yếu (chiếm tỷ
trọng 63,9% trong tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt). Nếu như trong các
năm từ 1976 - 1980, Nhà nước phải nhập 5,6 triệu tấn gạo thì năm 2005, nước ta
đã xuất khẩu được 5 triệu tấn, có tổng tích lượng dự trữ quốc gia khoảng 605.430
tấn và năm 2009 số lượng gạo xuất khẩu là khoảng 6 triệu tấn. Đến năm 2010,
với diện tích đất ruộng lúa của nước ta có trên 3,86 triệu ha, sản lượng thóc sẽ đạt
38,6 triệu tấn, đảm bảo mức dự trữ cần thiết. Thông qua hệ thống quản lý ngành
từ Trung ương tới địa phương, việc quản lý chặt chẽ diện tích đất trồng lúa nước

ở mức trên dưới 4 triệu ha, ngành Quản lý đất đai Việt Nam đang tiếp tục góp
phần đảm bảo vững chắc chiến lược an ninh lương thực quốc gia trong thời kỳ
2010 - 2020 và những thập niên tiếp theo.
3. Đối với việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và bảo vệ môi trường
Ngành Quản lý đất đai đã cùng với các Bộ, ngành khác thực hiện Chương
trình 327, 661,... đóng góp tích cực và hiệu quả trong việc khơi phục và bảo vệ
rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, rừng khoanh nuôi tái sinh, rừng trồng kinh tế.
Đất rừng tự nhiên trong 10 năm (1980 - 1990) bị giảm gần 3 triệu ha (diện tích
đất lâm nghiệp có rừng năm 1990 là gần 9,4 triệu ha). Sau năm 1990, nhất là sau
khi Luật Đất đai 1993, tác dụng của việc giao đất khoán rừng trên cơ sở hệ thống
hồ sơ từ tiểu khu đến thơn, bản và hộ gia đình đã bắt đầu ngăn chặn được tình
trạng suy thối rừng nghiêm trọng trước đó. Đến năm 2000, kết quả thống kê đất
22
 


đai cho thấy diện tích đất rừng đã được khơi phục trở lại (11,6 triệu ha). Hiện
nay diện tích đất lâm nghiệp tăng lên khoảng gần 15 triệu ha, đạt độ che phủ
bằng cây rừng trên 45%.
Với việc tiến hành quy hoạch sử dụng đất đai ở 4 cấp và được lập từ tổng
thể đến chi tiết, kết hợp với các chính sách đất đai hợp lý, ngành Quản lý đất đai
Việt Nam đang tạo cơ sở cho việc giao đất và sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả,
góp phần đẩy mạnh chiến lược phủ xanh đất trống đồi núi trọc, vừa tăng cường
đóng góp cho tăng trưởng kinh tế - xã hội vừa góp phần cải thiện và bảo vệ mơi
trường theo hướng phát triển bền vững.
*
*

*


Tóm lại, chặng đường 65 năm qua của ngành Quản lý đất đai đã để lại
nhiều dấu ấn quan trọng, đó là: Tài nguyên đất quốc gia ngày càng được điều tra
một cách toàn diện hơn, xác định đúng tiềm năng làm cơ sở cho việc khai thác,
sử dụng đất đai tiết kiệm, có hiệu quả theo hướng phát triển bền vững; Tài sản
đất đai quốc gia đã được giao đến tận tay người sử dụng đất (tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân) đúng pháp luật để sản xuất, khai thác làm giàu cho bản thân và
làm giàu cho đất nước; Hệ thống pháp luật về đất đai ngày càng được hoàn
chỉnh, giác ngộ pháp luật của nhân dân được nâng cao, tổ chức thi hành pháp luật
về đất đai ngày càng hiệu quả, góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về
đất đai.

23
 



×