Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm về dạy tập đọc để giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.93 KB, 15 trang )

TT
1
2

3
4
5
6
7

Tên mục
Mục lục
I.PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

01

1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu.
b. Phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
II. PHẦN NỘI DUNG

01
02
02
02
02


02
03

1. Cơ sở lý luận của hình thành và phát triển
phẩm chất và năng lực
8

1.1. Phẩm chất.
1.2. Năng lực

03

1.3 Mối quan hệ giữa dạy học phát triển
9
10

11
12

phẩm chất, năng lực.
2.Thực trạng vấn đề.
3. Các giải pháp giải quyết vấn đề.

05
07

3.1 Đối với việc hình thành và phát triển năng lực

08


3.2 Biện pháp hình thành và phát triển phẩm chất
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

11
13

III. KẾT LUẬN

14

I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1


Trong mọi thời đại, các chương trình giáo dục được áp dụng, tuy có khác
nhau về cấu trúc, phương pháp và nội dung giáo dục, hình thức giáo dục... nhưng
đều hướng tới mục tiêu đào tạo ra con người có nhân cách. Phẩm chất và năng lực
là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách nói chung và là yếu tố nền tảng
tạo nên nhân cách của một con người. Trong đó việc hình thành phẩm chất và năng
lực con người (đức, tài) được quan tâm nhấn mạnh.
Qua các thời kỳ với các giai đoạn lịch sử khác nhau, yêu cầu về nhân cách
nói chung và phẩm chất, năng lực nói riêng của con người với tư cách là thành viên
trong xã hội cũng có những thay đổi phù hợp với đòi hỏi của thời đại.
Theo xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nền giáo dục nước ta
cũng đang trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nếu như
trước đây giáo dục chú trọng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh và giúp
người học hình thành hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ thì ngày nay, điều đó vẫn
còn đúng, còn cần nhưng chưa đủ.
Thật vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với

những tác động tích cực của nền kinh tế tri thức và tiến bộ của thông tin, truyền
thông, giáo dục cần phải giúp người học hình thành một hệ thống phẩm chất, năng
lực đáp ứng được với yêu cầu mới. Hệ thống phẩm chất, năng lực đó được cụ thể
hóa phù hợp với sự phát triển tâm lý, sinh lý của người học, phù hợp với đặc điểm
môn học và cấp học, lớp học. Theo đó, tất cả các môn học trong các cấp học, nhất
là cấp học Tiểu học, càng phải quan tâm đến sự hình thành và phát triển phẩm chất
và năng lực người học trong quá trình giáo dục. Đặc biệt là môn Tiếng Việt, môn
học “mở cửa” cho các môn học khác, việc nhận biết, đọc viết được; đó là điều
quyết định cho mọi hoạt động của người học chiếm lĩnh tri thức. Trong quỹ thời
gian, và giới hạn của đề tài này tôi xin đưa ra một kinh nghiệm nhỏ bé là: “ Một số
kinh nghiệm về dạy tập đọc để giúp học sinh hình thành và phát triển nhân
cách”
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu nhằm giúp học sinh thực hành các hành động, lời nói của nhân
vật, các tính cách tích cực hầu học tập bắt chước, học đòi các gương sáng của các
nhân vật; bắt chước các tài năng của các nhân vật để đưa vào cuộc sống hiện tại và
mai sau.
2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp Năm A Trường Tiểu học Trường
Giang 2.
b. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về sự hình thành và phát triển phẩm
chất và năng của học sinh tiểu học qua phân môn Tập đọc – Lớp Năm A – Trường
Tiểu học Trường Giang 2.
4. Phương pháp nghiên cứu :
a. Phương pháp quan sát.
b. Phương pháp phân tích, tông hợp, khái quát qua số liệu.
c. Phương pháp gặp gỡ, trao đổi, xin ý kiến với giáo viên khác, với học sinh về

từng phẩm chất, năng lực cụ thể.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực
1.1. Phẩm chất.
Theo từ điển Tiếng Việt :

3


Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay vật. Hoặc: Phẩm chất là
những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị cuộc sống; ý thức
pháp luật của con người được hình thành sau một quá trình giáo dục.
1.2. Năng lực
Cũng theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc: Năng lực là khả
năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại
công việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung và năng
lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ người nào cũng
cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện trên từng lĩnh
vực khác nhau như năng lực đặc thù môn học là năng lực được hình thành và phát
triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên.
1.3 Mối quan hệ giữa dạy học phát triển phẩm chất, năng lực
1.3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng bởi
các yếu tố: di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Các yếu tố bẩm sinh - di truyền tốt là những mầm mống của phẩm chất và
tài năng, nhất là tài năng con người. các mầm mống cần được phát hiện kịp thời và
giáo dục đúng cách thì tài năng mới phát huy, tỏa sáng. Nếu không làm như vậy,
mầm mống cũng bị mai một. Do vậy yếu tố di truyền không có vai trò quyết định

đến hình thành nhân cách.
- Môi trường tự nhiên, môi trường gia đình, xã hội, hoàn cảnh sống có tác
động và ảnh hưởng to lớn đến cá nhân nhưng cũng không có vai trò quyết định đối
với việc hình thành và phát triển nhân cách bởi vì hoàn cảnh sáng tạo ra con người
nhưng trong một chừng mực, con người cũng sáng tạo ra hoàn cảnh.
- Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
như: giáo dục sẽ định hướng cho phát triển nhân cách, giáo dục làm phát huy các
yếu tố bẩm sinh – di truyền, giáo dục khắc phục được một số các khuyết tật, lệch
lạc của cá nhân. Tuy vậy cá nhân phát triển đến mức độ nào, theo xu hướng nào,
giáo dục không quyết định được cho cá nhân. Giáo dục không là vạn năng.
- Trong các yếu tố kể trên chỉ có hoạt động của cá nhân mới là yếu tố quyết
định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
4


1.3.2 Mối quan hệ giữa dạy học phát triển phẩm chất, năng lực với phát
triển nhân cách.
Bàn về các thành tố cấu tạo nên nhân cách, các nhà khoa học tâm lý và khoa
học giáo dục đưa ra nhiều cấu trúc khác nhau về nhân cách : Loại cấu trúc 2 thành
phần (đức, tài) của các nhà tâm lý học Việt Nam; loại cấu trúc 3 thành phần ( ý
thức, tiềm thức, vô thức) của Freud; loại cấu trúc 4 thành phần ( nguồn gốc sinh
học - đặc điểm quá trình tâm lý – vốn kinh nghiệm – xu hướng nhân cách ) của
K.K.Platonop. Ngoài ra còn có các loại cấu trúc 2 tầng, loại cấu trúc 4 bộ phận, cấu
trúc 5 đặc điểm...
Ở Việt Nam, loại cấu trúc nhân cách hai thành phần được nghiên cứu và vận
dụng rộng rãi nhất là trong công tác giáo dục. Đó là quan điểm coi cấu trúc nhân
cách gồm hai mặt cơ bản phẩm chất và năng lực (đức và tài). Trong đó phẩm chất
bao gồm 4 nội dung gồm có: phẩm chất xã hội, phẩm chất cá nhân, phẩm chất ý
chí và phẩm chất ứng xử. Năng lực bao gồm 4 nội dung cơ bản: năng lực xã hội
hóa, năng lực chủ thể hóa, năng lực hành động và năng lực giao tiếp. Đây có thể coi

là phẩm chất và năng lực khung của nhân cách theo quan niệm cấu trúc nhân cách
hai thành phần (đức, tài).
Theo quan niệm nói trên, nhân cách gồm 2 mặt thống nhất phẩm chất và
năng lực (đức, tài). Trường hợp một cá nhân có đức và tài không thống nhất nhau
như "tài cao đức kém" hay "đức trọng tài hèn" thì là những nhân cách chưa hoàn
chỉnh. Đối với nhân cách hoàn chỉnh thì khó phân biệt được giữa đức và tài, đức và
tài hòa quyện nhau thành một chỉnh thể.
Do vậy mối quan hệ giữa dạy học phát triển phẩm chất, năng lực với phát
triển nhân cách được diễn đạt như sau:
- Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản của nhân cách.
- Nhân cách là chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực.
- Việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực là phương pháp tích tụ dần dần
các yếu tố của phẩm chất và năng lực người học để chuyển hóa và góp phần cho
việc hình thành, phát triển nhân cách.
Tóm lại, dạy học phát triển phẩm chất, năng lực vừa là mục tiêu giáo dục
(xét về mục đích, ý nghĩa của dạy học), vừa là một nội dung giáo dục (xét về các

5


tiêu chuẩn, tiêu chí cần đạt của người học) đồng thời cũng là một phương pháp giáo
dục (xét về cách thức thực hiện).
`
Do vậy, dạy học phát triển phẩm chất, năng lực có một ưu thế vượt trội trong
hình thành và phát triển nhân cách bởi vì nó hướng người học đi vào hoạt động cá
nhân (hoạt động trong giờ, ngoài giờ, hoạt động giao tiếp với tự nhiên, xã hội, môi
trường, trải nghiệm...), mà các hoạt động sống, hoạt động cá nhân có vai trò quyết
định đối với hình thành nhân cách. Vì vậy vấn đề còn lại là người học tham gia như
thế nào các hoạt động để hình thành và phát triển nhân cách của mình.
2.Thực trạng vấn đề.

Theo sự đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà cụ thể là thông tư 30 và bổ
sung thông tư 22 thì đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển năng lực
của học sinh gồm :
Các năng lực của học sinh được hình thành và phát triển trong quá trình học
tập, rèn luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và ngoài nhà trường. Giáo
viên đánh giá mức độ hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh thông
qua các biểu hiện hoặc hành vi như sau:
a) Tự phục vụ, tự quản: thực hiện được một số việc phục vụ cho sinh hoạt
của bản thân như vệ sinh thân thể, ăn, mặc; một số việc phục vụ cho học tập như
chuẩn bị đồ dùng học tập ở lớp, ở nhà; các việc theo yêu cầu của giáo viên, làm
việc cá nhân, làm việc theo sự phân công của nhóm, lớp; bố trí thời gian học tập,
sinh hoạt ở nhà; chấp hành nội quy lớp học; cố gắng tự hoàn thành công việc;
b) Giao tiếp, hợp tác: mạnh dạn khi giao tiếp; trình bày rõ ràng, ngắn gọn;
nói đúng nội dung cần trao đổi; ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng; ứng
xử thân thiện, chia sẻ với mọi người; lắng nghe người khác, biết tranh thủ sự đồng
thuận;
c) Tự học và giải quyết vấn đề: khả năng tự thực hiện nhiệm vụ học cá
nhân trên lớp, làm việc trong nhóm, lớp; khả năng tự học có sự giúp đỡ hoặc không
cần giúp đỡ; tự thực hiện đúng nhiệm vụ học tập; chia sẻ kết quả học tập với bạn,
với cả nhóm; tự đánh giá kết quả học tập và báo cáo kết quả trong nhóm hoặc với
giáo viên; tìm kiếm sự trợ giúp kịp thời của bạn, giáo viên hoặc người khác; vận
dụng những điều đã học để giải quyết nhiệm vụ trong học tập, trong cuộc sống;
6


phát hiện những tình huống mới liên quan tới bài học hoặc trong cuộc sống và tìm
cách giải quyết.
Theo sự đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà cụ thể là thông tư 30 và bổ
sung thông tư 22 thì đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển phẩm chất
của học sinh gồm:

Các phẩm chất của học sinh được hình thành và phát triển trong quá trình
học tập, rèn luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và ngoài nhà trường.
Giáo viên đánh giá mức độ hình thành và phát triển một số phẩm chất của học sinh
thông qua các biểu hiện hoặc hành vi như sau:
a) Chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục: đi học
đều, đúng giờ; thường xuyên trao đổi nội dung học tập, hoạt động giáo dục với bạn,
thầy giáo, cô giáo và người khác; chăm làm việc nhà giúp đỡ cha mẹ; tích cực tham
gia các hoạt động, phong trào học tập, lao động và hoạt động nghệ thuật, thể thao ở
trường và ở địa phương; tích cực tham gia và vận động các bạn cùng tham gia giữ
gìn vệ sinh, làm đẹp trường lớp, nơi ở và nơi công cộng;
b) Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm: mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ
học tập, trình bày ý kiến cá nhân; nhận làm việc vừa sức mình; tự chịu trách nhiệm
về các việc làm, không đổ lỗi cho người khác khi mình làm chưa đúng; sẵn sàng
nhận lỗi khi làm sai;
c) Trung thực, kỉ luật, đoàn kết: nói thật, nói đúng về sự việc; không nói
dối, không nói sai về người khác; tôn trọng lời hứa, giữ lời hứa; thực hiện nghiêm
túc quy định về học tập; không lấy những gì không phải của mình; biết bảo vệ của
công; giúp đỡ, tôn trọng mọi người; quý trọng người lao động; nhường nhịn bạn;
d) Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương,
đất nước: quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh em; kính trọng người lớn, biết
ơn thầy giáo, cô giáo; yêu thương, giúp đỡ bạn; tích cực tham gia hoạt động tập thể,
hoạt động xây dựng trường, lớp; bảo vệ của công, giữ gìn và bảo vệ môi trường; tự
hào về người thân trong gia đình, thầy giáo, cô giáo, nhà trường và quê hương;
thích tìm hiểu về các địa danh, nhân vật nổi tiếng ở địa phương.

7


Trên thực tế, tại các nhà trường, nhiều khi việc giáo dục chỉ quan tâm đến
việc đạt được mục tiêu môn học; riêng môn Tiếng Việt, việc dạy cho học sinh đọc

thành tiếng, đọc hiểu, đọc diễn cảm là được quan tâm đặc biệt. Học sinh đọc tốt văn
bản; hiểu rõ được ý chính, rồi nắm được nội dung bài đọc; thể hiện tốt cách đọc của
văn bản. Ngoài ra, việc dạy Tập đọc – các bài là truyện kể - thường quên một phần
quan trọng là giáo dục, hình thành và phát triển phẩm chất ; năng lực cho học sinh.
Tôi đã từng đi dự các tiết dạy của các đồng nghiệp khi dạy tập đọc ( các bài
về truyện kể ) thì tôi thấy như sau:
Liên hệ hình thành Có liên hệ hình thành Không liên hệ hình
Số tiết dự
và phát triển phẩm
và phát triển phẩm
thành và phát triển
chất, năng lực tốt
chất, năng lực
phẩm chất, năng lực
6
1
2
3
Trong các tiết học trên, tôi thấy việc học đưa ra được các phẩm chất và năng
lực để học tập và thực hiện trong cuộc sống như sau :
Số lượt học sinh
phát biểu liên hệ
18

Học sinh phát biểu
tốt
4

Học sinh phát biểu
có ý đúng

5

Học sinh phát biểu
chưa đúng
9

3. Các giải pháp giải quyết vấn đề:
3.1 Đối với việc hình thành và phát triển năng lực của học sinh.
a/ Biện pháp hình thành và phát triển tính tự phục vụ, tự quản để hoàn thành các
năng lực của học sinh. Chúng ta thông qua bài tập đọc sau đây:
Bài thứ nhất : NGƯỜI GÁC RỪNG TÍ HON
Ngoài việc giúp học sinh đọc trôi chảy, lưu loát toàn bài. Giọng kể chậm rãi;
nhanh và hồi hộp hơn ở đoạn kể về mưu trí và hành động dũng cảm của cậu bé có ý
thức bảo vệ rừng. Hiểu được ý thức bảo vệ rừng, sự thông minh và dũng cảm của
một công dân nhỏ tuổi. Còn giúp học sinh bài học cho bản thân là : Tự mình phải
có trách nhiệm chung “ bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường xung quanh” cũng là trách
nhiệm của mỗi người, không phân biệt già hay trẻ; trai hay gái; lớn hay nhỏ; được
giao nhiệm vụ hay không được giao nhiệm vụ khi thấy những việc cần phải ngăn
cản kịp thời. Nơi trường học, cũng có những thái độ sai về việc bảo vệ của công;
bảo vệ cây cảnh,trong nhà trường; Lúc đó, mỗi học sinh sẽ là những người bảo vệ
của công và bảo vệ cây cảnh để cho quang cảnh nhà trường xanh sạch đẹp.
8


Bài thứ hai : CHUỖI NGỌC LAM
Ca ngợi 3 nhân vật là những con người có tấm lòng nhân hậu, biết quan tam
và đem lại niềm vui cho người khác.
Câu chuyện kể về một cô bé tên là Gioan - có tấm lòng biết ơn người chị và
muốn thể hiện lòng biết ơn đó, qua việc mua món quà quý để tặng cho chị nhân dịp
lễ Noen nhưng cô bé chỉ có ít tiền nhờ tiết kiệm. Với số tiền ít ỏi đó thì chắc chẳng

mua được thứ gì có giá trị, nếu như không gặp người thanh niên đang có một tâm
trạng đặc biệt như Pie; Những hoàn cảnh và lòng nhân ái gặp nhau.
Chúng ta cần đặt thêm câu hỏi, khi chuẩn bị kết thúc bài : - Qua câu chuyện,
các em thấy trong gia đình, mình đã quan tâm đến mọi người chưa? và bây giờ
mình cần phải làm gì?
Từ câu hỏi này : Học sinh sẽ tìm được những điều cần làm cho gia đình, cho
những người xung quanh : Quan tâm, biết nói những điều tốt đẹp trong những dịp
người khác có niềm vui; có thể tặng quà cho cho người thân và những người làm
ơn cho mình.
Bài thứ ba: LÒNG DÂN
Ngoài việc ca ngợi dì Năm dũng cảm, mưu trí cứu cán bộ cách mạng. Chúng
ta nên lưu ý chi tiết mà nhân vật An trả lời tên lính và cai đội. Đó là nhân vật mà
tuổi chỉ bằng tuổi học sinh tiểu học, nhân vật này rất dễ cho học sinh học hỏi đức
tính, học sinh thường coi nhân vật này là “bạn”; Qua hành động của An, chúng ta
thấy nhân vật này rất thông minh, hóm hỉnh khi trả lời mà làm cho sự bất ngờ trở
nên gay cấn, tưởng chừng như bất ngờ hay chưng hửng của tên lính và cai đội.
Giúp học sinh biết ứng xử trong các tình huống cho phù hợp, biết điều tốt điều xấu
qua từng tình huống thực tế.

b/ Biện pháp hình thành và phát triển cách giao tiếp, hợp tác:
Bài thứ nhất : MỘT CHUYÊN GIA MÁY XÚC
Cuộc gặp gỡ thân tình, thể hiện tình cảm chân thành của chuyên gia nước
ngoài với chú công nhân Việt Nam đã nói lên tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Chúng ta chú ý đến hành động bắt tay của chuyên gia với người công nhân, một
hành động không ngại ngần: khi bàn tay của chú công nhân đang lao động còn rất
bẩn nhưng chuyên gia vẫn xiết tay anh công nhân rất chặt. Điều này nói lên được
sự chân thành trong cảm người chuyên gia dành cho những người lao động vất vả.
9



Đối với học sinh, trong học tập, học sinh cần giúp nhau, cùng nhau làm việc, cùng
nhau tìm cách hoàn thành các bài tập, các công việc chung được giao.
Bài thứ hai : NHỮNG CON SẾU BẰNG GIẤY
Ngoài việc tố cáo tội ác chiến tranh hạt nhân, khát vọng sống, hoà bình của
trẻ em toàn thế giới. Ta thấy được tình cảm của các bạn nhỏ trên toàn thế giới luôn
có tinh thần tương trợ nhau, giúp đỡ lẫn nhau như hành động gửi những con sếu
giấy đến cho Xa-da-cô Xa-xa-ki; luôn mong muốn cho bạn được những điều tốt
đẹp; cho bạn được sống thêm; mặc dù đây chỉ là điều mơ ước mong manh nhưng
sự hồn nhiên của các bạn đã đem cho Xa-da-cô Xa-xa-ki những sự động viên khích
lệ. Từ đó, ta dẫn học sinh đến những sự giúp đỡ, yêu thương nhau không chỉ nơi
mình sinh sống; không chỉ huyện mình, tỉnh của mình, đất nước của mình, mà mỗi
người chúng ta đều có thể giúp đỡ lẫn nhau, không phân biệt giới hạn về không
gian và thời gian, xuyên biên giới; không phân biệt màu da, sắc tộc, tiếng nói; giới
tính, giàu hay nghèo; chúng ta “ tất cả là anh em”.
c/ Biện pháp hình thành và phát triển tự học và giải quyết vấn đề:
Việc học là sự tìm tòi những điều mới lạ để trau dồi cho bản thân những
điềubổ ích hay để áp dụng vào trong cuộc sống, trong cách làm, cách nghĩ, cách
ứng xử, tìm ra những bài học quý giá cho bản thân.
Bài thứ nhất : TÁC PHẨM CỦA SI - LE VÀ TÊN PHÁT XÍT
Ca ngợi cụ già người Pháp thông minh, biết phân biệt người Đức với bọn
phát xít và dạy cho tên sĩ quan một bài học. Từ tình huống, cuộc giao tiếp không
được thân tình của một bên là kẻ thù không đội trời chung và một ông già nhà văn,
ta rút ra các điều cần có cách ứng xử trong cuộc sống :
- Không được có thái độ kiêu căng.
- Sự khéo léo trong ứng xử với kẻ thù; có thể nếu ứng xử khác đi sẽ ảnh hưởng
đến tính mạng.
Bài thứ hai : NHỮNG NGƯỜI BẠN TỐT
Nội dung : Khen ngợi sự thông minh, tình cảm gắn bó đáng quí của loài cá
heo với con người.


10


Trong cuộc sống hằng ngày, những lúc chúng ta gặp những điều khó khăn,
chúng ta được người khác giúp đỡ chúng ta, chúng ta có thái độ như thế nào.
Ngược lại chúng ta đã có ý thức như thế nào về việc giúp đỡ người khác ?
Từ những tình huống đã đặt ra, chúng ta đưa học sinh đến bài học : Tự giải
quyết những tình huống khó trong cuộc sống hằng ngày.
3.2 Biện pháp hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh.
a) Biện pháp hình thành và phát triển Chăm học, chăm làm, tích cực tham gia
hoạt động giáo dục để hoàn thành các phẩm chất của học sinh:
Bài thứ nhất : BUÔN CHƯ LÊNH ĐÓN CÔ GIÁO
Qua bài chúng ta hiểu tình cảm của người Tây Nguyên yêu quí cô giáo, biết
ttrọng văn hoá, mong muốn con em của dân tộc mình được học hành, thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu. Còn đối với mỡi người chúng ta, chúng ta đang sống gần với
những nơi đô thị, những trung tâm văn hóa, chúng ta đã thích học chưa? Chúng ta
thể hiện việc ham thích học như thế nào? Mỗi học sinh tự liên hệ với bản thân
mình.
Bài thứ hai : LỚP HỌC TRÊN ĐƯỜNG
Ca ngợi tấm lòng nhân từ, quan tâm giáo dục trẻ em của cụ Vi-ta-li, khao
khát và quyết tâm học tập của cậu bé nghèo Rê-mi. Từ tấm gương ham học của Rêmi, dù khó khăn về vật chất, một trẻ mồ côi nhưng ham học; chúng ta được sung
sướng có gia đình nuôi, dạy cho ăn học đầy đủ, chúng ta đã học tập để đáp lại
những sự quan tâm đặc biệt của cha mẹ chưa? Điều đó tự chúng ta trả lời với chính
bản thân chúng ta,
Hình ảnh cụ Vi-ta-li, một cụ già đầy lòng nhân ái, yêu thương và giúp đỡ
những người gặp khó khăn, đặc biệt như Rê-mi; đã giúp chúng ta hiểu rằng những
người có cùng hoàn cảnh, đặc biệt là hoàn cảnh khó khăn thì dễ thông cảm với
nhau.
Bài thứ ba: PHÂN XỬ TÀI TÌNH
Ca ngợi trí thông minh, tài xử kiện của vị quan án. Ở vị quan xử kiện ta thấy

được sự thông minh nhưng chunhg ta rằng : Sự thông minh nào cũng cần có sự bổ
sung thường xuyên của việc học hành nghiên cứu; Nếu chúng ta rời xa sách vở
chúng ta sẽ đi vào sự lạc hậu, chậm tiến và xa rời với hiện tại. Vậy nên, chúng ta
11


cần có sự rèn luyện thường xuyên để phát huy hết vốn trí tuệ sẵn có của mình, để
không mất đi cơ hội học hành, cơ hội làm việc những nơi có điều kiện để phát triển
hết khả năng của mình.
b) Biện pháp hình thành và phát triển Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm
để hoàn thành các phẩm chất của học sinh:
Bài thứ nhất : MỘT VỤ ĐẮM TÀU
Nội dung : Ca ngợi tình bạn giữa Ma-ri-ô và Giu-li-ét-ta; sự ân cần, dịu dàng
của Giu-li-ét-ta; đức hi sinh cao thượng của cậu bé Ma-ri-ô.
Sự dứt khoát của Ma ri ô khi đẩy Giu-li-ét-ta xuống xuồng cứu hỗ để nhường
quyền sống cho bạn mới quen; một hành động, một sự hy sinh quên mình vì người
khác; quả là tấm lòng cao cả; Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã dám hy sinh cho
người khác những gì ? Hay chúng ta đang tỵ với bạn; không dám nhường cho bạn
những đồ chơi, trò chơi, cuốn truyện hay mình phải được mượn trước, đọc trước.
Hành động của Ma-ri-ô là một hành động nhận lấy cái chết về mình chịu thiệt cả
đời để hạnh phúc sống lại cho bạn trên đời này thật hiếm có ai như vậy. Ta thấy
được sự tự tin mạnh mẽ, quyết định rất nhanh của Ma-ri-ô. Quả thật, Ma-ri-ô là
người được ca ngợi mãi mãi về hành động anh dũng này.
Bài thứ hai : THẦY THUỐC NHƯ MẸ HIỀN
Ca ngợi tài năng, tấm lòng nhân hậu và nhân cách cao thượng của Hải
Thượng Lãn Ông.
Lòng tự trọng và tình thương người của một thầy thuốc cả đời vì con người,
không cần danh vọng, mục tiêu cao đẹp nhất là cứu người. Hành động ghi nhật ký
về việc không bốc thuốc tiếp cho bệnh nhân, sau đó bệnh nhân đó qua đời mà ông
cũng nhận trách nhiệm về mình; ta thấy được Hải Thượng Lãn Ông là người thật

nhân từ, tâm tư, nhân cách của ông quả là người đáng được người đời kính trọng, vị
nể; sự chịu trách nhiệm gián tiếp như ông quả là hiếm trên đời cũng như xã hội
hiện tại. Đối với học sinh chúng ta, những việc chúng ta làm chưa tốt thì sao ?
chúng ta đã nhận về mình chưa hay các bạn tố cáo mình miễn cưỡng nhậ rồi xin lỗi
cũng khó khăn.
Bài thứ ba : CÔNG VIỆC ĐẦU TIÊN

12


Nội dung : Nguyện vọng và lòng nhiệt thành của một phụ nữ dũng cảm
muốn làm việc lớn, đóng góp công sức cho Cách mạng.
Công việc nào làm đầu tiên cũng gặp khó khăn, việc học tập cũng vậy, người
làm bài tập – dạng bài tập kiến thức mới cũng gặp khó khăn nhưng những người
dám làm làm người tự tin, dũng cảm.
c) Biện pháp hình thành và phát triển Trung thực, kỉ luật, đoàn kết:
Thái sư Trần Thủ Độ – một người cư xử gương mẫu, nghiêm minh, không vì
tình riêng mà làm sai phép nước.
Sứ thần Giang Văn Minh trí dũng song toàn, bảo vệ được quyền lợi và danh
dự của đất nước khi đi sứ nước ngoài.
d) Biện pháp hình thành và phát triển Yêu gia đình, bạn và những người
khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước:
Bài CÁI GÌ QUÝ NHẤT là một sự tranh luận để tìm ra những điều tốt và
cũng biết quý trọng những gì người dân làm ra, những gì sẵn có trong cuộc sống;
thời gian cũng như những giá trị hiện thực của cuộc sống.
Có những người công dân tốt thì đất nước sẽ có cuộc sống tươi đẹp hơn,
Nguyễn Tất Thành là một tấm gương sáng chói về đức hy sinh cuộc đời để vì mục
tieu cao đẹp, là mang hạnh phúc cho những người nô lệ lầm than khốn khổ. Hãy lả
những dân tốt để đất nước và mọi người được hưởng tự do hạnh phúc. Hãy có tâm
trạng như người thanh niên Nguyễn Tất Thành day dứt, trăn trở tìm con đường cứu

nước. Sự quyết chí ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Tất Thành
Trong bài MỘT VỤ ĐẮM TÀU Giu-li-ét-ta đã ân cần, dịu dàng giúp đỡ Mari-ô khi Ma-ri-ô ngã bị thương. Đức hi sinh cao thượng của cậu bé Ma-ri-ô đã thể
hiện tình yêu thương con người đến cao độ, hy sinh tính mạng vì người khác, quả
thật cao thượng.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

13


Qua những năm, làm công tác chủ nhiệm lớp năm và đặc biệt là năm nay, tôi
thấy : Tất cả học sinh thường rất vui vẻ và hào hứng với tiết học Tập đọc, tiets học
không còn nặng nề, không còn là việc rèn đọc, đọc hiểu, đọc diễn cảm nữa mà học
sinh rất say sưa với việc liên hệ, rút ra bài học thực tế, rồi áp dụng với bản thân, so
sánh bản thân mình bằng nhân vật đó hay phải học hỏi, có khi là xin lỗi những hành
động không đúng làm ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp. Sự chuyển biến
về cách ứng xử của học sinh ngày càng tinh tế và tế nhị hơn; những học sinh cá
biệt, đã hiểu ra những hành vi không đáng có của mình; còn nếu không tự mình áp
dụng được thì cũng được các bạn trong lớp nhắc nhở để những học sinh đó ý thức
thay đổi nhận thức của mình.
Kết quả sau những tiết Tập đọc là :
Tự phục Giao tiếp, Tự học và Chăm
Tự tin, tự
vụ,
tự hợp tác
giải quyết học, chăm trọng, tự
quản
vấn đề
làm
chịu trách
nhiệm

25/25 em

24/25 em

24/25 em

25/25 em

24/25 em

Trung
thực, kỉ
luật, đoàn
kết:

Yêu
người,
quê
hương,
đất nước
25/25 em 25/25 em

Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, ngoài việc tham luận về cáh dậy ccacs
kỹ năng sống cho học sinh, tôi còn dduwwa ra quan điểm về giáo dục nhân cách
cho học sinh thông qua việc dạy các mô học ặc biêt là môn tập đọc, từ quan điểm
của tôi, nhiều đồng nghiệp đã rất ủng họ tôi về cách giáo dục nhân cách cho học
sinh qua phân môn tập; thực sự giáo dục như vậy nó không nặng nề hay áp đặt,
phải thế này, phải thế nọ, làm cho học sinh như bị bắt buộc phải làm theo, nhưng có
làm cắc gì đã tốt, miễn cưỡng làm theo mà không vui vẻ gì.


III. KẾT LUẬN
Trong trình thực hiện và áp dụng sáng kiến, tôi đã rút ra được bài học quý
cho sự nghiệp trồng người, cũng như câu nói nổi tiếng và tất cả các nhà trường đều
có khung khẩu hiệu trang trọng là : “ Tiên học lễ, hậu học văn” . Khi chúng ta đã có
cái cốt cách của con người thì chúng ta sẽ “nặn” thành những hình hài ta muốn.
14


Trong phong trào thi đua : “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” theo những nội dung mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động đi vào chiều sâu,
thì việc học sinh biết tự phục vụ, tự quản; biết giao tiếp, hợp tác; biết tự tin, tự
trọng, tự chịu trách nhiệm rất cần thiết cho mỗi học sinh.
Sáng kiến kinh nghiệm về dạy tập đọc để giúp học sinh hình thành và phát
triển nhân cách” có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ, mỗi con người sẽ trưởng thành như
thế nào là nhờ những bài học làm người, những gương sáng, những tấm long nhân
ái, bao dung từ những nhân vật trọng sách vở và những con người, những nhân
chứng sống động trong cuộc sống. Các phong trào lớn nếu thành công là do các
phong trào nho nhỏ góp lại; tất cả một tập thể tốt là nhờ từng cá nhân tốt. Vậy nên,
để tạo cho tương lai những chủ nhân đích thực thì chúng ta cần rèn cho các em một
tinh thần, nhân cách chuẩn mực, hợp với thời đại, từ đó, chúng ta xây dựng, bồi
dưỡng nhân tài cho tương lai.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Nông Cống, ngày 25 tháng 3 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Đinh Minh Hiền


15



×