Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN hướng dẫn học sinh lớp 3 học tốt tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.29 MB, 26 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu học là cấp học đầu tiên, là nơi các em bước vào ngưỡng cửa tri thức.
giai đoạn này các em được cung cấp hai luồng tri thức thông qua hai môn học
chính đó là: Tiếng Việt và Toán. Mỗi môn học có nhiệm vụ riêng có hướng giáo
dục tri thức riêng, nhưng vẫn tác động qua lại lẫn nhau và cùng với các môn học
khác tạo nên một nền tảng vững vàng cho các cấp học sau. Trong đó môn Tiếng
Việt cùng với các môn học khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn kĩ năng
cơ bản đó là: “Nghe, nói, đọc, viết”, mà trong môn học này lại có các thành viên
cấu thành là các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn,
Kể chuyện... Trong đó phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp
của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn học sinh có khả năng xây dựng
một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất
quang trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri
thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng
hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói – ngôn bản và dưới
dạng viết văn bản ) giữ vai trò quang trọng trong sự phát triển xã hội. Chính vì
vậy hướng dẫn học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ
nặng nề đó phụ thuộc rất lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và
phân môn Tập làm văn nói riêng, cụ thể tìm hiểu ở đây là chương trình Tập làm
văn lớp 3. Vấn đề đặt ra: Người giáo viên làm sao để đạy hiệu quả như mong
muốn.
Qua thực tế học tập tôi thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó so
với các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Do đặt trưng phân môn Tập làm
văn với mục tiêu cụ thể là: “Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình
bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: Miêu tả, kể chuyện,
viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp, giới thiệu về mình và
những người xung quanh”. Trong quá trình tham gia các hoạt động học tập này
học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải
nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó giờ dạy thường
không đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ thực tiễn nhưng vậy tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 3 học tốt Tập làm văn”.


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Vị trí phân môn tập làm văn ở Tiểu học:
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn
Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ


năng tổng hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập
đọc, Luyện từ và câu... Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn
kĩ năng: “ Nghe, nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt,
về cuộc sống thực tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ
năng tạo lập văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần
dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn
được coi là phân môn có tính tổng hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật
thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn Tập
làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được
mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có
vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân
môn khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ
năng nói, viết, cách hành văn cho học sinh. Điều này đòi hỏi phân môn Tập làm
văn này phải có nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất là giúp cho học sinh sau quá
trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được cách viết và cách nói sáng tạo các
văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ hai là phân môn này góp phần
bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy hình thành nhân cách cho học sinh. Còn
nhiều nhiệm vụ khác nữa nhưng tôi chỉ nêu hai nhiệm vụ tôi coi là quan trọng
nhất.
* Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ
học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình
thành ngôn bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là
phương tiện hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn được tốt hơn.

2. Ý nghĩa của việc học tốt Tập làm văn
Học tốt Tập làm văn, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần,
từ đây con người biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ
tự nhiên, xã hội, tư duy.
Qua nghiên cứu nội dung đề tài cũng như thực dạy tại lớp, tôi thấy việc
học tốt phân môn Tập làm văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó giúp các em
có điều kiện rèn luyện kỹ năng nói và viết đúng tiếng Việt là nền tảng học tốt
Tập làm văn. Bên cạnh đó các em còn biết sử dụng vốn từ của mình để giao tiếp
như: chào hỏi, tự giới thiệu về mình, mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị….
Như vậy phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành toàn diện, tổng
hợp, sáng tạo, làm cơ sở vượt qua chặng đường đầu, trên con đường học vấn của
2


các em và nó cũng là nguồn năng lượng dự trữ dồi dào đưa các em tiếp bước
vững chắc lên bậc thang của trường Tiểu học. Đây chính là ý nghĩa của việc học
tốt phân môn Tập làm văn bậc Tiểu học nói chung và phân môn Tập làm văn lớp
3 nói riêng
3. Phân môn Tập làm văn lớp 3 trong trường Tiểu học:
3.1. Nội dung chương trình sách giáo khoa
Chương trình dạy học Tập làm văn lớp 3 bao gồm 35 tiết / năm: trong đó
có 31 tiết thực học, và 4 tiết ôn tập.
- Kì 1: 16 tiết + 2 tiết ôn tập.
- Kì 2: 15 tiết + 2 tiết ôn tập.
Trang bị cho học sinh một số kiến thức và kĩ năng phục vụ cho học tập và
đời sống hàng ngày như: Điền vào tờ giấy in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức cuộc
họp, phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu cuộc họp của tổ; lớp; trường, ghi chép
sổ tay, viết đoạn văn,…...
Tiếp tục rèn kĩ năng : “Nghe, nói, đọc, viết “ thông qua kể chuyện, miêu
tả.

Ví dụ: Kể về một việc đơn giản, tả sơ lược về người hoặc vật xung quanh
theo gợi ý bằng tranh hoặc bằng câu hỏi.
Rèn kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe.
3.2. Phương pháp dạy học cơ bản
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp thực hành giao tiếp, rèn kĩ năng nghe-nói-đọc-viết.
- Phương pháp giảng giải.
- Phương pháp dạy học cá nhân.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp làm việc với sách giáo khoa và tài liệu.
3.3. Các hình thức luyện tập trong Phân môn Tập Làm Văn lớp 3
Học sinh được luyện tập chủ yếu qua các bài tập : Bài tập nghe, bài tập nói, bài
tập viết.
a ) Bài tập nghe: Học sinh được luyện tập qua các tiết học sau.
- Tuần 4: Nghe kể: Dại gì mà đổi.
- Tuần 7: Nghe kể: Không nỡ nhìn.
- Tuần 11: Nghe kể: Tôi có đọc đâu.
- Tuần 14: Nghe kể: Tôi cũng như bác.
- Tuần 15: Nghe kể: Giấu cày.
- Tuần 16: Nghe kể: Kéo cây lúa lên.
3


- Tuần 19: Nghe kể: Chàng trai phù ủng.
- Tuần 21: Nghe kể: Nâng niu từng hạt giống.
- Tuần 24: Nghe kể: Người bán quạt may mắn.
- Tuần 34: Nghe kể: Vươn tới các vì sao.
* Yêu cầu.
- Học sinh hiểu nội dung câu chuyện, thuật lại câu một cách mạnh dạng, tụ

tin.
- Học sinh thấy được ý nghĩa (cái hay, cái đẹp, cái cần phê phán) trong câu
chuyện.
- Biết diễn đạt rõ ràng thành câu, dễ hiểu.
- Giọng kể phù hợp nội dung từng câu chuyện.
b ) bài tập nói: Học sinh luyện tập qua các tiết học sau.
- Tuần 1: Nói về Đội.
- Tuần 5: Tập tổ chức cuộc họp.
- Tuần 6: Kể lại buổi đầu em đi học.
- Tuần 8: Kể về người hành xóm.
- Tuần 11: Nói về quê hương.
- Tuần 12: Nói về cảnh đẹp đất nước.
- Tuần 15: Giới thiệu về tổ em.
- Tuần 16: Nói về thành thị nông thôn.
- Tuần 20: Báo cáo hoạt động.
- Tuần 21: Nói về tri thức.
- Tuần 22: Nói về người lao động trí óc.
-Tuần 25: Kể về lễ hội.
- Tuần 26: Kể về một ngày hội.
- Tuần 28: Kể về một trận thi đấu thể thao.
- Tuần 32: Nói về bảo vệ môi trường.
* Yêu cầu:
- Học sinh nói đúng rõ ý, diễn đạt rõ ràng dễ hiểu.
- Học sinh nói theo nội dung chủ đề cho trước.
- Nói thành câu biết cách dùng từ chân thực.
- Nói thành đoạn văn.
c. Bài tập viết: học sinh luyện tập qua các tiết học sau.
- Tuần 1: Điền vào tờ giấy in sẵn (ĐTNTP).
- Tuần 2: Viết đơn.
- Tuần 3 và 4: Điền vào tờ giấy in sẵn.

- Tuần 10: Tập viết thư và phông bì thư.
- Tuần 12: Viết về cảnh đẹp đất nước .
4


- Tuần 13: Viết thư.
- Tuần 17: Viết về thành thị nông thôn.
- Tuần 22: Viết về người lao động trí óc.
- Tuần 28: Viết lại một tin thể thao trên báo đài.
- Tuần 29: Viết về một trận thi đấu thể thao.
- Tuần 30: Viết thư.
- Tuần 32: Viết về bảo vệ môi trường.
* Yêu cầu:
- Trình bày thành đoạn văn, đủ số lượng câu.
- Biết cách chấm câu, viết các câu theo mẫu đã học (ai làm gì?, làm như thế
nào?).
- Biết cách dùng từ ( biết cách sử dụng phép nhân hoá, so sánh).
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi
* Đối với giáo viên:
- Năm học 2016 - 2017 là năm học thứ 6 nhà trường tiến hành dạy học theo
mô hình VNEN, nên giáo viên đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương
pháp một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng dạy học đã tương đối hiệu quả.
- Qua sự chỉ đạo chuyên môn của trường cụ thể là ở các tổ chuyên môn, đặt
biệt là phòng Giáo dục rất cụ thể đã có chuyên đề về Dạy Tập làm văn cho học
sinh các lớp vì vậy đã góp phần tích cực giúp giáo viên đi đúng nội dung,
chương trình phân môn Tập làm văn.
- Thông qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo, Các đợt tập huấn đã
mang lại cho mỗi giáo viên nhiều kinh nghiệm và thành công khi áp dụng vào
giảng dạy Tập làm văn.

- Các phương tiện thông tin đại chúng như: Tivi, đài phát thanh, radio, sách,
báo ... Giáo viên đã tiếp cận với đổi mới phương pháp dạy và học Tập Làm Văn.
* Đối với học sinh:
- Học sinh lớp 3 ở giai đoạn này rất ham học, đặc biệt hơn lứa tuổi này các
em không còn bỡ ngỡ trước môi trường học tập thật sự như ở càc lớp học trước,
quan trọng là ở lớp 3 này các em đã được trang bị một khối lượng kiến thức khá
lớn ở lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kĩ năng của phân
5


môn Tập Làm Văn, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tạo lập ngôn bản, kĩ năng kể
chuyện miêu tả mà các thầy cô giáo trước đó dã trang bị sẵn. Đây là cơ sở giúp
cho các em học tốt phân môn Tập Làm Văn lớp 3.
- Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập Làm Văn nói riêng có nội
dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị
dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp vơi tâm lý lứa tuổi các em.
2. Khó khăn
* Đối với giáo viên:
- Trong môn Tiếng Việt phân môn khó nhất là Tập Làm Văn, nó đòi hỏi
người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần có vốn sống thực tế,
người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết
gợi mở tò mò, có khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp các em nói viết
thành văn bản.
* Đối với học sinh:
- Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 3, lứa tuổi mau nhớ nhưng
cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh còn hạn chế, cũng ảnh hưởng đến việc thực
hành luyện tập. Cụ thể là : Các em viết câu trả lời rời rạc, chưa liên kết, thiếu

lôgíc, tính sáng tạo trong thực hành viết chưa cao thể hiện ở cách trình bày bố
cục bài văn, dấu chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn riêng của mình. Ví
dụ: Phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
Với những thuận lợi và khó khăn như trên chúng tôi tiến hành khảo sát
chất lượng môn Tập Làm Văn lớp 3 về quá trình dạy và học để thấy các em tiếp
thu và vận dụng như thế nào?
3. Chất lượng khảo sát đầu năm.
6


Đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát chất lượng học tập phân môn Tập
làm văn, kết quả như sau:

Hoàn
Tổng số

thành

học sinh

tốt

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Hoàn


Hoàn

thành ở

thành

mức độ

Tỉ lệ

Chưa
hoàn

Tỉ lệ

thành

vừa
cập

23

02

8,6%

11

48%


10

43,4%

0

- Để thực hiện được mục tiêu của môn Tiếng Việt nói chung và kiến thức
kỹ năng phân môn Tập làm văn, trước hết giáo viên phải hiểu rõ được năng lực
nhận thức và cách diễn đạt khi nói, viết của từng học sinh. Qua thực tế giảng dạy
và kết quả khảo sát lớp học tôi nhận thấy: Hiệu quả việc học Tập làm văn ở lớp
tôi phụ trách so với yêu cầu đề ra còn thấp cụ thể như sau:
+ Việc quan sát và chi tiết chưa cụ thể chỉ mang tính chung chung.
+ Việc trình bày miệng còn lúng túng do vốn từ chưa nhiều, khả năng diễn
đạt kém.
+ Đặc biệt khi viết văn các em còn viết sai chính tả, câu văn lủng củng,
chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, liên tưởng......
dẫn đến bài viết sơ sài thiếu cảm xúc.
+ Trình bày bài nói thiếu tự tin.
Từ chất lượng thực tế qua khảo sát, tôi đã nắm được khả năng học tập của
từng đối tượng và đi sâu bồi dưỡng cho các em.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* Tôi đã sử dụng các biện pháp sư phạm để dạy học phân môn tập làm
văn lớp 3 theo định hướng đổi mới hiện nay như sau:
1. Luôn chú trọng “Tích hợp-lồng ghép” khi dạy phân môn Tập làm
văn lớp 3
Khi dạy Tập Làm Văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân
môn trông môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu,
7



tập viết,... để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm
văn mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: Các bài học
được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm
ở tất cả các phân môn. Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong hai tuần gồm các bài
tập đọc, luyện từ và câu,... Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài
đọc cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình
ảnh về chủ đề Cộng đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện Các em nhỏ và
cụ già ở tuần 8 giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dùng lại? (Các bạn gặp
một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu).
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào? ( Các bạn băn khoăn và trao
dổi với nhau. Có ban đoán: a) Hay ông cụ bị ốm, b) Hay cụ bị mất cái gì đó.
Cuối cùng cả nhóm bạn đến hỏi thăm ông cụ).
+ Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ? Với câu hỏi này có thể các em sẽ
trả lời như sau:
- Vì các bạn là những trẻ ngoan.
- Vì các bạn là những người nhân hậu.
- Vì các bạn muốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ.
+ Ông cụ gặp chuyện gì buồn? (Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh
viện, khó mà qua khỏi).
+ Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng mình nhẹ hơn?
Với câu hỏi này có thể các em trả lời như sau:
- Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ.
- Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có các bạn nhỏ trò chuyện.
- Ông cảm thấy lòng mình ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho
mình.
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình
cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song
song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả
8



lời của bạn để học sinh rút ra câu trả lời đúng nhất phù hợp với tình huống đó,
và tạo cho học sinh cách ứng xử hay.
Qua câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết
quan tâm chia sẻ với nhũng người trong cộng đồng, giúp các em khi viết các
đoạn văn kể về những người thân hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được
nội dung: Con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những
người xung quanh, làm cho mỗi người dịu bớt những lo lắng, buồn phiền, và
cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy: Như vậy qua tiết học này, học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn
đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói
của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các
em cách ứng sử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về
mối liên hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng ; rèn cho hoc
sinh thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng
Cùng với chủ đề này thì Luyện từ và câu tuần 8 cũng cung cấp cho học sinh
vốn từ về chủ đề cộng đồng qua hệ thống các bài tập, cụ thể như: Bài 1: Sắp xếp
những từ vào ô trống trong bảng phân loại sau. Các từ: Cộng đồng, cộng tác,
đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương. Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa
các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ: Nhóm 1: Những người trong cộng đồng.
Nhóm 2: thái độ hoạt động trong công đồng. Từ việc hiểu nghĩa ở bài tập 1, học
sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay
không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng thể hiện trong các thành ngữ
đó.
+ Chung lưng đấu cật (Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện
một công việc nhiều khó khăn trở ngại)
+ Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại (phê phán thái độ thờ ơ, không
quan tâm, tương trợ người khi khác gặp khó khăn ).
+ Ăn ở như bát nước đầy (Ca ngợi con người ăn ở cư xử với mọi người có

tình, có nghĩa, trước sau không thay đổi).
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử
trong cộng đồng khi nói. Viết tập làm văn giao tiếp, giao tiếp ứng xử trong cuộc
sống.
9


Ở phân môn chính tả tuần 8 các em cũng được luyện viết các bài trong
chủ đề Cộng đồng.
Ví dụ: viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già: “Cụ ngừng lại và nghẹn
ngào nói tiếp .... cho đến ông cũng thấy lòng nhẹ hơn. Khi viết đoạn văn trên
học sinh rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự thông cảm,
chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo láng buồn phiền, tăng thêm
cho mỗi người niềm hi vọng, ngị lực sống. Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp
của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài
văn cụ thể của chính các em. Tương tự, ở phân môn tập viết tuần 8 các em được
làm quen với các thành ngữ, tục ngữ về chủ đề cộng đồng như luyện viết câu
ứng dụng: “ Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá
nhau”. Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết
xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “ Kể về người hàng xóm mà em
yêu mến” (TLV lớp 3 tuần 8), và viết được đoan văn hoàn chỉnh, thể hiện tình
cảm, thái độ dánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn
có hính ảnh. Ví dụ như các em viết: “ Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà
em. Cô là một giáo viên Tiểu học, tối tối miệt mài bên giáo án, và chấm bài cho
học sinh. Với dáng nhỏ nhắn nhưng rất nhanh nhẹn, giọng cô ấp áp. Em thích
nghe nhất là khi cô hát. Cô thật xứng danh là một giáo viên giỏi của trường”.
* Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, chính tả, tập
đọc,...đều nhằm mục đích giúp học sinh có kĩ năng hình thành văn bản, ngôn
bản. Do đó, tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập
làm văn lớp 3.

2. Dạy học theo quan điểm giao tiếp
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kĩ năng diễn
đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng
ngày với thầy, cô, cha mẹ, bạn bè, và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học
sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương
pháp dạy truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động
học tập, tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua phân môn Tập Làm Văn đảm
bảo đạt được hiệu quả tối ưu. Ví dụ: Giảng dạy bài tập nghe, tập nói, và kể lại
câu chuyện “ Giấu cày” Tập làm văn tuần 1: Qua việc kể mẫu của giáo viên,
10


quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa... Học sinh kể nội dung câu chuyện như sau:
Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời :
- Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.
Về nhà bác liền bị vợ trách:
- Ông giấu cái cày mà hét to thế, kẻ gian biết chỗ nó lấy mất cái cày thì
sao. Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên cái cày bị mất. Bác ta
liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vợ:
- Nó lấy mất cái cày rồi.
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho
nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự
phê phán hóm hỉnh, hài hước và kể lại nội dung câu chuyện với giọng kể, cử chỉ,
điệu bộ gây cười ở ngưòi nghe, nét mặt phù hợp, nâng tính kịch tính câu chuyện
lên cao hơn. Song song với việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói học sinh rèn kĩ năng
viết: Nắm kĩ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ
pháp, bố cục văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văncủa học sinh
không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc thông qua đó thể

hiện suy nghĩ, cảm xúc, đánh giá, thái độ yêu – ghét, trân trọng hoặc phê phán
các em. Thông qua bài viết của các em về một vấn đề nào đó. Bổ trợ cho việc
rèn kĩ năng nghe – nói trong tiết tập làm văn, phần kể chuyện của tiết tập đọc kể
chuyện cũng chú trọng rèn kĩ năng giao tiếp.
Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện tiết 2, bài “Đất quý đất yêu” tuần 11:
Nhiệm vụ của học sinh là: Quan sát tranh, sắp xếp tranh theo trình tự nội dung
câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện đúng nội
dung, ngắn gọn, từ ngữ xúc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ điệu bộ
để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục
tập quán của người Ê-ti-ô-pi-a: Họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất.
thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả
năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
* Tóm lại: Học sinh rèn kĩ năng quan sát, nói-viết, rút ra những nét điển
hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của
mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý
thức giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú
trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các
11


em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể
hiện, bày tỏ cảm thụ đó với người khác. Như vậy, Mỗi bài nói bài viết sẽ chính
là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn - yêu cái hay cái đẹp,
yêu tiếng Việt - giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
3. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng
kể, điệu bộ khi làm văn nghe - nói - viết.
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn
trong việc nghe – nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy,
giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh,
nội dung thể hiện của tranh. học sinh cảm nhận được nét đẹp của cảnh vật, con

người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng
gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể,để nhớ được các ý chính của
nội dung câu chuyện. Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng
ngôn từ. Giáo viên cần hướng cho các em cách chon lựa, sử dụng từ ngữ, hình
ảnh diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng
hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc,nhất là tình cảm của các em
muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trược tiếp
nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảch của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so
sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em. Đó chính là
điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
*Ví dụ: Dạy tập làm văn tuần 12. Cụ thể ở bài tập 2: yêu cầu học sinh
viết đoạn văn quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta.
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, Giúp học
sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa
chon từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe - đọc
tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng
cảnh mà học sinh nói đến. Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như: Điệu
bộ, nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết
phục đối với người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn
luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này.
4. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Tập làm
văn theo hướng đổi mới
12


Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các
hoạt động học tập một cách chủ động và tích cực. Giáo viên sử dụng các hình
thức tổ chức dạy học như: Học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau hoặc
với chính các thầy cô, hoặc hoạt động các nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các

hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: Đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò
chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức,... Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức,
tích cực, tự giác “học mà chơi, chơi mà học”. Không khí học tập thoải mái khiến
học sinh mạnh dạng, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu
ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu.
So sánh với phương pháp dạy tập làm văn lớp 3 truyền thống: Mỗi tiết tập
làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề tài thuộc một
thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo
viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu
hỏi gợi ý... khiến cho học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo
khuôn mẫu không khuyến khích được học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận
xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em. Trong chương trình sách giáo khoa
lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở,
với nhiều dạng bài: Nghe-nói, nói- viết, nghe-nói-viết... Vì vậy, giáo viên vẫn
bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn
trong cách tổ chức hoạt động dạy-học, phân bổ thời gian hợp lý, vừa tránh được
những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính
tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Tiết tập làm văn (tuần 11) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lai câu chuyện “Tôi có đọc đâu”. Yêu cầu học sinh nghe
và kể lại câu chuyện. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:
- Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuỵên
- Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý sách giáo khoa,
tranh và việc nghe giáo viên để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.
- Đại diện từng nhóm kể trước lớp.
- Học sinh nhận xét, bổ sung, đánh giá.

13



Cách tổ chức các hình thức hoạt đông nêu trên huy động được tất cả học
sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa
từng học sinh với nhau và giữa các nhóm học sinh.
Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở. Yêu cầu học sinh làm
việc cá nhân với vở bài tập. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học sau:
- Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập.
- Học sinh nhận xét bài làm của bạn.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung, đánh giá.

( Học sinh đang tổ chức cho các bạn chia sẻ bài viết về quê hương )
Tóm lại ở hai bài tập này giáo viên nên sử dụng và phối hợp linh hoạt các
hình thức dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới, tạo được hứng thú cho học
sinh, học sinh tham gia các hoạt động học một cách hào húng, tích cực, sáng tạo.
Ví dụ: Tiết Tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập.
Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết.
14


- Giáo viên cho hoc sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập).
- Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc.
- Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm lên trình bày.
- Học sinh các nhóm khác nghe nhận xét, bổ sung.

( Hoạt động chia sẻ trong nhóm trong tiết Tập làm văn lớp 3b)
Bài 2: Viết những điều mà em vừa kể vào đoạn văn.
- Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn
đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp.
* Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện
viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy
học trong dạy tập làm văn và nhiệm vụ cần thiết.

5. Dạy học hướng vào học sinh và chú trọng các hình thức dạy học cá
nhân.
Dạy Tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra
một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy
nghĩ và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải
15


vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi;
phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra với vấn đề đặt ra trong câu hỏi ;
phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận, phương án trả lời tốt
nhất. Nói ngắn gọn lại: Học sinh tìm câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông
tin và phân tích dữ kiện.
Ví dụ: Dạy Tập làm văn tuần 5. Có bài tập như sau : Tập tổ chức cuộc
họp.
- Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp.
- Xác định mục đích cuộc họp, nguyên nhân cuộc họp.
- Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống nhất phương án giải
quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên.
* Như vậy, thông qua một số tiết Tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng
tạo của học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh làm
bài.
6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp
6.1. Dạy văn thông qua các hoạt động ngoài khoá: Giúp học sinh có
những hiểu biết ngoài kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Do đó
việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài gìơ lên lớp rất cần thiết. Qua các hoạt
động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội
dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự phối kết
hợp chặc chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về
gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: Thi giai điệu tuổi hồng, tập diễn

các tiểu phẩm, thi kể chuyện, đọc thơ, thi các môn năng khiếu,... Hoặc thông qua
các buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỉ niệm đẹp
của các em về ngày đầu tiên đi học (bài học tuần 6)... Hay qua các buổi lễ kết
nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, giúp các em viết tốt hơn đơn xin vào Đội, sinh
hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội ... Ví dụ: Tham dự Hội thi tim hiểu
về Đội .Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí Minh,
Giúp các em viết tốt hơn đơn xin vào đội (tiết Tập làm văn tuần 2), với yêu cầu:
Em hãy viết đơn xin vào đội với mẫu in sẵn.

16


( Hoạt động ngoài giờ cho trẻ khám phá mô hình biển đảo nước ta )

( Tổ chức cho học sinh quan sát và trải nghiệm về vẻ đẹp quanh em)
6.2. Dạy tập làm văn thông qua các hoạt động đọc sách báo truyện
Kích thích trí tưởng tượng của trẻ.Trí tưởng tượng của trẻ càng cao thì
khả năng ngôn ngữ càng tốt. Bạn có thể khích thích trí tưởng tượng của trẻ bằng
17


cách kể một câu chuyện với nhiều nhân vật và yêu cầu trẻ tưởng tượng ra cái kết
của câu chuyện hay hình dáng của các nhận vật. Một quyển tranh tô màu hay
những trò chơi liên quan đến trí tưởng tượng chắc chắn sẽ làm trẻ thích thú và
phát huy được trí tưởng tượng của mình.
Khuyến khích trẻ đọc sách. Hãy chọn những quyển sách có chủ đề mà trẻ
yêu thích và khuyến khích con đọc sách mỗi ngày. Cách này sẽ giúp trẻ yêu
thích đọc sách, tăng khả năng từ vựng và tăng khả năng viết lách, giúp trẻ viết
câu chuẩn hơn, hay hơn.


18


( Học sinh đang đọc sách báo, truyện trong các hoạt động ngoại khóa )
7. Dạy học tốt tập làm văn bằng cách rèn thói quen cho trẻ.
Dạy trẻ cách ghi chép những câu/đoạn văn hay. Mỗi ngày hãy khuyến
khích con viết 1 câu hoặc đoạn văn mà con cảm thấy thích vào sổ tay của mình
và thường xuyên mở ra xem. Thói quen này sẽ giúp con bổ sung vốn từ, cấu trúc
câu hay một cách tự nhiên. Đồng thời cách viết của con sẽ trở nên hay hơn, thú
vị hơn và trẻ cũng thích thú với việc học văn hơn.
8. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp.
Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ
đề, chủ điểm, nâng cao cao dần về mức độ và lượng kiến thức qua từng lớp học.
Do đó để đạt được hiệu quả tốt trong giảng dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng
đổi mới cần thực hiện đồng bộ viẹc đổi mới phương pháp ở tất cảc các khồi lớp
trước (lớp 1-2) và đựợc tiếp theo ở lớp 4-5.Cụ thể: Dạy học sinh tập nói thành
câu, nói theo chủ đề, nội dung, nhìn tranh nói thành câu. Đối với lớp 2: Dựa trên
nền tảng kiến thức mà các em đã học được ở lớp 1, nâng cao mức độ vừa phải:
Kể lại câu chuyện đã học, nói - viết thành câu, đưa ra các mẫu câu (ai làm gì? Ai
như thế nào? ...), viết đoạn văn từ 2-3 câu. Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói,
luyên viết: mẫu câu rộng, bao quát hơn; yêu cầu về câu cao hơn, câu đúng ngữ
pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hoá, câu văn giàu hình ảnh.
Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu văn tăng lên (5-7 câu), đã chú ý đến
kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong câu văn, đoạn văn. Đối với lớp 4:
19


Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt truyện có nhân
vật, kể chuyện dựa trên cốt truyện có sẵn hoặc tưởng tượng; luyện viết: câu
thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hoá theo nhiều kiểu khác tiến tới

viết thành bài văn. Đối với họ sinh lớp 3: học sinh luyện nói hoàn chỉnh về câu
sử dụng nhiều biện pháp tu từ ( so sánh, nhân hóa ) trong bài viết, viết thành bài
văn hoàn chỉnh với số lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung bài. Học sinh biết bộc
lộ cảm xúc khi tả, kể, viết.
* Tóm lại: Kiến thức ở các lớp có một mối liên hệ logic: Kế thừa, mở
rộng, nâng cao. Do đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn
phải đổi mới tất cả các khối lớp.
C. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
Để có nhiều học sinh học tốt phân môn tập làm văn, trước tiên tôi phải
quan tâm tới đối tượng học sinh của lớp mình. Từ đó tôi tiến hành xây dựng các
kế hoạch cũng như biện pháp cụ thể mà bản thân tôi đã thực hiện theo trình tự :
Tiếp cận, gợi ý, khám phá, lĩnh hội kiến thức, thực hành luyện tập. Từ đó sẽ rèn
luyện kỹ năng nói, viết và cảm thụ văn học. Từ những biện pháp trên tôi thấy
chất lượng đi lên rõ rệt. Bên cạnh những biện pháp là những phương pháp tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh tự pháp vấn, tự chiếm lĩnh. Luôn có những
biện pháp kết hợp giữa mới và cũ, thực tiễn, trực tiếp, gián tiếp, để hướng dẫn
học sinh nắm bắt nhanh và nhạy bén hơn để gây sự hứng thú trong học tập làm
sao có những bài viết lý thú bổ ích.
Với việc áp dụng các biện pháp trình bày ở trên, lớp tôi đã thu được kết
quả như sau:

Hoàn

Tỉ lệ Hoàn

Tỉ lệ

Tổng số thành
học sinh Tốt


Hoàn

thành ở

thành

mức độ

Tỉ lệ

Chưa
hoàn

Tỉ lệ

thành

vừa
cập

23

06

26%

14

61%


03

13%

0
20


Qua 2 lần khảo sát học sinh tôi thấy kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp
3 học tốt Tập làm văn của bản thân tôi đối với học sinh lớp 3 trường Tiểu học số
1 Khánh Yên Thượng đã có hiệu quả. Tôi thấy chất lượng học sinh tăng lên rõ
rệt. Học sinh học khá lên ở tất cả các môn học.
Thông qua thử nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu rất nhiều kinh nghiệm
và có kết quả: học sinh thích thú hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh phong
phú hơn, câu văn giàu hình ảnh,...
Từ kết quả trên dẫn đến học sinh học tốt môn Tiếng Việt nói chung và tạo
đà học tốt các môn học khác và từ đây học sinh sẽ viết đúng, viết chính xác
không còn sai lỗi chính tả, nói và viết đủ câu trong giao tiếp cũng như trong khi
làm bài.
Từ những kinh nghiệm này áp dụng vào các bài học, học sinh có những
hứng thú ham học, trong khi làm bài cũng như trong giao tiếp học sinh viết và
nói đủ câu không còn tình trạng nói, viết thiếu thành phần trong câu. Các em tự
tin hơn trong giao tiếp, vốn ngôn ngữ của các em không còn hạn chế như khi
chưa được hướng dẫn.
Dưới đây là một số hình ảnh về kết quả học tập của các em học sinh lớp
tôi phụ trách

21



22


D. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của sáng kiến đối với công việc giảng dạy.
Sáng kiến đã mang lại cho người dạy học kiến thức và phương pháp
chuyên sâu trong việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học.
Giúp học sinh lớp 3 có những phương pháp học tập hiệu quả trong quá
trình học Tập làm văn.
Góp phần vào việc Đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Phát huy khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh đồng thời thúc đẩy
phong trào thi đua Dạy tốt - Học tốt trong ngành Giáo dục và Đào tạo của huyện
nhà.
II. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng
sáng kiến.

23


Qua thực tế giảng dạy phân môn Tập làm văn, tôi thấy rằng: Điều cốt yếu
của Tập làm văn là phân môn có nhiệm vụ rèn kỹ năng nói và viết cho học sinh.
Học sinh nói được văn bản đủ ý, đúng ngữ pháp và theo một trình tự hợp lý.
Trên cơ sở văn bản nói, các em rèn kỹ năng viết để tạo thành những văn bản
hoàn chỉnh, sinh động. Qua những bài văn của mình, học sinh cảm nhận sâu sắc
hơn vẻ đẹp của thiên nhiên, con người … Từ đó các em càng thêm tự hào về
thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài rút ra bài học kinh nghiệm:
1. Dạy Tập làm văn theo phương pháp “ tích hợp - lồng ghép” các phân
môn trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp chặc chẽ mối quan hệ về yêu cầu kiến
thức phân môn Tập làm văn của các khối lớp.

2. Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kĩ năng
nghe - nói - đọc - viết cho học sinh.
3. Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng
từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu.
4. Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm
tòi.
5. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp
dạy học theo hướng đổi mới.
6. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ thể hoạt
động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận
phù hợp với bài học.
7. Giáo viên biết cách phối hợp hoạt đông học tập với các hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Muốn các em học tốt hơn nữa phân môn Tập làm văn, người thầy phải
đầu tư nghiên cứu các tài liệu và học hỏi nhiều hơn trong thực tế, ở đồng nghiệp
giàu kinh nghiệm. Luôn quan tâm sâu sát đến hoàn cảnh, môi trường sống của
từng học sinh cũng như khả năng nhận thức của mỗi em để có những biện pháp
phù hợp, sự động viên kịp thời giúp học sinh nâng cao chất lượng học tập.
Với khả năng có hạn, trong quá trình nghiên cứu đề tài, bản thân tôi còn
gặp nhiều khó khăn nên trong đề tài này tôi chỉ có thể trình bày một số vấn đề ở
trên với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả hướng
dẫn học sinh lớp 3 học tốt Tập làm văn.
24


Cùng với một khoảng thời gian nghiên cứu và thực hiện sáng kiến tại đơn
vị trường Tiểu học số 1 Khánh Yên Thượng không trách khỏi thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của Hội đồng khoa học các cấp, các
bạn đồng nghiệp. Tôi xin trân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG


NGƯỜI VIẾT

Trần Thị Thơm

25


×