Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tình hình lãi suất tại thị trường việt nam 2007 đến 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.19 KB, 19 trang )

TÌNH HÌNH LÃI SUẤT TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT ĐẾN THỊ TRƯỜNG TỪ 2007
ĐẾN 2017
1.

2.

3.

4.

Khái niệm và phân loại lãi suất ............................................................................................ 2
1.1.

Khái niệm lãi suất.....................................................................................................................2

1.2.

Phân loại lãi suất ......................................................................................................................2

1.2.1.

Căn cứ vào thời gian tín dụng ..........................................................................................2

1.2.2.

Căn cứ vào loại hình tín dụng ..........................................................................................2

1.2.3.

Căn cứ vào giá trị lãi suất .................................................................................................3



1.2.4.

Căn cứ theo các định chế lãi suất .....................................................................................4

1.2.5.

Căn cứ theo phương pháp tính lãi suất .............................................................................4

Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất ..................................................................................... 4
2.1.

Cung – cầu về vốn ....................................................................................................................4

2.2.

Lạm phát...................................................................................................................................5

2.3.

Thuế..........................................................................................................................................6

2.4.

Rủi ro........................................................................................................................................6

2.5.

Thị trường vốn quốc tế .............................................................................................................6


Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế ................................................................................... 6
3.1.

Lãi suất với quá trình huy động vốn .........................................................................................6

3.2.

Lãi suất với quá trình đầu tư.....................................................................................................7

3.3.

Lãi suất – vai trò của nó đối với hoạt động Ngân hàng thương mại ........................................8

3.4.

Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm ...........................................................................................8

3.5.

Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu ........................................................9

3.6.

Lãi suất với lạm phát ............................................................................................................. 10

Thực trạng lãi suất ở Việt Nam từ 2007 đến nay ................................................................ 10
4.1.

Lạm phát và lãi suất danh nghĩa ............................................................................................ 15


4.2.

Trạng thái thanh khoản của các ngân hàng thương mại ........................................................ 17

1


1.

Khái niệm và phân loại lãi suất
1.1. Khái niệm lãi suất

- Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh
tế, diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên báo chí và các phương tiện thông tin đại
chúng, vì nó là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, đến bản thân mỗi chúng ta.
Người đi vay luôn muốn có lãi suất cao nhất trong khi người đi vay lại muốn lãi suất là
thấp nhất.Việc xác định lãi suất do vậy không đơn giản chút nào. Vậy thế nào là lãi suất?
- Khi sử dụng bất kỳ một khoản vay nào, người vay đều phải trả thêm một phần giá trị
ngoài vốn gốc ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban
đầu gọi là lãi suất.
1.2. Phân loại lãi suất
1.2.1. Căn cứ vào thời gian tín dụng
- Xét về mặt thời gian tín dụng, lãi suất được chia thành 3 loại:
 Lãi suất ngắn hạn được áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn.
 Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản vay trung hạn.
 Lãi suất tín dụng dài hạn được sử dụng cho các khoản vay dài hạn.
1.2.2. Căn cứ vào loại hình tín dụng
a. Lãi suất tín dụng thương mại
- Đây là loại hình lãi suất được áp dụng khi các doanh nghiệp cho vay dưới hình thức mua
bán chịu hàng hoá.

b. Lãi suất tín dụng ngân hàng
- Được áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp, công chúng thông qua
việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng trung ương
cho các ngân hàng thương mại và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng.
 Lãi suất tiền gửi là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để tính lãi phải
trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời
hạn gửi tiền, quy mô tiền gửi,...
 Lãi suất tiền vay là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn
vay của ngân hàng. Nó được áp dụng khi tính tiền lãi vay mà khách hàng phải trả cho
ngân hàng. Về mặt nguyên tắc mức lãi suất tiền vay bình quân phải cao hơn mức lãi
suất tiền gửi bình quân và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau,
cũng như mức rủi ro khác nhau.
 Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng cho vay dưới hình thức chiết khấu thương
phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được

2


tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của các giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay
khi ngân hàng phát tiền cho khách hàng. Như vậy, nếu xét trong quan hệ giữa ngân
hàng với người vay chiết khấu, lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ
không phải trả sau như lãi suất thông thường.
 Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho các ngân
hàng thương mại dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá
chưa đến hạn thanh toán của ngân hàng thương mại. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ
phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được trừ ngay khi ngân hàng trung
ương cấp tiền vay cho ngân hàng thương mại. Vì hành vi tái chiết khấu cung ứng vốn
cho các ngân hàng thương mại nên thông thường lãi suất tái chiết khấu thường nhỏ
hơn lãi suất chiết khấu.

 Lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
vay trên thị trường liên ngân hàng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu tiền của
các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng trung
ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở
và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng trung ương của các tổ chức tín dụng.
 Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức
tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Việc xác định lãi suất cơ bản là do ngân hàng
Nhà nước căn cứ trên cung cầu về vốn trên thị trường.
c. Lãi suất tín dụng Nhà nước
- Áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát
hành trái phiếu hoặc tín phiếu. Loại lãi suất này có thể do ngân hàng Nhà nước ấn định
căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng, vào các yếu tố: lạm phát, nhu cầu
cấp thiết về vốn,... hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái
phiếu Nhà nước.
1.2.3. Căn cứ vào giá trị lãi suất
- Từ lâu chúng ta đã quên mất tác dụng của lạm phát đối với chi phí vay mượn. Cái mà
chúng ta gọi là lãi suất không kể đến lạm phát cần gọi một cách chính xác hơn là lãi suất
danh nghĩa để phân biệt với lãi suất thực.
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được công bố bằng một con số cụ thể, cho ta biết sẽ thu
được bao nhiêu đồng hiện hành về tiền lãi nếu cho vay 100 đồng trong một đơn vị thời
gian. Như vậy sau khoảng thời gian đó ta sẽ thu được một khoản tiền gồm gốc và lãi. Tuy
nhiên giá cả hàng hoá không ngừng biến động do lạm phát, điều chúng ta quan tâm là lúc
đó số tiền gốc và lãi sẽ mua được bao nhiêu hàng hoá.
- Lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa được chỉnh lại cho đúng theo đúng những thay đổi dự
tính về mức giá, thể hiện mức giá theo số lượng hàng hoá và dịch vụ.
 Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực

3 – Tỷ lệ lạm phát dự tính
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa



1.2.4. Căn cứ theo các định chế lãi suất
a. Lãi suất cố định
- Là lãi suất áp dụng cố định trong suất thời hạn vay.
 Ưu điểm: Người gửi tiền và vay tiền biết trước số tiền lãi được trả và phải trả.
 Nhược điểm: bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định trong một thời hạn nào đó dù cho
các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào.
- Nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng phải tuân thủ một cách tuyệt đối. Đó chính là cơ chế ấn định
lãi suất.
b. Lãi suất khống chế
- Nhà nước không ấn định các mức lãi suất mà chỉ quy định các mức lãi suất tối đa (lãi suất
trần), mức lãi suất tối thiểu (lãi suất sàn) tạo thành khung giới hạn để từ đó các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh.
c. Lãi suất thả nổi
- Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước hoặc không báo trước. Lãi suất
thả nổi có lợi cho cả hai bên khi nhận và trả tiền đều tính theo một lãi suất chung là lãi
suất hiện tại.
- Nhà nước không ấn định các mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế lãi suất mà
để cho lãi suất tự hình thành theo cơ chế thị trường, các ngân hàng được quyền xác định
và công bố lãi suất kinh doanh để đem áp dụng trong việc huy động vốn và cho vay.
1.2.5. Căn cứ theo phương pháp tính lãi suất
- Lãi đơn: là lãi suất tính một lần theo số vốn gốc trong suốt thời hạn cho vay, tiền lãi sau
mỗi kỳ không được nhập vào vốn để tính lãi cho kỳ hạn kế tiếp.
- Lãi kép: là phương pháp tính toán mà tiền lãi sau mỗi kỳ được nhập vào vốn để đầu tư
tiếp và sinh lãi cho kỳ sau.

2.

Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất

2.1. Cung – cầu về vốn
- Cầu về vốn là nhu cầu cho vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các
chủ thể kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Cầu về vốn được cấu thành chủ yếu từ các
bộ phận:
 Nhu cầu vay của các doanh nghiệp và các hộ gia đình nhằm hình thành vốn đầu tư và
trang trải các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện
các yếu tố khác không thay đổi như: lạm phát dự tính, khả năng sinh lời dự tính của

4


các cơ hội đầu tư... nhu cầu vốn của doanh nghiệp và hộ gia đình biến động ngược
chiều với sự biến động của lãi suất.
 Nhu cầu vốn của Chính phủ nhằm đáp ứng thiếu hụt của ngân sách Nhà nước. Nhu cầu
này biệt lập với sự biến động của lãi suất.
 Nhu cầu vay vốn của các chủ thể nước ngoài bao gồm các loại chủ thể như doanh
nghiệp, Chính phủ, các tổ chức tài chính trung gian. Nhu cầu về vốn của các chủ thể
này biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất. Tóm lại, ba bộ phận trên tạo
nên cầu về vốn trong nền kinh tế. Vì thế cầu về vốn biến động ngược chiều với sự biến
động của lãi suất. Do đó, đường cầu biểu diễn mỗi quan hệ giữa lãi suất và cầu về vốn
là đường dốc xuống, độ dốc phản ánh sự nhạy cảm của cầu về vốn với lãi suất.
- Cung về vốn là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác nhau
trong xã hội. Được cấu thành từ các nguồn sau:
 Tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia đình, đây là bộ phận chủ yếu của cung về vốn. Trong
điều kiện bình thường, tiền gửi tiết kiệm phụ thuộc nhiều vào lãi suất, nếu lãi suất tăng
sẽ kích thích nhu cầu tiết kiệm của công chúng và ngược lại. Tuy nhiên mức độ nhạy
cảm này còn phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế cũng như thói quen tiết kiệm và
tiêu dùng của công chúng.
 Nguồn vốn tạm thời của các doanh nghiệp dưới hình thức quỹ khấu hao cơ bản, lợi
nhuận chưa chia, các quỹ chưa sử dụng,… Nguồn này cũng biến động cùng chiều với

lãi suất tuy không nhạy cảm nhiều như tiền gửi tiết kiệm.
 Các khoản thu chưa sử dụng của ngân sách Nhà nước. Bộ phận này không chịu ảnh
hưởng của lãi suất.
 Nguồn vốn từ phía nước ngoài, đây cũng là biến số cùng chiều với lãi suất.
Mặc dù có những bộ phận không chịu ảnh hưởng của lãi suất nhưng tổng hợp lại
đường cung về vốn biến động cùng chiều với lãi suất. Trên đồ thị biểu diễn mối quan
hệ giữa lãi suất và vốn thì cung về vốn là đường dốc lên.
- Cung và cầu về vốn cắt nhau tại điểm cân bằng làm hình thành lên lãi suất thị trường. Đó
là mức lãi suất thoả mãn cả cung và cầu về vốn.
2.2. Lạm phát
Như ta đã biết, lạm phát là kẻ thù của lãi suất, lạm phát sẽ làm bay hơi lãi suất một cách
vô hình. Do đó một lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiên việc
vay tiền giảm xuống, nhu cầu về vốn tăng lên. Mặt khác, khi lạm phát dự tính tăng lên thì
lợi tức dự tính của các khoản tiền gửi giảm xuống. Những người cho vay lập tức chuyển
vốn vào thị trường khác như thị trường bất động sản hay dự trữ hàng hoá, vàng bạc,... Kết
quả là lượng cung về vốn giảm đối với bất kỳ lãi suất nào cho trước. Như vậy, một sự thay
đổi về lạm phát dự tính sẽ tác động đến cung cầu tư bản cho vay. Cụ thể là, tăng lạm phát
dự tính sẽ làm tăng lãi suất do giảm lượng cung ứng và tăng cầu về tư bản.

5


2.3. Thuế
- Khi Fisher đưa ra phương trình:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát dự tính
thì ông đã quên mất rằng tổng lãi thu được phải chịu thuế thu nhập. Nếu tính đến yếu tố
thuế thì:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Thuế thu nhập – Tỷ lệ lạm phát dự tính
- Như vậy khi mức thuế tăng sẽ làm giảm lãi suất thực, tức là thu nhập của người cho vay
sẽ bị giảm dẫn tới cung về tiền sẽ giảm. Từ đó sẽ tác động ngược lại đến lãi suất danh

nghĩa.
2.4. Rủi ro
- Rủi ro là nhân tố được tính vào lãi suất. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, sự thay đổi
tương quan giữa lãi suất tiền gửi với lãi suất tiền vay gọi là “rủi ro lãi suất”. Trường hợp
kỳ hạn tiền gửi không đổi, vốn huy động không đổi, nhưng cho vay thấp hơn trước hoặc
trường hợp lãi suất không đổi, vốn huy động không đổi nhưng tiền vay với thời hạn dài
hơn trước đều dẫn đến rủi ro vỡ nợ hoặc rủi ro thiếu vốn khả dụng cao. Do vậy rủi ro thị
trường đều được định giá trong cơ cấu lãi suất đưa ra. Tóm lại, rủi ro là hai nhân tố chủ
yếu tác động đến quyết định lãi suất của mỗi ngân hàng.
2.5. Thị trường vốn quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, vốn được luân chuyển trên phạm
vi quốc tế. Vì vậy lãi suất trên thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia cũng chịu tác động của
thị trường khu vực và thế giới. Trước hết thị trường vốn quốc tế quyết định lãi suất thực
quốc tế. Sau đó lãi suất thực quốc tế lại ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thực tại các nước
theo từng qui mô của nền kinh tế mở.
- Dưới nền kinh tế nhỏ: lãi suất thực nội địa phải cao hơn lãi suất thực thế giới nếu mốn
thu hút đầu tư quốc tế và ngăn cản người gửi tiết kiệm trong nước đầu tư vốn ra nước
ngoài.
- Dưới nền kinh tế hùng mạnh: mức độ ảnh hưởng lãi suất quốc tế đến lãi suất thực trong
nước đôi khi không lớn bằng tác động ngược lại của sự thay đổi lãi suất do tiết kiệm và
đầu tư nước đó biến động đến lãi suất thực của thế giới.

3.

Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
3.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn

- Lãi suất là chi phí huy động vốn của doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải
xem xét khả năng lợi nhuận thu được với chi phí huy động vốn bỏ ra để quyết định huy


6


động vốn từ nguồn nào và đầu tư vào đâu để có lợi cho doanh nghiệp nhất. Còn ngân
hàng phải xem xét giữa lãi suất huy động với khả năng cho vay ở mức lãi suất cao hơn để
đưa ra phương hướng hoạt động đảm bảo mục tiêu của ngân hàng tồn tại và phát triển.
- Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý bảo đảm nguyên tắc quy định: lãi suất phải
bảo tồn được giá trị vốn vay, bảo đảm tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ
thể:
 Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân
 Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay).
- Tóm lại, lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến
chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu
về tiền tệ (GNP).
3.2. Lãi suất với quá trình đầu tư
- Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự
tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi
vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành
mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường kinh tế hoàn chỉnh, ngay cả khi một
doanh nghiệp thừa vốn thì chỉ tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi
vì ngoài đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào
ngân hàng nếu lãi suất cao.
- Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu
thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là: lãi suất phải
nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh
nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
- Mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất được thể hiện qua đồ thị sau:

Lãi suất
Hình 1: Biểu diễn mối

quan hệ tỷ lệ nghịch giữa
đầu tư và lãi suất.

_
I = I – b*i

i1
i2
I1

I2

Đầu tư

 Lãi suất thấp => Khuyến khích đầu tư, khuyến khích tiêu dùng => Tăng tổng cầu =>
Sản lượng tăng, giá cả tăng, thất thiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm so với ngoại tệ.

7


 Lãi suất cao => Hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng => Giảm tổng cầu => Sản lượng
giảm, giá cả giả, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng tăng so với ngoại tệ.
- Vì có khả năng tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô nên lãi suất được Chính phủ các
nước sử dụng làm một công cụ có hiệu quả để điều tiết nền kinh tế quốc gia.
3.3. Lãi suất – vai trò của nó đối với hoạt động Ngân hàng thương mại
- Ngân hàng thương mại với hai hoạt động chính trong hoạt động kinh doanh của mình là
huy động vốn và sử dụng vốn. Ngân hàng thương mại huy động vốn tạm thời nhàn rỗi
trong các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu dùng
khác của nhân dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải xác định lãi
suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp

thì không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào, dẫn đến NHTM không
đủ vốn cho vay để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
- Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại và khách hàng. Nếu xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan
trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy lãi suất ngân
hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các
Ngân hàng thương mại.
- Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng, ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là khách nợ.
Khi cho vay vốn NHTM đóng vai trò chủ nợ đối với khách hàng vay vốn, còn khi nhận
tiền gửi thì ngân hàng lại là khách nợ. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp không hấp
dẫn thì không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng,
sẽ dẫn đến hậu quả là NHTM không đủ vốn để cho vay đáp ứng yêu cầu vay vốn của
khách hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
không có lãi hoặc lãi quá thấp thì họ sẽ thu hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động để gửi
vốn vào ngân hàng. Lúc đó trong ngân hàng sẽ gặp tình trạng dư tiết kiệm, không cho vay
được và trở thành con nợ thực sự của các chủ sở hữu, vì vậy có nguy cơ phá sản.
3.4. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
- Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết
kiệm. Tiết kiệm là phần thu nhập còn lại sau khi tiêu dùng ở hiện tại của các chủ thể kinh
tế. Với việc tạo thu nhập cho người tiết kiệm, lãi suất trở thành một nhân tố cơ bản điều
tiết tiêu dùng và tiết kiệm. Lãi suất cao khuyến khích người ta hy sinh tiêu dùng hiện tại,
tiết kiệm nhiều hơn để có khoản tiêu dùng cao hơn trong tương lai và ngược lại. Trong
một nền kinh tế có thị trường tài chính phát triển, các khoản tiết kiệm được thu hút triệt
để qua các kênh tài chính trực tiếp và gián tiếp để tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu
vốn của nền kinh tế.

8


3.5. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu

- Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi
suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa
tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh
nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì tỷ giá tăng. khi tỷ giá
đồng ngoại tệ tăng đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
 Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu:
Khi lãi suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Tỷ giá hối đoái cao hơn làm
hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn lên và hàng hoá nước ngoài ở nước
đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.

Lãi suất
Hình 2: Với một mức lãi suất thực tế thấp, tỷ
giá thấp và xuất khẩu ròng cao với mức lãi
suất cao tỷ giá cao và xuất khẩu ròng thấp

NX = NX(i)

i1
i2
NX1

NX2

Mối quan hệ này được biểu thị bởi đồ thị sau:
 Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng:
Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch
chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các
quốc gia khác.

Hình 3: Lãi suất nước

ngoài tăng, đường lợi tức
dự tính của đồng ngoại tệ
dịch chuyển sang phải, và
TGHĐ giảm

e(USD/VND)

RET1
RET2

i1
9
i2


3.6. Lãi suất với lạm phát
- Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát. Fishes
chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có
thể thu hút phần lớn số tiền có trong lưu thông, do đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh
lạm phát cụ thể tăng lãi suất, thu hẹp được lượng tiền trong lưu thông, lạm phát được
kiềm chế.
- Tuy nhiên, dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì nó sẽ làm giảm
đầu tư, tổng cầu, sản lượng. Do vậy phải kết hợp nó với các công cụ khác.

4.

Thực trạng lãi suất ở Việt Nam từ 2007 đến nay

- Từ năm 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới diễn biến khá phức tạp và khó lường, nhất là
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động sâu rộng đến kinh tế

của hầu hết các nước trên thế giới, tất nhiên trong đó có Việt Nam. Theo đó, tình hình lãi
suất cũng biến động hết sức phức tạp, ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế chung của
Việt Nam.
 Đầu năm 2007, Ngân hàng Techcombank là thành viên mở đầu cuộc đua lãi suất huy
động VND, ở sản phẩm “Tiết kiệm điện tử” với 9,48%/năm, và sau đó kéo theo sự
tham gia của một loạt Ngân hàng cổ phần. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007
không có biến động nhiều giữa các tháng trong năm, lãi suất huy động vẫn duy trì ở
mức 9,5%/năm.
 NHNN tiếp tục ổn định mức lãi suất cơ bản 4,5%/năm, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi
suất thị trường, góp phần kiểm soát lạm phát. Kể từ ngày 1/3/2007, NHNN bỏ quy
định lãi suất trần tiền gửi bằng USD, ấn định theo cơ chế thỏa thuận.
- Năm 2008 có thể được xem là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều với một
biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. NHNN phải 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tièn gửi dự
trữ bắt buộc.
 Diễn biến lãi suất năm 2008 được chia làm 2 giai đoạn chính: cuộc đua tăng lãi suất
của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng
ngược lại, đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn. Cụ thể, từ mức lãi suất
huy động tháng 1 là 8,5% đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 6 với lãi suất 18,5%. Bắt

10


đầu từ tháng 7 trở đi, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHTW với nguồn
vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái
trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt
của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8
đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút
về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.


- Năm 2009, lãi suất huy động và cho vay VND cùng ổn định, theo sự ổn định của lãi suất
cơ bản. Tuy nhiên, căng thẳng của lãi suất huy động bắt đầu bộc lộ từ giữa năm. Từ tháng
7 đến tháng 11, các ngân hàng thương mại liên tục tăng lãi suất huy động VND, tập trung
từ các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn ngắn. Mức lãi suất cao nhất lần lượt tạo các
“đỉnh” 9%, 10% và đỉnh điểm lên đến 10,5%/năm. Khái niệm “đường cong lãi suất” bị
xóa nhòa khi nhiều thành viên áp thống nhất một mức cao cho hầu hết các kỳ hạn. Ngay
sau quyết định tăng LSCB từ 7% lên 8% có hiệu lực từ 1/12, các ngân hàng thương mại
đồng loạt đẩy lãi suất huy động lên mức cao, một số thành viên lên tới 10,5%/năm (chưa
tính các hình thức khuyến mại, cộng thưởng gián tiếp). Với diễn biến này, Ngân hàng
Nhà nước phát thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp có lãi suất huy động từ
10,5%/năm trở lên, các thành viên đồng loạt áp tối đa ở mức 10,49%/năm.
Bảng 1: Lãi suất huy động
Chỉ tiêu

Loại kì hạn 3 tháng

12/2007 (%/năm)

12/2008 (%/năm)

6/2009 (%/năm)

VND

USD

VND

USD


VND

– 4.50

– 16.90

– 5.0 -5.5

8.00

7.20

11

USD
– 4.50




8.82

5.00

17.14

8.20

5.00


Loại kì hạn 6 tháng

7.56
9.12

– 4.60
5.20

– 16.96
17.16

– 5.2
5.56

– 8.20
8.40

– 4.70
5.40



Loại kì hạn 12 tháng

7.84
9.45

– 4.60
5.40


– 16.98
17.18

– 5.3 – 5.6

– 4.70
5.50



8.50
8.80

(Nguồn: Báo cáo NHNN)
Bảng 2: Lãi suất cho vay
12/2007 (%/năm)

12/2008 (%/năm)

6/2009 (%/năm)

VND

USD

VND

USD

VND


USD

10.80
13.80

– 6.40
7.50

– 19.50
20.20

– 8.20
8.90

– 9.50
10.50

– 4.50
6.00



Cho vay trung, dài
hạn
12.36
15.48

– 7.00
7.80


– 20.00
20.50

– 8.24
8.94

– 10.00
10.50

- 6.00
7.50



Cho vay ngắn hạn

(Nguồn: Báo cáo NHNN)
- Năm 2010, những biến động nửa đầu năm đẩy lãi suất huy động VND lên quanh
11%/năm. Đồng thuận lãi suất là yêu cầu quen thuộc đặt ra giữa các ngân hàng trong năm
này. Vào cuối năm, trước xu hướng lãi suất biến động mạnh, Hiệp hội và Ngân hàng Nhà
nước đã họp với các thành viên, đồng thuận không quá 12%/năm được đưa ra vào ngày
5/11. Tuy nhiên, sau đó nhiều thành viên “phá rào”, lãi suất lần lượt tăng lên 13%, 14%,
15%/năm…
Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Thời gian

Lãi suất cơ bản Lãi suất tái cấp Lãi suất tái chiết Lãi suất cho vay
(%)
vốn (%)

khấu (%)
qua đêm (%)

1/1 – 4/11/2010

8

8

6

8

5/11 – 12/2010

9

9

7

9

12


- 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên 13%), 4 lần tăng lãi
suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO (từ 8% lên 15%). Lãi suất cơ
bản đã được giữ nguyên 9% kể từ năm 2010. Lãi suất bắt đầu leo thang kể từ đầu tháng
5/2011, có thời điểm huy động VND lên đến 20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp

nông thôn lên 16,5-20%/năm, cho vay phi sản xuất từ 25-28%/năm. Quy định trần lãi
suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về thanh khoản và phải đi vay trên thị trường
liên ngân hàng với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 3040%/năm kỳ hạn 1 tháng. Khi NHNN chủ trương hạ lãi suất vào những tháng cuối năm
2011, lãi suất liên ngân hàng đã hạ nhiệt nhờ NHNN bơm một lượng vốn đáng kể trên thị
trường OMO.
Điều chỉnh lãi suất giai đoạn 2010 - 2011

- Năm 2012, lãi suất cơ bản giảm 5% so với cuối năm 2011, từ mức trần 14%/năm xuống
9%/năm. Song song việc áp trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn, NHNN đã cho thả nổi lãi
suất kỳ hạn 12 tháng trở lên. Các mức lãi suất điều hành khác cũng giảm mạnh. Lãi suất
tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống còn 8%/năm trong khi lãi suất tái cấp vốn giảm từ
15%/năm xuống 10%/năm. Lãi suất cho vay giảm mạnh từ 3 – 8%/năm. Lãi suất cao nhất
chỉ còn 15%/năm, theo chỉ đạo của NHNN. Cuối năm, lãi suất cho vay phổ biến từ 12 –
15%/năm.

13


- Năm 2013, NHNN đã giảm 2% các mức lãi suất điều hành; giảm 3%/năm lãi suất cho
vay ngắn hạn với lĩnh vực ưu tiên; giảm 1% lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi và từ
cuối tháng 6 cho phép các TCTD tự ấn định lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.
Mặt bằng lãi suất theo đó cũng giảm 2-5%/năm so với năm 2012 và trở về mức lãi suất
của giai đoạn 2005-2006. Đến cuối năm, lãi suất các khoản vay cũ đã về dưới 13%/năm,
lãi suất cho vay các khoản mới kỳ hạn ngắn chỉ còn 8 - 9%/năm.
- Trong quí I/2014, lãi suất huy động, cho vay tiếp tục xu hướng giảm và huy động tiền gửi
dân cư tiếp tục tăng khá. Theo NHNN, mặt bằng lãi suất cho vay hiện nay đã xuống khá
thấp nhờ lãi suất đầu vào giảm bên cạnh việc các ngân hàng sẵn sàng giảm lãi để chia sẻ
khó khăn cùng DN. Hiện lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại cổ phần đối với
các lĩnh vực ưu tiên còn khoảng 8%/năm; lãi suất cho vay thông thường kỳ hạn ngắn
khoảng 9 - 10,5%/năm và dài hạn còn 11 - 12,5%/năm.

- Năm 2015, NHNN cho biết mặt bằng lãi suất đã giảm mạnh. Lãi huy động giảm 0,2-0,5%
một năm và hiện ở mức tương đối thấp nhưng lòng tin vào VND được củng cố. Lãi suất
cho vay cũng giảm 0,3-0,5% một năm so với cuối năm trước, đưa mặt bằng lãi suất giảm
khoảng 50% so với cuối năm 2011. Hiện nay, mặt bằng lãi suất cho vay đang ở mức 69% (ngắn hạn), 9-11% (dài hạn).
- Năm 2016 NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ
với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn
định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bảo đảm thanh
khoản của các TCTD và nền kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, mặt
bằng lãi suất cơ bản ổn định, tăng trưởng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng, tập

14


trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Đến ngày 29/12/2016, tổng phương tiện
thanh toán tăng 17,88%, huy động vốn tăng 18,38% so với cuối năm 2015. Lạm phát cơ
bản được kiểm soát ổn định và cả năm đạt 1,87%, góp phần quan trọng trong việc thực
hiện kiểm soát lạm phát, CPI cả năm 4,74%. Thanh khoản của hệ thống được đảm bảo và
có dư thừa, thị trường liên ngân hàng hoạt động thông suốt.
 Trong điều hành, NHNN sử dụng linh hoạt các công cụ để điều tiết thanh khoản hệ
thống dư thừa hợp lý, lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp, qua đó tạo điều kiện ổn định
lãi suất thị trường. Mặt bằng lãi suất huy động sau khi tăng 0,2-0,3%/năm trong 3
tháng đầu năm thì từ tháng 4 đã ổn định, đặc biệt giữa tháng 4 và từ cuối tháng 9/2016,
một số TCTD đã giảm 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động, giảm khoảng 0,5-1%/năm lãi
suất cho vay đối với sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Lãi suất cho vay hiện phổ
biến khoảng 6-9%/năm đối với kỳ hạn ngắn và 9-11%/năm đối với trung và dài hạn;
khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.
4.1. Lạm phát và lãi suất danh nghĩa
- Dường như lạm phát là “căn bệnh dai dẳng chưa có thuốc đặc trị” của nền kinh tế Việt
Nam. Nếu trong giai đoạn 2001 - 2005, chỉ số CPI cuối kỳ tăng bình quân ở mức 5,14%,
thì giai đoạn 2006 - 2010, mức tăng bình quân của chỉ số này là 11,48%, gấp 2 lần giai

đoạn trước đó. Năm 2011, tỷ lệ lạm phát ở mức cao thứ hai trong vòng 10 năm trở lại
đây. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 6,02% so với tháng 12/2011 và tăng 7% so với
cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2012 tăng 9,66% so với
bình quân cùng kỳ năm 2011. (Biểu 1).

Biểu 1: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2001 - Tháng
09/2012
19.89

18.13

12.63
9.5
4

8.4

6.6

11.75
6.52

3

0.8

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

15


5.13


- Một khi lạm phát xảy ra, các biện pháp hầu như tập trung vào chính sách tiền tệ. Khoan
bàn đến hiệu quả của việc sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục
tiêu kiềm chế tốc độ tăng chỉ số CPI trong thời gian qua, thì có lẽ, Ngân hàng Nhà nước
cũng không có nhiều sự lựa chọn, nhất là trong điều kiện các công cụ để điều hành chưa
hoàn thiện và có tác dụng dẫn dắt thị trường như ở Việt Nam. Trong giai đoạn 2004 2007, chính sách tiền tệ có lẽ vẫn ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng; do vậy, để kiềm chế
lạm phát, biện pháp thường được lựa chọn là tăng tỷ lệ DTBB. Ngay cả năm 2007, khi
chứng kiến áp lực tăng giá tương tự năm 2004 và tình hình có vẻ phức tạp hơn khi nền
kinh tế Việt Nam đã thực sự bước vào sân chơi lớn WTO, thì tăng tỷ lệ DTBB vẫn là sự
lựa chọn dường như không thể khác. Giai đoạn 2008 đến nay, bên cạnh công cụ DTBB
và biện pháp hành chính được triển khai trong trường hợp cụ thể như phát hành tín phiếu
bắt buộc, thì công cụ lãi suất đã được quan tâm sử dụng. Cho dù có nhiều ý kiến đánh giá
khác nhau của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt trong thời gian qua, nhưng kiểm
soát được lạm phát là điều đáng được ghi nhận cho chính sách tiền tệ, góp phần vào thành
công chung trong việc triển khai thực hiện các chủ trương lớn của Chính phủ.
- Công cụ lãi suất chưa được sử dụng một cách xuyên suốt, nhất quán trong chính sách tiền
tệ, nhưng nếu xét sự biến động giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất tiền gửi danh nghĩa từ năm
2007 đến tháng 9/2012 cho thấy hiệu ứng Fisher đã phát huy tác dụng trong trường hợp
này (Biểu 2).

Biểu 2: Biến động tỷ lệ lạm phát và lãi suất danh nghĩa
25
20
15
10
5
0
2004


2005

2006

2007

2008

Tỷ lệ lạm phát

2009

2010

2011

T09/2012

Lãi suất tiền gửi 12T

(Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN các năm 2004 - 2010, Tổng cục thống kê và tính toán
của tác giả).
- Hiệu ứng Fisher cho rằng có mối quan hệ một - một giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất danh
nghĩa. Những năm có tỷ lệ lạm phát cao tương ứng với lãi suất danh nghĩa cao. Vì vậy, để

16


giảm được lãi suất, cần giải quyết tốt lạm phát kỳ vọng và tâm lý mất giá đối với đồng

nội tệ. Xét trường hợp nền kinh tế Việt Nam, tỷ lệ lạm phát năm 2012, tuy được kiểm
soát nhưng với mức tăng 2,2% của tháng 9/2012 cho thấy chỉ số CPI chưa thực sự ổn
định và nếu so với bình quân cùng kỳ năm 2011, thì chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9
tháng năm 2012 đã tăng 9,96%.
- Như vậy, với sự phân tích ở trên cho thấy, khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
để kiềm chế lạm phát, NHNN buộc phải sử dụng nhiều công cụ chính sách tiền tệ, kể cả
công cụ mang tính hành chính nhưng trong đó, công cụ lãi suất là không thể thiếu. Và xu
hướng lãi suất danh nghĩa biến động không chỉ phụ thuộc vào ý muốn của nhà điều hành,
mà tuân theo những quy luật nhất định, trong đó có hiệu ứng Fisher.
4.2. Trạng thái thanh khoản của các ngân hàng thương mại
- Về lý thuyết, bất kỳ ngân hàng thương mại nào đều phải bảo đảm khả năng thanh khoản
đầy đủ; tức là ngân hàng có sẵn lượng vốn khả dụng với chi phí thấp và đúng tại thời
điểm ngân hàng có nhu cầu. Ðiều đó có nghĩa là, một ngân hàng có khả năng thanh khoản
tốt nếu như có sẵn một lượng vốn khả dụng với quy mô hợp lý, hoặc có thể nhanh chóng
huy động vốn bằng vay nợ hay bán tài sản.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng căng thẳng thanh khoản của các ngân hàng
thương mại hiện nay. Nhưng việc cho vay quá mức nguồn vốn huy động là điều dễ thấy.
Khảo sát tỷ lệ dư nợ cho vay/tiền gửi của khách hàng ở 09 ngân hàng thương mại được
xếp loại hạng A theo Báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm Việt Nam 2012, do Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Công ty cổ phần Xếp hạng tín
nhiệm doanh nghiệp (CRV) thực hiện, sẽ minh chứng cho nhận định trên (Biểu 3).

Biểu 3: Tỷ lệ dư nợ/tiền gửi của khách hàng
140
120
100
%

80
60


2010

40

2011

20

T9/2012

0

17


(Nguồn: Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính các Ngân hàng thương mại 2010, 2011, Quý
III/2012; riêng số liệu của Eximbank đến Quý II/2012; chưa có số liệu đến 30/09/2012 của
DongAbank).
- Xem xét tỷ lệ dư nợ cho vay/tiền gửi của khách hàng đánh giá được các ngân hàng đã sử
dụng tiền gửi của khách hàng để cung cấp tín dụng với tỷ lệ bao nhiêu phần trăm. Tỷ lệ
này càng cao, khả năng thanh khoản càng thấp. Mức trung bình của tỷ lệ này giữa 09
ngân hàng là 94,1% (2010) và 99,77% (2011). Tỷ lệ trung bình năm 2011 là 99,77%, có
nghĩa, tính bình quân các ngân hàng cứ huy động được 1 đồng thì cho vay trên 0,99 đồng.
Trong trường hợp này, các ngân hàng buộc phải sử dụng các nguồn vốn khác để bảo đảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc và bảo đảm khả năng thanh khoản. Với nhiều nguyên nhân khác
nhau, tỷ lệ dư nợ cho vay/tiền gửi của khách hàng năm 2011 ở một số ngân hàng cho thấy
tình hình chưa được cải thiện nhiều, thậm chí tăng cao hơn năm 2010. Cuối tháng 9/2012,
vẫn có 5/9 ngân hàng được xem xét có tỷ lệ này cao hơn mức 80%. Và do đó, để tiệm cận
với chuẩn mực1 tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN vẫn là con đường dài đối với các ngân

hàng thương mại. Và tất nhiên, con đường đó không bằng phẳng.
- Ngoài ra, nợ xấu gia tăng trong năm 2011 và 9 tháng đầu năm 2012 cũng là nguyên nhân
làm giảm sút chất lượng hoạt động và khả năng thanh khoản của các ngân hàng. Hầu hết
các ngân hàng đều gia tăng nợ xấu. Theo số tuyệt đối, nợ xấu của 09 ngân hàng hạng A
nêu trên năm 2011 tăng hơn 3.471 tỷ đồng so với năm 2010 và trong 9 tháng đầu năm
2012 tiếp tục tăng thêm 12.664 tỷ đồng so với đầu năm; tỷ lệ nợ xấu hầu hết các ngân
hàng năm 2011 và 9 tháng đầu năm 2012 đều cao hơn năm 2010 (Biểu 4).

Biểu 4: Tỷ lệ nợ xấu các ngân hàng thương mại
3.5
3
2.5
%

2
1.5

2010

1

2011
T9/2012

0.5
0

(Nguồn: Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính các Ngân hàng thương mại 2010, 2011, Quý
III/2012; riêng số liệu của Eximbank đến Quý II/2012).


18


Với tình trạng thanh khoản chưa được bền vững và nợ xấu như đã phân tích, các ngân
hàng thương mại đang đẩy mạnh huy động vốn từ thị trường 1. Và để thực hiện thu hút lượng
tiền gửi của khách hàng, nhiều chương trình khuyến mãi được triển khai rầm rộ; ngoài ra, việc
cạnh tranh về lãi suất khó thể tránh khỏi.
Như vậy, biến động về lãi suất phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Xu hướng trong ngắn hạn
là sự tác động đan xen giữa mong muốn giảm lãi suất cần được đáp ứng của thị trường, cũng
là kỳ vọng của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn,
từng bước hồi phục hoạt động sản xuất kinh doanh; và yếu tố khách quan từ các biến số kinh
tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, cũng như những yếu kém nội tại từ các ngân hàng thương mại.
Việc giảm mặt bằng lãi suất trong thời gian qua là sự nỗ lực lớn của NHNN và hệ thống
NHTM trong việc chia sẻ khó khăn cùng doanh nghiệp. Và để cải thiện các yếu tố nêu trên
không chỉ trông chờ duy nhất vào chính sách tiền tệ.
 Chú thích:
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
TCTD: Tổ chức tín dụng
DTBB: Dự trữ bắt buộc

19



×