Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Cây dừa nước – một biểu trưng văn hóa nam bộ (tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.42 KB, 24 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH


TRẦN NGỌC THỦY

CÂY DỪA NƯỚC - MỘT BIỂU TRƯNG
VĂN HÓA NAM BỘ

Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 60310640

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Trà Vinh, tháng 10 năm 2015


Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM TIẾT KHÁNH

Phản biện 1: PGS.TS PHAN AN
Phản biện 2: TS. MAI MỸ DUYÊN

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ Văn hóa học họp tại Trường Đại học Trà Vinh
vào ngày 01 tháng 11 năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại:


 Thư viện trường Đại học Trà Vinh


-1PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa Nam Bộ vừa có nền tảng của truyền thống
văn hóa dân tộc, vừa có những giá trị riêng hình thành nên
phong cách văn hóa Nam Bộ. Về nông thôn Nam Bộ, ta sẽ
dễ nhận ra hình ảnh những mái lá ẩn hiện trong xóm ấp, bên
những dòng kênh, con rạch thân thuộc tự bao đời… những
mái nhà lá truyền thống vẫn là nét văn hóa cư trú độc đáo,
phổ biến khắp vùng quê sông nước. Đến nỗi, có người còn
gọi dãy đất phía Nam đến tận chót mũi Cà Mau là “vương
quốc dừa nước”.
Vì vậy, cây dừa nước vừa có giá trị về vật chất, vừa
có giá trị về tinh thần, là một phần quan trọng trong diện
mạo văn hóa ở Nam Bộ, cũng như những giá trị văn hóa từ
lâu đời đối với vùng đất và con người ở Nam Bộ.
Cho nên, việc nghiên cứu về cây dừa nước là giữ gìn
giá trị văn hóa vật chất, cũng như giá trị về tinh thần mà
vùng đất Nam Bộ đã sinh ra nó, cũng như điều kiện ở nơi
đây cho phép cây dừa nước tồn tại từ bao đời nay.
Đặc biệt, cần quảng bá thế mạnh đặc trưng văn hóa
dừa nước, trên vùng châu thổ sông Cửu Long. Đồng thời,
tiến đến thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học cấp
quốc gia về cây dừa nước. Từ đó, có sự tổng kết, khẳng
định giá trị lịch sử hình thành và phát triển của cây dừa
nước với những đóng góp quan trọng vào đời sống, lối
sống, tâm tư, tình cảm của cư dân Nam Bộ trong nhiều
thế kỷ qua.



-2Xuất phát từ tầm quan trọng và sự cần thiết của vấn
đề đã nêu trên, vấn đề về cây dừa nước hiện nay vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa là vấn đề thực tiễn bức thiết. Vì vậy tôi
chọn đề tài: “Cây dừa nước – một biểu trưng văn hóa Nam
Bộ” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo sau đại
học, ngành Văn hóa học.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở đã tồn tại từ lâu đời ở vùng đất Nam Bộ,
những điều kiện hình thành cây dừa nước, từ đó khảo sát
tính biểu trưng văn hóa ở Nam Bộ, các giá trị văn hóa. Nêu
thực trạng làm thay đổi đến cây dừa nước và hướng bảo tồn,
phát huy trong thời gian tới.
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về cây dừa nước ở Nam Bộ liên
quan đến các công trình, văn bản như:
Nhâm Hùng (2012), Nghề truyền thống Hậu Giang.
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2012), Nghề truyền
thống ở một số địa phương. Chu Xuân Biên (1953), Văn học
dân gian Sóc Trăng. Trịnh Hoài Đức (1802 – 1820), Gia
Định Thành Thông Chí. Trần Văn Ba (1993), nghiên cứu
“Một số đặc điểm sinh học dừa nước ở Việt Nam”. Trần
Xuân Hiệp (2007), thực hiện đề tài “Trồng dừa nước – giải
pháp kỹ thuật sinh thái bảo vệ nền rừng ven kênh rạch và
môi trường bền vững”.
Và một tài liệu khác cho biết: khi khai quật các di chỉ
văn hóa Óc Eo tại chân núi Ba Thê (An Giang), người ta phát
hiện cách đây 1000 năm, cư dân vùng này đã biết chế tác cây
dừa nước làm nhà và các dụng cụ phục vụ đời sống con người.



-3Tóm lại, về biểu trưng văn hóa của cây dừa nước ở
Nam Bộ đến nay chưa có tài liệu, công trình khoa học nào tiến
hành sưu tầm, nghiên cứu, cũng như đi sâu tìm hiểu một cách
khoa học về cây dừa nước – một biểu trưng văn hóa Nam Bộ
để các nhà nghiên cứu, các ngành có thể đóng góp tư liệu cần
thiết cho việc bảo tồn và phát huy hình ảnh cây dừa nước ở
Nam Bộ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu cây dừa nước, sự hình thành cây
dừa nước và biểu trưng của cây dừa nước ở vùng văn hóa
Nam Bộ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Ở Nam Bộ, trong đó chú trọng những địa phương có
cây dừa nước đang sinh sống và phát triển.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu là vận dụng các phương pháp: phân tích,
tổng hợp; liên ngành của văn hóa học kết hợp xã hội học và
một số phương pháp khác như: phương pháp khảo sát,
phỏng vấn, điền dã, tham dự, so sánh.
6. Ý nghĩa việc nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý thuyết về sự phát triển và hình
thành nên biểu trưng văn hóa cây dừa nước ở Nam Bộ, đóng
góp nguồn tài liệu cho những ai nghiên cứu về cây dừa
nước, nghiên cứu văn hóa ở Nam Bộ.
Từ kết quả nghiên cứu, giúp cho các cấp, các ngành
nhận thức, đánh giá rõ về những tồn tại, việc phát huy những
tiềm năng vốn có, đảm bảo các giá trị về cây dừa nước tồn



-4tại một cách phong phú và đa dạng về mọi mặt trong đời
sống của người dân Nam Bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển với
những tiềm năng của vùng đất Nam Bộ trong thời gian tới.
Đề tài sẽ giúp cho các báo cáo, tham luận tại các cuộc
hội nghị bàn về các vấn đề liên quan đến cây dừa nước, vận
dụng vào thực tiễn phù hợp với điều kiện tình hình ở từng
thời gian và không gian nhất định.
7. Bố cục của luận văn:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về văn hóa ở
Nam Bộ.
Chương 2: Cây dừa nước trong sự hình thành vùng
đất ở Nam Bộ.
Chương 3: Cây dừa nước trong đời sống văn hóa ở
Nam Bộ.


-5CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA Ở NAM BỘ
1.1. Cơ sở lý luận về văn hóa
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
Để tiếp cận và tìm hiểu về vấn đề này tôi xin chọn
định nghĩa về văn hóa của Trần Ngọc Thêm “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội” [4, tr. 7].
Như vậy, tổng hợp từ những khái niệm trên, đề xuất

khái niệm “Văn hóa là tất cả các giá trị do con người sáng
tạo ra trong quá trình lao động, sản xuất của mình qua một
chiều dài lịch sử của con người, là một hệ thống và các giá
trị về vật chất lẫn tinh thần nhằm đáp ứng nhu cầu và phục
vụ cuộc sống của con người, đưa con người hướng đến chân
– thiện – mỹ và cả nhân loại liên quan chặt chẽ đến đời sống
văn hóa”.
1.1.2. Khái niệm về biểu trưng
Theo một số cách lý giải của các nhà khoa học thì
“Biểu trưng là lấy cái này để chỉ cái kia đặc biệt là cái trừu
tượng. Hay một biểu trưng là bất kỳ thực thể nào có thể
chứa nghĩa hoặc có thể quy chiếu sang thực thể khác, được
sử dụng như là một đại diện cho một loại thông tin nào đó
thay thế có chứa nghĩa, biểu trưng còn gửi đến những biểu


-6nghĩa quan trọng như một trạng thái tinh thần, một tình
cảm, một giọng điệu” [7, tr. 22].
Đây là nội dung cơ bản của khái niệm biểu trưng.
Ngôn ngữ tượng trưng là một ngôn ngữ thế giới bên ngoài
là tượng trưng cho thế giới nội tại, là tượng trưng cho linh
hồn và tâm linh của chúng ta. Cuối cùng các biểu trưng và
các hệ thống biểu trưng là một tập hợp biểu nghĩa mà cộng
đồng văn hóa, mỗi cá nhân hiểu được, diễn giải, đánh giá,
phê phán hoặc biến đổi chúng. Có ba loại tượng trưng:
tượng trưng mang tính chất tập quán; tượng trưng mang tính
chất ngẫu nhiên và tượng trưng phổ biến.
Biểu trưng nó tồn tại trong cuộc sống là vì nó gắn với
đối tượng nghiên cứu, là biểu trưng nghệ thuật, biểu trưng
văn hóa. Nó là một phương tiện văn hóa, nó là hình ảnh của

thế giới khách quan, mặt khác nó còn là hình ảnh của thế
giới quan và nhân sinh quan của nghệ sỹ. Cụ thể hơn, biểu
trưng thể hiện qua quan điểm thẩm mỹ, quan điểm tư tưởng
của tác giả hoặc gắn với các loại hình nghệ thuật, văn hóa,
như trong văn hóa vùng, miền, văn hóa Việt Nam.
1.1.3. Khái niệm về biểu tượng
Hiểu thế giới biểu tượng như là kết quả của sự tương
tác giữa thế giới thực tại và thế giới ý niệm, với tư cách là
đối tượng của văn hóa học là những sản phẩm, những giá
trị văn hóa của mối quan hệ tương tác giữa ba thế giới ấy
trong một toàn thể không tách rời, có thể giải mã văn hóa
như một tổng thể các hệ thống ký hiệu, trong đó, văn hóa
học coi trọng tâm là “hệ thống ký hiệu hàm nghĩa”, những
biểu hiện then chốt nhất của văn hóa tinh thần. Nắm được


-7“cơ chế tạo nghĩa” là rất quan trọng để giải mã được tâm
thức của một dân tộc. Nó giúp đi vào cấu trúc chiều sâu của
văn hóa, những hằng số phát lộ “lý do lựa chọn” và “độ
khúc xạ văn hóa” của dân tộc đó.
“Có lẽ đó là vấn đề nan giải nhất để hiểu cái hồn văn
hóa mà các cụ thường nói là “khí thiêng sông núi”, “hồn
thiêng đất nước”, là “địa linh nhân kiệt”. Vấn đề này dường
như trái với tinh thần “khoa học”, hay nói cách khác ngược
lại, là tính duy lý khoa học sẽ bóp nghẹt cái duy cảm văn
hóa” [17, tr. 104-108].
Theo PGS.TS. Nguyễn Tri Nguyên, đề xuất định
nghĩa biểu tượng theo ký hiệu học văn hóa như sau: “Biểu
tượng là tổ hợp các ký hiệu văn hóa dùng một đối tượng có
tính đơn giản, dễ hiểu và gần gủi thay thế cho một đối tượng

khác có tính phức tạp và trừu tượng nhằm thể hiện, bảo lưu
và truyền tải ý niệm của con người và gắn bó mọi người
theo kiểu cảm nhận thống nhất đối với thế giới và bản thân
mình” [14, tr. 124].
Như vậy, giữa biểu trưng và biểu tượng có mối quan
hệ với nhau, ở đây, cần nói sơ lược về biểu tượng, vì nó cho
chúng ta biết cái nghĩa được chồng lấp theo thời gian.
1.2. Cơ sở thực tiễn về cây dừa nước ở Nam Bộ
1.2.1. Khái quát về vùng đất ở Nam Bộ
Vùng đất Nam Bộ bao gồm 19 tỉnh, thành trong cả
nước, gồm: Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương,
Bình Phước, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An,
Đồng Tháp, Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,
Trà Vinh, Thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc


-8Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, chia làm 2 bộ phận miền gồm
miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ [22, tr. 7-8]
Lịch sử khai khẩn vùng đất Nam Bộ ngày nay vốn là
địa bàn của văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, cũng
là thuộc địa của Chân Lạp, vùng đất với triều đại thời chúa
Nguyễn, một bộ phận của xứ Đàng Trong vùng “Ngũ trấn”
gồm Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà
Tiên, chia làm 6 tỉnh dưới thời nhà Nguyễn (năm 1834), nên
thường gọi là Nam kỳ Lục tỉnh của nước Đại Nam, gồm:
Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên. Từ năm 1874 đến năm 1945 vùng đất Nam kỳ là
thuộc địa của Pháp, từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945,
trở thành vùng đất Nam Bộ [25, tr. 8].
Bên cạnh đó, đây còn là nơi rừng ngập mặn đa dạng,

mênh mông dọc ven biển có nhiều đầm lầy do các cửa sông
tạo nên, tạo điều kiện cho rừng ngập mặn lấn dần ra biển,
do vậy có nhiều vùng rừng đầm lầy như: Đồng Tháp, U
Minh Thượng. Cư dân đã sớm phát hiện ưu thế cây tràm để
khai thác đóng cừ làm nhà cửa và cây dừa nước trồng để giữ
đất ven kênh rạch và chằm lá lợp nhà rất hợp địa hình trên
vùng đất Nam Bộ này.
1.2.2. Đặc điểm vùng văn hóa Nam Bộ
Trải qua bao biến cố về mặt chính trị, vùng văn hóa
ở vùng đất này luôn thể hiện tính đa dạng, phong phú như
PGS.TS. Phan Thị Yến Tuyết đã nhận định: “Từ xưa, đây
là nơi hội tụ nhiều nền văn hóa của các thành phần dân cư
khác nhau và cho đến nay nó vẫn là một vùng dân cư –
dân tộc hỗn hợp, bao gồm các tộc người chủ yếu là Việt,


-9Khmer, Hoa, Chăm, cùng các dân tộc bản địa như người
Stiêng, Chơro, ...”
Cho đến nay, mặc dù Nam Bộ đã trải qua các chính
sách chia để trị rất thâm độc, thì vẫn không thể đánh bại
được văn hóa bản địa này, trong quá trình giao lưu văn hóa
đa phương ở Nam Bộ diễn ra nhanh chóng Nam Bộ vẫn dẫn
đầu cả nước trong quá trình đô thị hóa, những trung tâm
kinh tế hình thành và có đến hai thành phố trực thuộc Trung
ương phát triển theo hướng hiện đại. Đặc biệt, là ở thành
phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất và là thị
trường sôi động cả nước, góp phần vào sự phát triển và giao
lưu hội nhập nước nhà.
Chính vì vậy, Nam Bộ ở Việt Nam là vùng văn hóa
có điều kiện hơn cả trong việc hội nhập văn hóa và do vậy,

lại tiếp tục đóng vai trò tiên phong trong bối cảnh mới. Đó
cũng là đóng góp thiết thực của vùng văn hóa Nam Bộ trong
sự phát triển chung của văn hóa dân tộc.
Tiểu kết


-10CHƯƠNG 2
CÂY DỪA NƯỚC
TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT Ở NAM BỘ
2.1. Cây dừa nước với vùng đất, con người ở Nam Bộ
2.1.1. Nguồn gốc và đời sống cây dừa nước ở Nam Bộ
2.1.1.1. Nguồn gốc cây dừa nước ở Nam Bộ
Cây dừa nước (Attap palm; Nipa palm; Mangrove
palm) là loài duy nhất trong họ Cau (Arecaceae) sinh sống
trong những vùng sình lầy dọc theo bờ sông, hay vùng ven
cửa biển có thủy triều lên xuống, có nước chảy chậm bồi
đắp phù sa dinh dưỡng và quần tụ thành rừng. Nếu để tự
nhiên, dừa nước sẽ phát tán sinh sôi nảy nở theo sự đưa đẩy
của thủy lưu.
Nói chung, cây dừa nước xuất hiện từ lúc nào không
ai biết rõ, trước đây người dân trồng loại cây này rất nhiều.
Cây dừa nước sinh trưởng và phát triển rất tốt mà hiệu quả
kinh tế cao nên diện tích dừa nước ngày càng được nhân
rộng. Mặt khác, nền kinh tế phát triển, kéo theo sự ra đời rất
nhiều phương tiện thủy có công suất lớn lưu thông nên xảy
ra tình trạng sạt lở ngày một nghiêm trọng, việc trồng cây
dừa nước giữ gìn và phát huy tác dụng cây dừa nước là hữu
hiệu nhất.
2.1.1.2. Đời sống cây dừa nước ở Nam Bộ
Thân cây dừa nước mọc ngang dưới lòng đất, chỉ có

lá và cuống hoa mọc lên trên mà thôi. Vì vậy, nó không
được xem như một loại cây gỗ, mặc dù tán lá có thể cao đến
9 mét. Hoa cái nở rộ thành chùm ở đầu cụm hoa hình cầu,


-11hoa đực màu đỏ hoặc vàng dạng đuôi sóc trên những nhánh
kế sau. Khi hoa đã thụ phấn, những trái nhỏ ép vào nhau lớn
lên thành như một quả bóng đường kính cỡ 25–30 cm trên
mỗi đầu cuống, còn gọi là quài dừa.
Cây dừa nước là một loại cây rất dễ trồng, cây có thể
sinh trưởng và phát triển ở bãi bồi hoặc đầm lầy. Một điều
rất đặc biệt là dừa nước trồng ở vùng nước mặn, vùng nước
ngọt, thậm chí vùng đất phèn đều sinh trưởng và phát triển
tốt. Nơi nào trồng và gìn giữ được loại cây này thì nơi đó hạn
chế sóng tàu thuyền và dòng chảy của thủy triều lên xuống.
2.1.2. Cây dừa nước đối với con người ở Nam Bộ
Cây dừa nước từ xưa đến nay đã và đang là người
bạn thủy chung của người dân nghèo Nam Bộ, cũng giống
như cây dừa cạn, người ta sử dụng tất cả bất cứ bộ phận nào
của cây. Ngay cả khi những cây dừa nước không sử dụng
được thì người ta vẫn có thể đem phơi và làm củi dừa nước,
khi nấu nó có mùi đặc trưng của cây dừa nước. Có lẽ mùi
khói này đã níu kéo những con người nơi đây dù có đi đâu
vẫn nhớ về quê hương, nơi có hàng dừa nước tháng ngày
chờ mong thương nhớ.
Bởi vậy, ai xa quê cũng nhớ dừa nước. Cây dừa nước
là một người bạn, với tất cả những đặc tính người. Nhờ đó
mà cây dừa nước đã trở thành anh hùng lao động và anh
hùng chiến đấu, cũng như con người Nam Bộ đã trải qua
bao nhiêu năm tháng và những biến động của xã hội hiện

nay, nhưng mái nhà bằng lá dừa nước vẫn là biểu trưng độc
đáo về văn hóa cư trú của người đồng bằng Nam Bộ từ xưa
đến nay.


-122.2. Thực trạng về cây dừa nước ở Nam Bộ
2.2.1. Nghề chằm lá dừa nước ở Nam Bộ
Nam Bộ là vùng sông nước nên lá dừa nước phát
triển rất dày đặc. Chính vì thế, từ lâu người dân nơi đây đã
biết tận dụng lá dừa nước để che nắng, che mưa, làm mái
ấm trú ngụ cho gia đình.
Từ bao giờ có lá chằm cũng không ai rõ, chỉ biết khi
có cây dừa nước tấm lá chằm dần dần được định hình và
được mọi nhà ưa chuộng khiến nó trở nên loại sản phẩm có
giá trị kinh tế đáp ứng nhu cầu thị trường xa gần.
Nơi này nổi tiếng với nghề chằm lá dừa nước lợp
nhà. Một nghề vất vả, cực nhọc, nhưng mà cứu cánh của
nhiều gia đình. Từng gia đình người dân nơi đây gắn bó với
nghề chằm lá mấy đời, xây được căn nhà, cũng là nhờ dừa
nước. Bây giờ không còn chằm lá bán, nhưng khi sửa chữa
cái chái nhà, lợp trại ghe, thì họ tự tay chằm lá cho đỡ nhớ.
Chắc chỉ có phụ nữ Việt Nam mới có nghề này và có Nam
Bộ mới có những hàng dừa nước xanh ngắt và nghề chằm
lá như vậy.
2.2.2. Căn nhà lá, biểu trưng văn hóa nơi cư trú phổ
biến ở Nam Bộ
Nhìn chung, nhà ở của người Nam bộ rất phong phú
và đa dạng. Ngôi nhà vừa là nơi để ở vừa là nơi để thờ cúng
gia tiên; đồng thời ngôi nhà còn thể hiện được tính đoàn kết
trong cộng đồng, tính hiếu khách của người Nam bộ qua

việc cổng rào luôn rộng mở để đón khách.
Hiện nay, cuộc sống của người dân đang trên đà
phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất


-13nước, những căn nhà lá ngày càng khuất bóng theo những
con kênh, rạch luồng lách, ẩn hiện trong xóm ấp làng quê
Nam Bộ, nhưng những mái nhà lá vẫn còn thể hiện rõ nét
văn hóa cư trú đặc trưng của Nam Bộ. Cho đến bây giờ,
khi đời sống vật chất được nâng cao, nhiều ngôi nhà đúc,
nhà tường mọc lên nhanh chóng, nhưng người ta vẫn cất
thêm một mái chái lợp bằng lá dừa nước để nghỉ trưa như
một kiểu nhà hóng mát.
2.2.3. Hình ảnh cây dừa nước, biểu trưng tính cách
người con gái ở Nam Bộ
Hình ảnh cây dừa nước trong một góc độ nào đó, là
sự phản ánh tiêu biểu, trung thực về người con gái Nam Bộ,
những con người có vẻ yếu đuối, nhưng rất đảm đang và
kiên cường, bất khuất, chống chọi với những thử thách, gian
nan, khó khăn trong cuộc sống. Người con gái Nam Bộ,
ngoài nét chung với phụ nữ Việt Nam, còn có những tính
cách riêng, họ sẵn sàng chịu đựng, hi sinh bản thân mình vì
mọi người, vượt qua những rào cản bất bình đẳng, coi
thường người phụ nữ. Họ cũng là những người Nam Bộ,
những người “trọng nghĩa, khinh tài”.
Ở Nam Bộ có ngút ngàn một màu xanh của dừa
nước. Nó như một “đặc sản” của xứ này. Với họ, đó là cách
lưu lại hồn quê, một nét đặc trưng, dân dã, bình dị, nhẹ
nhàng cũng như tính cách của người con gái Nam Bộ.
Nhìn về những căn nhà tường mới xây còn thơm mùi

vôi, trong lòng lại bồi hồi nhớ lại câu chuyện dài về cuộc
đời con gái anh hùng, dũng cảm “Sự tích cây Phlâu neang
(dừa nước) trong Văn học dân gian Sóc Trăng.


-14Nếu con người nơi đây kiên cường, đào hầm trốn
giặc, lấp hố bom để tiếp tục cuộc sống thì dừa nước cũng
chẳng phụ người. Nước mặn, nước phèn nó cứ trơ trơ bám
lấy mà xanh tốt. Sau những lần bom cày, nó lại ngẩng đầu,
mọc lên những cây “cà bắp” nhọn hoắt, sừng sững, như
người con gái nam Bộ trước những thách thức thiên nhiên
và quân thù.
Tiểu kết


-15CHƯƠNG 3
CÂY DỪA NƯỚC
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở NAM BỘ
3.1. Các giá trị văn hóa
3.1.1. Nguồn cảm hứng trong sáng tác văn học, nghệ
thuật ở Nam Bộ
Khi nói đến những tác phẩm văn học, nghệ thuật ở
Nam Bộ chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều công trình khảo cứu
và sưu tập về văn hoá Nam bộ. Ðặc biệt, là quá trình hình
thành dải đất Nam bộ. Từ hiểu biết uyên bác đó các thi sĩ,
nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ đã thể hiện những trang viết rất
giản dị khiến nhiều tầng lớp độc giả đều đọc và dễ hiểu qua
các tác phẩm nói về cây dừa nước ở Nam Bộ.
Với Trần Việt Liêm đã nói lên tình cảm của mình với
cây dừa nước, quê hương xứ sở của mình, một tình cảm gắn

bó thiết tha; nhà thơ Hồ Kiên Giang đã miêu tả qua bài thơ
“Cây dừa nước 2”; bài vọng cổ “Còn thương rau đắng mọc
sau hè” của Thanh Vũ; bài ca cổ “Vầng trăng sông Trẹm”
của Phi Hùng… và còn rất nhiều bài thơ, bài ca ca ngợi hình
ảnh cây dừa nước quê hương xứ sở Nam Bộ.
Nói tóm lại, nguồn cảm hứng trong sáng tác văn học,
nghệ thuật ở Nam Bộ rất đặc trưng mà ở tất cả vùng, miền
khác không thể có. Nó như hòa quyện vào con người Nam
Bộ mà hình ảnh cây dừa nước là nguồn cảm hứng vô tận,
thể hiện mọi mặt trong đời sống con người Nam Bộ, với tất
cả những đặc tính cũng như trong đời sống thường ngày thật
giản dị mà chất phác làm sao.


-163.1.2. Trong văn hóa truyền thống ở Nam Bộ
Ngày nay, du khách đến Nam Bộ thăm các khu di tích
chiến tranh, tiếp chuyện với các cựu chiến binh, sẽ được nghe
nhân chứng sống kể về những chiến công gian khó mà hào
hùng của cha ông họ nơi có cây dừa nước. Đặc biệt, trong
câu chuyện của họ nhất định sẽ không thể thiếu hình ảnh cây
dừa nước. Hàng ngàn, hàng vạn cây dừa nước hiên ngang
đứng bên nhau, tạo thành những rừng cây dừa nước bạt ngàn
xanh ngút mắt, như những mũi tên xanh khổng lồ giương lên
bầu trời để ngăn chặn tầm ngắm của quân thù những lúc
chống càn hoặc những buổi biểu tình đòi quyền sống, dân
sinh. Dừa nước được các anh du kích làm nón đội đầu, vừa
làm rào chắn ngụy trang lại vừa là nơi che nắng... Dừa nước
đi qua hai cuộc chiến tranh, như người mẹ che chở cho đàn
con, sẵn sàng lấy thân mình hứng làn tên mũi đạn.
Hàng dừa nước bị càn quét chịu những vết thương,

nhưng dừa vẫn vươn lên cao vút, vẫn xanh tươi và dâng hiến
cho người những mái nhà yên ấm, hiền hòa, chân thật,
nhưng khi cần thì dừa nước cũng biểu hiện sự bất khuất,
trung kiên của con người Nam Bộ, góp phần giải phóng dân
tộc Việt Nam.
3.1.3. Cây dừa nước trong văn hóa ẩm thực
Dừa nước là một loại nguyên liệu không thể không
nhắc tới khi nói đến vùng đất Nam Bộ này. Nói đến nét đặc
sắc của trái cây nhiệt đới là nói đến trái dừa nước và nhắc
đến dừa nước là nhắc đến vùng đất phía Nam chân chất
được bao quanh bởi từng hàng dừa xanh mướt, phủ bóng
mát lên từng nhánh sông.


-17Có lẽ ngay từ những ngày đầu khai mở vùng đất mới,
người miền quê đã biết tận dụng những thứ có sẵn để chế
biến các món ăn chơi, vừa ngon miệng, vừa tăng thêm dư
vị cho cuộc sống hàng ngày. Người ta đốn lá dừa nước, hái
những lá mơ mọc hoang về nhà để làm một thứ bánh đơn
giản nhưng rất độc đáo, gọi là bánh nắn lá dừa nước.
Dừa nước không chỉ là loại nguyên liệu thơm ngon,
dồi dào mà nó đã đi vào đời sống Nam Bộ như một điều
thiết yếu hết sức tự nhiên, từ thân tới lá, từ hoa tới quả đều
cung cấp nguyên liệu quý giá để ra đời những món ăn thơm
ngon, độc đáo.
Cơm dừa hay cùi dừa có màu trắng, mang vị béo và
ngọt, ăn ngon và mát, nhiều người quen gọi là "trái mát
mật". Nếu dừa non thì nước nhiều, cơm dừa mỏng, kêu là
cháo, ăn không đã miệng.
3.2. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa

3.2.1. Bảo tồn và phát huy sử dụng cây dừa nước
trong thời gian tới
Người ta nói biểu tượng của làng quê Việt Nam là
lũy tre làng, nhưng với cư dân miệt vườn Nam Bộ lại chính
là một rặng dừa nước ven sông, một dáng thôn nữ chèo
xuồng, vài mái lá đìu hiu có khói lam chiều lãng đãng.
Trong sự phát triển của trào lưu mới đã cho thấy nguy
cơ biến đổi và mất dần những căn nhà lá truyền thống trong
một sớm, một chiều. Sự mất dần những căn nhà lá, là quy
luật tất yếu của sự phát triển, điều đó đáng mừng. Nhưng vấn
đề đặt ra là cần bảo tồn và phát huy trong điều kiện đời sống
hiện tại như: hình thành những làng nghề chầm lá trọng điểm,


-18ở những địa phương có điều kiện. Qua đó, nhà nước cần
nghiên cứu có chính sách ưu đãi các cơ sở chằm lá, người
làm nghề và làng nghề trồng dừa nước. Làng nghề này, vừa
cung cấp những tấm lá chằm có chất lượng theo kỹ thuật
chằm nguyên gốc cho nhu cầu thị trường, vừa phục vụ công
tác nghiên cứu, tham quan, du lịch ở địa phương.
Bên cạnh đó, khuyến khích thiết kế, xây dựng các
mô hình “nhà lá du lịch Nam Bộ” hoặc những kiểu nhà lá
có tính mỹ thuật, tiện ích cho các khu du lịch sinh thái miệt
vườn, các tụ điểm vui chơi, giải trí, cơ sở dịch vụ …
Đặc biệt, cần quảng bá thế mạnh đặc trưng văn hóa
dừa nước, trên vùng đồng bằng Nam Bộ. Đồng thời, tiến
đến thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học cấp quốc
gia về cây dừa nước, về căn nhà lá và nghề chằm lá. Từ đó,
có sự tổng kết, khẳng định giá trị lịch sử hình thành và phát
triển của nghề chằm lá, với những đóng góp quan trọng vào

đời sống, lối sống, tâm tư, tình cảm của cư dân Nam Bộ
trong nhiều thế kỷ qua.
3.2.2. Khai thác với hoạt động du lịch sinh thái
Vì vậy, nhu cầu khôi phục, xây dựng mới các ngôi
nhà truyền thống, hàng quán, bằng chất liệu tre dừa nước sẽ
được phát triển và có thể từ đó nghề tre, dừa nước ở Nam
Bộ sẽ có cơ hội, điều kiện khôi phục lại và phát triển hơn
nữa trong thời gian tới.
Tăng cường hơn nữa việc xây dựng những tài liệu để
quảng bá, giới thiệu về cây dừa nước ở Nam Bộ. Tiếp tục
nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề liên quan về tác dụng
của cây dừa nước. Tuyên truyền, vận động để những cá


-19nhân liên quan gìn giữ những kinh nghiệm, kỹ thuật,
phương tiện, vật liệu truyền thống nhằm đảm bảo tính
nguyên gốc và quy trình thực hành, chất lượng sản phẩm
của dừa nước trong tương lai.
Để các cấp chính quyền có chính sách đầu tư mở
rộng quảng bá di sản văn hóa phi vật thể và sản phẩm dừa
nước kết hợp với phát triển du lịch và tiêu thụ sản phẩm.
Việc quảng bá văn hóa cây dừa nước, một mặt cần
mô hình “du lịch xanh” để du khách được tiếp cận với văn
hóa này như được đưa thuyền đi vòng quanh những con
kênh, rạch đầy những hàng dừa nước lung linh; được ăn trái
dừa nước và thưởng thức những món ăn chế biến từ dừa
nước; được ngồi trên xuồng đi dọc các con kênh xanh mát
bóng dừa nước mà nghe ca vọng cổ, nghe câu hát, câu hò,
điệu lý nói về quê hương Nam Bộ.
Mặt khác, việc sưu tầm văn chương dân gian và

tuyển chọn những bài thơ, bản vắn, câu ca vọng cổ có chủ
đề, hình ảnh về cây dừa nước cũng là cách vừa giúp cho du
khách tiếp cận loại hình văn hóa Nam Bộ đặc thù, vừa giúp
người dân địa phương và du khách thêm yêu mến quê hương
Nam Bộ nhiều hơn, một quê hương vốn có bề dày truyền
thống văn hóa, lịch sử đáng tự hào từ ngàn xưa đến nay.
Tiểu kết


-20KẾT LUẬN
Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay, những tiềm năng
về cây dừa nước ở Nam Bộ đang đứng trước những thuận
lợi cơ bản cũng như những thách thức không nhỏ. Việc bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa đó có một vị trí đặc biệt
quan trọng để góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật
thể, góp phần phát triển văn hóa ở Nam Bộ trong tình hình
mới. Việc đưa ra những giải pháp mà luận văn bước đầu thể
hiện sẽ góp phần hữu ích vào sự phát triển chung cho văn
hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Nam Bộ nói riêng.
Trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xu hướng vận động và biến đổi đời sống văn
hóa ở Nam Bộ cũng ngày càng phức tạp, vừa có những mặt
tích cực và cả những mặt tiêu cực tồn tại song song nó, đặc
biệt là ở đô thị. Việc nghiên cứu cây dừa nước – một biểu
trưng văn hóa Nam Bộ tuy được tiến hành nhưng chưa rộng
khắp và chưa thật sự toàn diện. Tuy nhiên, nó cũng mang
lại những ý nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn
cuộc sống.

Về phương diện lý luận, đề tài đã đóng góp cơ bản
để nhận diện cái biểu trưng văn hóa Nam Bộ để, qua khảo
sát thực trạng và phân tích đánh giá các yếu tố đặc thù tạo
thành những cái gọi là biểu trưng văn hóa Nam Bộ. Đồng
thời, đề tài xác định phương hướng, nhiệm vụ từ đó đưa ra
những giải pháp cơ bản để bảo tồn và phát huy những giá


-21trị văn hóa trong thời gian tới. Bên cạnh đó, đề tài cũng đưa
ra cơ sở lý luận về biểu trưng văn hóa, văn hóa Nam Bộ, với
những sản phẩm cũng hình ảnh của cây dừa nước từ đó có
sự gìn giữ, phát huy các biểu trưng văn hóa đó trong giai
đoạn hiện nay.
Về phương diện thực tiễn, qua nhận diện, khảo sát,
phân tích, đánh giá thực trạng cây dừa nước hiện nay, luận
văn bước đầu đã nêu lên những giá trị cần phát huy và
những hạn chế yếu kém cần phải khắc phục. Đề tài đã dự
báo chung về xu thế vận động, biến đổi, phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ và hướng giải pháp để gìn giữ các giá
trị văn hóa đó trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nay ở Nam Bộ.
Công tác bảo tồn và giữ gìn cần được sự quan tâm
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã
hội và các tầng lớp nhân dân, hình thành nên những làng
nghề phục vụ cho dịch vụ thương mại du lịch rộng khắp
tạo nên những “văn minh miệt vườn” ở Nam Bộ. Bên
cạnh những thành tựu ấy, quá trình gìn giữ cũng gặp
không ít khó khăn, lúng túng trên nhiều phương diện, đã
và đang nảy sinh nhiều vấn đề văn hóa, xã hội phức tạp
như tình trạng các nhà tường, bê tông hóa ngày càng

nhiều, điều đó cho thấy sự phát triển của xã hội, nâng cao
mức sống người dân ở nông thôn, rất đáng mừng. Tuy
nhiên, việc bảo tồn và phát huy các giá trị trước những
tình trạng chặt phá cây dừa nước làm đường, làm bến bãi
sẽ gây ra những hệ lụy không thể lường trước được mà
quá trình đô thị hóa mang lại.


-22Cũng như những vùng, miền khác, việc quy hoạch
mở rộng đô thị là vấn đề đặt ra cho sự phát triển của cả nước
nói chung và Nam Bộ nói riêng. Đời sống của nhân dân có
những biến động lớn, đang xảy ra giữa văn hóa nông nghiệp
truyền thống và văn hóa đô thị, quá trình đô thị hóa nông
thôn có sự hòa quyện giữa cái cũ và cái mới, truyền thống
và hiện đại. Do vây, vấn đề cần bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa về cây dừa nước phải loại bỏ dần những cái
không phù hợp trong bối cảnh mới và vừa tiếp nhận những
yếu tố mới hiện đại, phù hợp hơn để có những hướng phát
huy tốt hơn trong thời gian tới.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay, những tiềm năng
về cây dừa nước ở Nam Bộ đang đứng trước những thuận
lợi cơ bản cũng như những thách thức không nhỏ. Việc bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa đó có một vị trí đặc biệt
quan trọng để góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật
thể, góp phần phát triển văn hóa ở Nam Bộ trong tình hình
mới. Việc đưa ra những giải pháp mà luận văn bước đầu thể
hiện sẽ góp phần hữu ích vào sự phát triển chung cho văn
hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Nam Bộ nói riêng.




×