Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.46 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 5
Chương 1. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ 5
1.1. Một số lý luận về tổ chức thực hiện 5
1.2. Một số vấn đề về chính sách Bảo hiểm Y tế ở Việt Nam 9
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 15
2.1. Cơ quan thực hiện chính sách 15
2.2. Tuyên truyền giải thích chính sách
2.3. Các bước triển khai
2.4. Đánh giá
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUÁ TRÌNH TỔ
CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1. Quan điểm của Đảngvà Nhà nước về tổ chức thực hiện chính sách BẢo
hiểm Y tế ở Việt Nam hiện nay
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình tổ chức thực hiện
chính sách Bảo hiểm Y tế ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
− Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến
lược, bởi vì việc chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần phát triển đất nước của nhân dân là mục tiêu cao nhất
của sự nghiệp xây dựng XHCN ở Việt Nam. Trong đó, bảo hiểm


xã hội, bảo hiểm y tế là một trong những trụ cột của hệ thống an
sinh xã hội ở Việt Nam.
− Trên thực tế, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đã được phủ trên toàn
lãnh thổ. Nhưng chất lượng còn kém. Nội dung, phương pháp thực
hiện chưa phong phú. Đội ngũ cán bộ còn chưa chuyên nghiệp…đã
làm cho hệ thống bảo hiểm chưa phát huy được khả năng của
mình.
− Đứng trước tình hình đó, việc nghiên cứu quá trình tổ chức thực
hiện, đánh giá thực trạng
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Bảo hiểm y tế - một chính sách xã hội lớn của Đảng và Chính phủ trong
thời kỳ đổi mới vì vậy có rất nhiều người quan tâm. Các nhà nghiên cứu đã
có các cuộc hội thảo, bài viết về vấn đề này như:
Cuộc hội thảo tại sáng ngày 9/12/2012 tại KS. Fortuna, Vụ Bảo hiểm Y
tế đã tổ chức Hội thảo xây dựng chính sách Bảo hiểm Y tế Việt Nam theo
định hướng công bằng và hiệu quả hơn.
http//tailieu.vn/xem-tai-lieu/chính-sách-bhyt-o-viet-nam-thuc-trang-vàgiải-pháp.185242.html
/>ng-trinh-cong-tac-tuyen-truyen-nam-2013.htm
2


/>3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
 Mục đích: nhằm nâng cao chất lượng quá trình tổ chức thực hiện
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở Việt Nam.
 Nhiệm vụ:
 Nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện chính sách.
 Tìm hiểu thực trạng quá trình tổ chức thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở Việt Nam.
 Từ phân tích thực tế so với lý luận, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao quá trình thực hiện chính sách.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
 Đối tượng: Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở Việt Nam.
 Phạm vi nghiên cứu: hệ thống bảo hiểm trên cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu.
 Chính sách công được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin mà hạt nhân là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
 Bên cạnh đó, khoa học chính sách công sử dụng các phương pháp
chung như: phương pháp logic – lịch sử, phương pháp hệ thống,
phương pháp so sách…
 Ngoài phương pháp luận và các phương pháp chung, khoa học
chính sách công còn sử dụng các phương pháp của các môn khoa
học khác như: toán học, thống kê học, kinh tế hoc…
6. Kết cấu của tiểu luận:
Phần mở đầu
3


Phần nội dung:
Chương 1: Những cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện chính sách công và
chính sách bảo hiểm y tế.
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm y
tế ở Viêt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình tổ chức thực hiên
chính sách bảo hiểm y tế ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận

4



NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ
1.2. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIÊN

1.2.1. Khái niệm tổ chức thưc hiện chính sách công (Policy
Implementation)
Thực hiện chính sách công là giai đoạn chính trong quy trình chính
sách, giai đoạn các chính sách đi vào cuộc sống. Các chính sách được
hoạch định xuất phát từ yêu cầu khách quan của cuộc sống, từ những nhu
cầu của xã hội và của nhân dân. Về thực chất, đây là quá trình chuyển
những tuyên bố trên giấy tờ của chính quyền về các loại dịch vụ, mục
tiêu, đối tượng, phương thức thành những hành động nhất định nhằm
phân phối lợi ích từ tuyên bố. Đây cong là quá trình kết hợp giữa yếu tố
con người với các nguồn lực vật chất nhằm sử dụng các nguồn lực này có
hiệu quả theo những mục tiêu đề ra.
Thực hiện chính sách là giai đoạn biến các ý đồ chính sách thành
những kết quả thực tế thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước, nhằm đạt tới những mục tiêu đề ra.
1.2.2.

Vị trí của thực hiện chính sách công

Một chính sách dù được hoạch định tốt nhưng nếu không đưa ra
thực hiện, hoặc thực hiện nhưng hiệu quả kém thì cũng không có y nghĩa
thực thi. Đối với nhân dân, kết quả thực tế của chính sách là quan trọng
hơn ý nghĩa ban đầu của chính sách đó. Đích đến của các chính sách là
tạo ra những thay đổi thực tiễn, do đó thực hiện tốt là yêu cầu tất yếu cho
thành công của chính sách. Vì vậy, thực hiện chính sách có ý nghĩa quyết
5



định đối với việc thành công hay thất bại của một chính sách và luôn thu
hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
iai đoạn này có tầm quan trọng bởi 3 lý do: 1) Đã là quá trình thực
thi nội dung chính sách dưới tác động của nhiều yếu tố. Trong nhiều
trường hợp, những khó khăn nảy sinh trong quá trình triển khai sẽ dẫn tới
sửa đổi mục tiêu và nội dung chính sách. Các chính sách cũng có thể bị
biến dạng, thậm chí bị sai lệch hẳn với ý tưởng ban đầu thông qua việc
thừa hành của bộ máy hành pháp; 2) Thông tin nhận được trong quá trình
triển khai chính sách sẽ giúp đánh giá lại các mặt của quyết định chính
sách và thay đổi nó sau này; 3) Sự vận động của chính sách từ lý thuyết
sang giai đoạn triển khai cụ thể dẫn tới sự nhìn nhận lại qua đánh giá và
xây dựng lại chính sách.
Thực hiện chính sách là việc tiếp nối và chịu sự quy định của giai
đoạn hoạch định chính sách, song không hoàn toàn lệ thuộc vào kết quả
của công tác hoạch định mà có vị trí độc lập riêng và có ý nghĩa quyết
định với toàn bộ quy trình chính sách.
1.2.3. Các bước tổ chức thực hiện chính sách công
Công tác tổ chức thực hiện chính sách là việc định ra một hệ thống
tổ chức, phân công trách nhiệm cho các tổ chức, xác lập mối quan hệ
phối hợp giữa các tổ chức một cách hữu hiệu trog việc thực hiện các
chính sách nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Để thực hiện các chính sách có hiệu quả cần phải thực hiện các bước sau:
Lựa chọn đúng cơ quan thực hiện chính sách. Trong cơ quan thực
hiện gồm có cơ quan chủ chốt và cơ quan phối hợp.
Mỗi chính sách cũng thường đề cập đến nhiều phạm vi và chức
năng quản lý xã hội, nên sẽ có nhiều cơ quan đứng ra thực hiện. Để phát
huy hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống tổ chức, sẽ có một cơ quan
6



được nhà nước ủy quyền thống nhất điều phối các hoạt động chung về
thực hiện chính sách. Cơ quan này có vai trò, trách nhiệm chính trong
việc thực hiện chính sách. Vì vậy, việc lựa chọn đúng cơ quan chủ chốt
sẽ có khả năng thực hiện chính sách có hiệu quả hơn.
Cơ quan phối hợp là cơ quan có chức năng liên đới thực hiện mà
hoạt động của những cơ quan này sẽ góp phần thúc đẩy trong thực thi
chính sách.
Thành công của một chính sách phụ thuộc rất lớn vào năng lực của
các cơ quan thực hiện chính sách. Để có thể hoàn thành nhiệm vụ được
giao, các cơ quan thực hiện phải đáp ứng các điều kiện sau: 1) Phải có đủ
nguốn tài chính, nhân lực, vật lực cho triển khai chính sách; 2) Phải có đủ
thẩm quyền kỹ thuật chuyên môn để biến các mục tiêu thành các chương
trình hành động cụ thể thích hợp; 3) Cơ quan này phải chịu trách nhiệm
về những hoạt động của mình.
Trong quá trình tổ chức thực hiện cần hình thành mối quan hệ phân
công phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chính sách. Phân công và phối
hợp là nguyên tắc cơ bản của tổ chức quản lý nhằm phát huy vai trò của
từng bộ phận cũng như hiệu quả tổng hợp của toàn hệ thống. Phân công
để giữa các cơ quan không có sự trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ;
nhưng khi thực hiện cần phối kết hợp nhằm bảo đảm tính tập trung, tạo
nên sự liên kết nhịp nhàng, ăn khớp và đồng bộ trong hoạt động. Phối
hợp thể hiện ở tất cả các mặt: con người, công việc, tổ chức…; cần phải
phối hợp chặt chẽ các yếu tố của không gian và thời gian; phối hợp giữa
các cấp, các vùng cho đến từng cá nhân với nhau. Như vây, phân công và
phối hợp là hai mặt của vấn đề thực hiện chính sách, là tiền đề và kết quả
cảu nhau. Thực hiện tốt phân công và phối hợp sẽ giúp cho tiến trình thực

7



hiện chính sách một cách chủ động, sang tạo và duy trì ổn định; góp phần
vào sự thành công và hiệu quả của chính sách.
Xác định rõ đối tượng chịu tác động của chính sách. Bởi vì, việc
thực hiện chính sách sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích
của họ. Mỗi chính sách có một phạm vi tác động rộng hẹp, mạnh yếu
khác nhau, cho nên khi thực hiện chính sách phải phân loại đối tượng
chính sách để theo dõi, đánh giá.
Tuyên truyền giải thích chính sách là một bước quan trọng trong tổ
chức thực hiện chính sách. Các chính sách được ban hành đều có tác
động đến nhận thức tư tưởng của những người có liên quan, từ đó hình
thành nên thái độ của họ đối với việc chấp hành chính sách. Nhận thức tư
tưởng của mỗi người không giống nhau, vì vậy thái độ của họ đối với
một chính sách cũng không thống nhất. Việc nhận thức đúng đắn vấn đề
để mọi người có liên quan cùng đi theo một con đường chung là yếu tố
quan trọng bảo đảm cho thực hiện chính sách thắng lợi. Vì vậy, các cơ
quan nhà nước phải tuyên truyền, chuẩn bị dư luận cho việc thực hiện
chính sách để mọi người hiểu, đồng tình và ủng hộ.
Triển khai thực hiện chính sách. Để thực hiện được bước này, cần
phải làm tốt các yêu cầu sau:
Có kế hoạch thực hiện chu đáo;
Cần phát huy tính chủ động trong tổ chức thực hiện;
Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hẹ thống chính trị tham
gia thực hiện thực hiện chính sách;
Không ngừng đấu tranh mọi hành vi đi ngược lại chính sách đã
được coi là đúng;
Cần có sự phối hợp thực hiện các chính sách;
Giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình thực hiện chính sách.
8



1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM

1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam

Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu
Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc bờ biển phía đông của bán đảo này. Việt Nam
có biên giới đất liền với Trung Quốc (1.281 km), Lào (2.130 km) và Campuchia
(1.228 km) và bờ biển dài 3.444 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đông và
vịnh Thái Lan.
Việt Nam có diện tích 331.212 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất
liền và hơn 4.200 km² biển nội thủy, với hơn 2.800 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn
nhỏ, gần và xa bờ, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố
chủ quyền, có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng
trên 1 triệu km².
Địa hình Việt Nam rất đa dạng theo các vùng tự nhiên như vùng Tây
Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên có những đồi và những núi đầy rừng, trong khi đất
phẳng che phủ khoảng ít hơn 20%. Núi rừng chiếm độ 40%, đồi 40%, và độ che
phủ khoảng 75%. Các vùng đồng bằng như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng
sông Cửu Long và các vùng duyên hải ven biển như Bắc Trung Bộ và Nam
Trung Bộ. Nhìn tổng thể Việt Nam gồm ba miền với miền Bắc có cao nguyên
và vùng châu thổ sông Hồng, miền Trung là phần đất thấp ven biển, những cao
nguyên theo dãy Trường Sơn, và miền Nam là vùng châu thổ Cửu Long. Điểm

9


cao nhất Việt Nam là 3.143 mét, tại đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy núi Hoàng

Liên Sơn. Diện tích đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới xavan ở miền Nam với hai mùa (mùa mưa,
từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 9, và mùa khô, từ giữa tháng 10 đến giữa tháng
4) và khí hậu cận nhiệt đới ẩm ở miền Bắc với bốn mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa
hè, mùa thu và mùa đông), còn miền trung có đặc điểm của khí hậu nhiệt đới
gió mùa. Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hòa một phần
bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung
bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm,số giờ
nắng khoảng 1.500 đến 3.000 giờ/năm và nhiệt độ từ 5 °C đến 37 °C. Hàng
năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bão và lụt lội với 5 đến 10 cơn bão/năm.
Về tài nguyên đất, Việt Nam có rừng tự nhiên và nhiều mỏ khoáng sản
trên đất liền với phốt phát, than đá, măng gan, bô xít, chrômát,... Về tài nguyên
biển có dầu mỏ, khí tự nhiên, quặng khoáng sản ngoài khơi. Với hệ thống sông
dốc đổ từ các cao nguyên phía tây, Việt Nam có nhiều tiềm năng về phát triển
thủy điện.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng
14% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần
86%, tập trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển. Những dân tộc
thiểu số, trừ người Hoa, người Chăm và người Khmer phần lớn đều tập trung ở
các vùng miền núi và cao nguyên. Trong số các sắc dân thiểu số, đông dân nhất
là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Hoa, Khmer, Nùng..., mỗi dân tộc có dân số
khoảng một triệu người. Các dân tộc Brâu, Rơ Măm, Ơ Đu có số dân ít nhất,
với khoảng vài trăm cho mỗi nhóm. Có một số dân tộc thiểu số đã định cư trên
lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời, nhưng cũng có các dân tộc chỉ mới di cư vào
10


Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây như người Hoa ở miền Nam. Trong số
các dân tộc này, người Hoa và người Ngái là hai dân tộc duy nhất có dân số
giảm trong giai đoạn 1999-2009. Việt Nam là một nước đông dân, tuy diện tích

đứng hạng 65 nhưng lại xếp thứ 13 trên thế giới về dân số.

__________________

1.2.2. Một số nội dung cơ bản của chính sách bảo hiểm y tế ở Việt
Nam hiện nay
1.2.2.1. Khái niệm bảo hiểm y tế
BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực
hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của pháp
luật.
Bảo hiểm y tế toàn dân là việc các đối tượng quy định trong Luật
này đều tham gia bảo hiểm y tế.
Quỹ bảo hiểm y tế là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng
bảo hiểm y tế và các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả
chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, chi phí
quản lý bộ máy của tổ chức bảo hiểm y tế và những khoản chi phí hợp
pháp khác liên quan đến bảo hiểm y tế.
Người sử dụng lao động bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá
11


thể và tổ chức khác; tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế.
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu là cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh đầu tiên theo đăng ký của người tham gia bảo hiểm y tế
và được ghi trong thẻ bảo hiểm y tế.

Giám định bảo hiểm y tế là hoạt động chuyên môn do tổ chức bảo
hiểm y tế tiến hành nhằm đánh giá sự hợp lý của việc cung cấp dịch vụ y
tế cho người tham gia bảo hiểm y tế, làm cơ sở để thanh toán chi phí
khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Bảo hiểm Y tế được thực hiện trên 5 nguyên tắc:
- Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia Bảo hiểm Y
tế.
- Mức đóng Bảo hiểm Y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của
tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối
thiểu của khu vực hành chính (sau đây gọi chung là mức lương tối thiểu).
- Mức hưởng Bảo hiểm Y tế theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng
trong phạm vi quyền lợi của người tham gia Bảo hiểm Y tế.
- Chi phí khám bệnh, chữa bệnh Bảo hiểm Y tế do quỹ Bảo hiểm Y
tế và người tham gia Bảo hiểm Y tế cùng chi trả.
- Quỹ Bảo hiểm Y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công
khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.
1.2.2.1. Cơ quan hoạch đinh chính sách
Luật Bảo hiểm y tế đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 14 tháng 11 năm 2008 và Chính phủ đã ban hành Nghị định số
62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi

12


hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm
2009.
1.2.2.2. Vấn đề chính sách, mục đích, đối tượng và phạm vi ảnh
hưởng.
 Vấn đề chính sách: chính sách Bảo hiểm Y tế của Việt Nam trong giai

đọa hiện nay.
 Mục đích: Từ quá trình nghiên cứu thực tế công tác tổ chức thực hiện
chính sách bảo hiểm y tế ở Việt Nam trong những năm qua. Tìm ra những thuận
lợi cũng như khó khăn gặp phải khi thực hiện chính sách. Phát huy những
thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện, khắc phục những mặt hạn chế.
Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao công tác tổ chức thực hiện chính
sách. Để chính sách đó đến gần với người dân hơn.
 Đối tượng: công tác tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm y tế ở Việt
Nam hiện nay.
 Phạm vi: trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2.3. Ý nghĩa của việc tổ chức thực hiện trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam
 Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam có chiến lược
phát triển con người. Con người vừa là mục tiêu trong chiến lược, vừa là một
trong nhưng nhân tố làm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Mà bảo hiểm y tế
là một trong những chính sách an sinh xã hội, mang tính nhân văn, nhân đạo
sâu sắc, thể hiện sự tương thân tương ái, chia sẻ rủi ro giữa người khỏe mạnh
với người ốm đau, giữa người trẻ với người già, giữa người có thu nhập cao với

13


người có thu nhập thấp. Nếu thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế góp phần
không nhỏ vào chiến lược phát triển kinh tế.
 Để thực hiện tốt chính sách thì công tác tổ chức thực hiện chính sách có ý
nghĩa quyết định đối với sự thành công hay thất bại của chính sách. Bất cứ một
chính sách ra đời thành công đều phải dựa vào công tác tổ chức thực hiện.
Những chính sách ra đời đều phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam.
 Như vậy, công tác tổ chức thực hiện là tiền đề cho phát triển kinh tế - xã

hội.

Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. CƠ QUAN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế.
Trong đó Cơ quan chủ chốt là Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế.

Bên cạnh đó là Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình phối hợp với Bộ Y tế thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế.
Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế tại địa phương.

2.2. TUYÊN TRUYỀN GIẢI THÍCH CHÍNH SÁCH
14


Thắng lợi của chính sách phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: nguồn lực kinh
tế quốc gia, điều kiện kinh tê – xã hội, năng lực và hiệu quả của bộ máy hành
chính, sự hiểu biết của người thực hiện chính sách, sự ủng hộ của các tổ chức
xã hôi và nhân dân. Các chính sách của nhà nước được đưa ra cần làm cho
những người thực hiện hiểu nó, nhất là đối với cấp cơ sở. Đồng thời, sự hiểu
biết của người đề ra chính sách là điều kiện rất quan trọng, hơn ai hết họ phải là
những người hiểu tình hình thực tế và biết làm thế nào để mọi người nhận thức
đúng và ủng hộ.
Việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT đang gặp rất nhiều khó khăn, tỷ
lệ bao phủ BHYT thấp. Một trong những nguyên nhân được nhận diện, đó là
công tác tuyên truyền chính sách BHYT chưa được chú trọng đúng mức. Sinh

thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “…công bố đạo luật này chưa phải đã
là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện
được tốt”. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động chính sách Bảo hiểm y tế, thì
công tác tuyên truyền thực hiện các chính sách về bảo hiểm đến mọi tầng lớp
nhân dân cần được quan tâm và chú trọng nhiều hơn nữa.
Xác định công tác tuyên truyền có vai trò quan trọng, tác động trực tiếp
đến người lao động, đối tượng thụ hưởng các chính sách xã hội. Vì thế, ngay từ
đầu khi ban hành luật bảo hiểm y tế Đảng và Nhà nước đã chủ động xây dựng
kế hoạch, chương trình công tác tuyên truyền, triển khai Bảo hiểm y tế đến các
Bộ,cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương , ban ngành và các
phòng nghiệp vụ…. Trong đó chú trọng phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang
bô, ban ngành, các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức nhiều hoạt động như: tọa
đàm, đối thoại, tập huấn, phát sóng các phóng sự, đăng tải bài viết... Tuyên
truyền, phổ biến chế độ chính sách về bảo hiểm y tế tới mọi tầng lớp nhân dân
trên địa bàn tỉnh

15


Trong năm 2012, hầu hết các tỉnh đã phối hợp, tổ chức được hàng chục
lớp tập huấn, đối thoại hoặc lồng ghép tuyên truyền về chính sách Bảo hiểm y
tế đến các cán bộ, đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên. Các nội dung tuyên
truyền chủ yếu tập trung vào các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội về các chế
độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...
Bên cạnh cách tuyên truyền theo lối truyền thống (tổ chức các buổi tuyên
truyền bằng hình thức giảng dạy) thì đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên
đã đổi mới them nhiều hình thức phong phú, đa dạng hơn như băng rôn, khẩu
hiệu, các chương trình nghệ thuật có nội dung liên quan đến vấn đề tuyên
truyền. Đã phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng để truyên truyền,
quảng bá rộng rãi tới đối tượng hơn. Làm tăng hiệu quả của công tác tuyên

truyền, có khả năng tác động mạnh tới đối tượng mà còn làm giảm số lượng
cộng tác viên, tuyên truyền viên.
Nhìn chung, với các hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú, nội dung
phù hợp, các chính sách của Đảng, Nhà nước đã kịp thời truyền tải đến nhiều
tầng lớp nhân dân trong xã hội. Từ đó góp phần tác động mạnh mẽ đến nhận
thức của người lao động và nhân dân trong cả nước, nâng tỉ lệ người tham gia
và chấp hành Luật Bảo hiểm y tế ngày càng tăng, nâng cao trách nhiệm của các
đơn vị sử dụng lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp, điều đó cũng thúc đẩy
việc hoàn thành công tác chung của ngành.
2.3. CÁC BƯỚC TRIỂN KHAI

Luật Bảo hiểm y tế đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 14 tháng 11 năm 2008 và Chính phủ đã ban hành Nghị định số
62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm
2009. Để thực hiện tốt Luật Bảo hiểm y tế, góp phần quan trọng vào việc nâng
cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe và khám bệnh, chữa bệnh của nhân
16


dân. Thủ tướng Chính phủ đã gửi công điện tới các Bộ trưởng các Bộ: Y tế, Tài
chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Thông tin và Truyền thông, Giáo dục
và Đào tạo; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Để quá trình thực hiện chính sách có hiệu quả thì Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu:
 Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiếp tục khẩn
trương hoàn thành việc xây dựng các văn bản hướng dẫn theo quy định của
Luật Bảo hiểm y tế; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện
Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn; chỉ đạo các bệnh viện thuộc Bộ,

ngành, các Sở Y tế chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện nghiêm các
quy định của Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn; tổ chức các đoàn
công tác đi một số tỉnh, bệnh viện để kiểm tra, hướng dẫn các bệnh viện tổ chức
tốt công tác khám bệnh, chữa bệnh và thu phần chi phí cùng chi trả của người
bệnh bảo đảm thuận tiện, giảm phiền hà cho người bệnh; báo cáo kịp thời các
vướng mắc vượt thẩm quyền, đồng thời đề xuất với Thủ tướng Chính phủ các
biện pháp cần thiết để giải quyết.
 Bộ Tài chính hướng dẫn và chỉ đạo kịp thời việc phân bổ và cấp kinh
phí đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng được ngân sách
nhà nước đóng và hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế.
 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khẩn trương chỉ đạo, hướng dẫn
các địa phương lập danh sách xác định các đối tượng được cấp thẻ Bảo hiểm y
tế và hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế.
 Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan truyền thông, báo
chí tham gia tuyên truyền, phổ biến Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng
dẫn Luật theo hướng nhấn mạnh ý nghĩa của bảo hiểm y tế trong hệ thống an
17


sinh xã hội, nâng cao hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi của người dân trong
tham gia bảo hiểm y tế, động viên người dân tham gia bảo hiểm y tế; khích lệ
động viên các đơn vị, cá nhân thực hiện tốt bảo hiểm y tế, phát hiện, phê phán
những hiện tượng lệch lạc trong thực hiện bảo hiểm y tế.
 Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường học thực hiện Luật Bảo
hiểm y tế và tổ chức công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh, sinh
viên.
 Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện
Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn; phối hợp chặt chẽ với các Bộ,
ban, ngành và các cơ sở y tế để đảm bảo khám bệnh, chữa bệnh, thanh toán chi
phí khám bệnh, chữa bệnh kịp thời, đơn giản về thủ tục, giảm tối đa phiền hà

cho người bệnh, nhất là trong việc cùng chi trả và thủ tục khi đi khám bệnh,
chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế.
 Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
chỉ đạo thực hiện tốt các việc sau:
o

Tổ chức việc tuyên truyền, phổ biến về bảo hiểm y tế tới toàn thể

người dân trên địa bàn, chú ý đồng bào ở vùng sâu, vùng xa.
o

Bố trí cán bộ chuyên trách theo dõi thực hiện chính sách bảo hiểm

y tế; chuẩn bị các điều kiện để tổ chức tốt việc khám bệnh, chữa bệnh bằng bảo
hiểm y tế phù hợp với những quy định mới về đăng ký khám bệnh, chữa bệnh
bằng bảo hiểm y tế ban đầu, về thực hiện cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa
bệnh.
o

Phân bổ, cấp kinh phí đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và

các đối tượng được ngân sách nhà nước đóng, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế theo
hướng dẫn của Bộ Tài chính;

18


o

Lập danh sách xác định các đối tượng được cấp thẻ Bảo hiểm y tế


và hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế;
o

đ) Bảo đảm cấp thẻ Bảo hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh và thanh

toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế kịp thời, đúng chế độ;
o

Tổ chức việc khen thưởng các đơn vị làm tốt và thanh tra, kiểm tra,

xử lý các vi phạm về bảo hiểm y tế trên địa bàn.
 Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân tích cực tham gia và hỗ trợ chính quyền các cấp thực hiện tốt Luật
Bảo hiểm y tế./.

2.4. ĐÁNH GIÁ

2.4.1. Thành tựu đạt được
Các Bộ, các cơ quan ban ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã
phối hợp thực hiện xây dựng các kế hoạch các văn bản hướng dẫn theo quy
định của Luật Bảo hiểm y tế; Đã chủ động trong việc triển khai tổ chức thực
hiện chính sách tới nhân dân.
Công tác tuyên truyền ngày càng phát huy được vai trò của mình, các
hình thức tuyền truyền thì phong phú, đa dạng và truyền tải được nội dung đến
đối tượng. Từ đó đã hướng dẫn việc tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách
Bảo hiểm Y tế nhằm củng cố và xây dựng niềm tin cho các đối tượng tham gia
Bảo hiểm Y tế; Giới thiệu, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, hoạt động của
BHXH Việt Nam nhằm tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Ngành trong việc
tổ chức thực hiện chính sách Bảo hiểm Y tế.

Bộ Y tế thường xuyên tổ chức các đoàn công tác đi một số tỉnh, bệnh
viện để kiểm tra, hướng dẫn các bệnh viện tổ chức tốt công tác khám bệnh,
chữa bệnh và thu phần chi phí cùng chi trả của người bệnh bảo đảm thuận tiện,
19


giảm phiền hà cho người bệnh; báo cáo kịp thời các vướng mắc vượt thẩm
quyền, đồng thời đề xuất với Thủ tướng Chính phủ các biện pháp cần thiết để
giải quyết.
Bộ Tài chính luôn được đảm bảo phân bổ và cấp kinh phí đóng bảo
hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng được ngân sách nhà nước
đóng và hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế.
Đánh giá 3 năm thực hiện Luật Bảo hiểm y tế và định hướng sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế vừa được tổ chức tại Hà Nội. Theo đó,
năm 2012, ước số lượng người tham gia bảo hiểm y tế là 59,164 triệu người,
tăng hơn 2 triệu người so với năm 2011, tỷ lệ bao phủ khoảng 67% dân số;
2.453 cơ sở khám chữa bệnh đã ký hợp đồng khám chữa bệnh cho người có thẻ
bảo hiểm y tế (trong đó có 1.982 cơ sở Nhà nước và 471 cơ sở tư nhân), tăng
6% so với năm 2010.

2.4.2. Hạn chế
Luật BHYT có hiệu lực từ tháng 7/2009, đến nay số người tham gia
BHYT đã tăng lên nhanh chóng, cùng với đó các chính sách về khám chữa bệnh
cho đối tượng có BHYT cũng được mở rộng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện
Luật BHYT còn không ít vướng mắc và hạn chế. Trong đó đáng chú ý là việc
mở rộng đối tượng tham gia BHYT còn chậm, đến nay số đối tượng có trách
nhiệm tham gia BHYT mới chỉ đạt 75,6%.
Đặc biệt, hiện nay cả nước vẫn còn hơn 6 triệu người lao động trong các
doanh nghiệp chưa tham gia BHYT. Cùng với đó mới chỉ có khoảng 25% trong
số gần 6 triệu người thuộc diện hộ cận nghèo tham gia BHYT, cho dù người


20


cận nghèo đã được Nhà nước hỗ trợ 70% phí tham gia BHYT, thậm chí một số
địa phương ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long… với
sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và ngân sách địa phương còn được hỗ trợ tới
90% phí tham gia BHYT, nhưng tỷ lệ người cận nghèo tham gia BHYT vẫn rất
thấp.
Lý giải cho thực trạng trên, TS Tống Thị Song Hương cho rằng, do nhận
thức của nhiều người sử dụng lao động, người lao động về chính sách BHYT
còn chưa đầy đủ, trong khi đó, công tác thanh tra kiểm tra không thường xuyên,
chế tài xử phạt các hành vi vi phạm hành chính chưa đủ mạnh để buộc doanh
nghiệp tuân thủ.
Thông tin chính sách về việc hỗ trợ BHYT cho hộ cận nghèo vẫn chưa
đến được đối tượng một cách đầy đủ, khiến nhiều người không biết mình được
hỗ trợ những gì, địa điểm nơi mua thẻ BHYT…
Bên cạnh đó, sự phối hợp liên ngành ở các tỉnh thành chưa chặt chẽ,
hướng dẫn tổ chức thực hiện chính sách chưa kịp thời; việc lập danh sách đối
tượng tham gia BHYT còn chậm trễ, nhất là với nhóm người nghèo, cận nghèo
và trẻ em dưới 6 tuổi.
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUÁ TRÌNH TỔ
CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

21



Bước sang năm 2013, Đảng và Nhà nước chỉ đạo cho Bảo hiểm xã hội
Việt Nam đẩy mạnh công tác tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm y tế tới
toàn thể nhân dân.
Bảo hiểm xã hội đã lên kế hoạch chỉ đạo tới các ban ngành, tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đổi mới nội
dung, phương pháp tổ chức các hoạt động nhằm góp phần nâng cao nhận thức
của cộng đồng và mỗi người dân về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của việc
chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về chính sách bảo hiểm y tế, hướng tới mục tiêu Bảo hiểm Xã hội cho mọi
người lao động và thực hiện Bảo hiểm Y tế toàn dân.
Để công tác tổ chức thực hiện có hiệu quả, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đã
gữi văn bản Chương trình Công tác tuyên truyền năm 2013.
hương trình đã ghi rõ mục tiêu, đối tượng, nội dung tuyền truyền, các
hình thức tuyên truyền, công tác thực hiện:
 Nội dung tuyên truyền: có kế hoạch phối hợp với Ban Tuyên giáo
Trung ương, các bộ, ngành, địa phương tuyên truyền sâu rộng tới các ngành,
các cấp Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác Bão hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế giai đoạn 20122020; tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền những nội dung cơ bản của Luật Bảo
hiểm Y tế; Tuyên truyền về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của đối tượng
tham gia; giới thiệu, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh và hoạt động của Bảo
hiểm Xã hội Việt Nam.
 Hình thức tuyên truyền: đa dạng, phong phú. Liên kết với các báo,
đài, phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao hiệu quả hoạt động.
 Tổ chức thực hiện: Đối với Ban tuyên truyền cần phải xây dựng kinh
phí và chương trình công tác tuyên truyền năm 2013 của ngành; xây dựng nội
dung ký kết chương trình phối hợp tuyên truyền năm 2013 với các bộ, ngành, tổ
22


chức đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí…; thường xuyên kiểm tra,

giám sát công tác thực hiện chính sách. Đối với cớ quan báo chí thì tổ chức hoạt
động theoo đúng tôn chỉ, mục đích và chức năng nhiệm vụ được tổng Giám đốc
giao; phối hợp với Ban Tuyên truyền làm tốt công tác tuyền truyền góp phần
định hướng dư luận, kịp thời giải đáp những băn khoăn, vướng măc của nhân
dân; nghiên cứu xem xét đề xuất cải tiến nội dung hình thức nhằm nâng cao
chất lượng các ấn phẩm báo chí cũng như hiệu quả tuyên truyền của Báo chí.
Đối với Bảo hiểm Xã hội các tỉnh, thành phố cần xây dựng kế hoạch tuyên
truyền năm 2012 tại địa phương theo phương hướng tuyên truyền của Bảo hiểm
Xã hội Việt Nam; duy trì hoạt động và nâng cao hiệu quả phối hợp với các cơ
quan thông tin đại chúng tại địa phương; chọn lựa cán bộ có năng lực, nhiệt
huyết để phân công làm cán bộ tuyên truyền chuyên trách; có biện pháp và cơ
chế hợp lý nhằm kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cộng
tác viên tuyên truyền tại mỗi địa phương. Đối với các Ban nghiệp vụ thì theo
chức năng nhiệm vụ được giao chủ động, tích cực phối hợp với Ban tuyên
truyền, các cơ quan truyền thông của Ngành và ngoài Ngành để cung cấp thông
tin; Ban Kế hoạch – Tài chính phối hợp cới Ban Chỉ, Ban Tuyên truyền và các
Văn phòng xây dựng dự toán kinh phí tuyên truyền hằng năm của Ngành trình
Tổng Giám đốc.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUÁ TRÌNH TỔ
CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Trước tiên, đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Ngành có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, giỏi nhiệm vụ; đội ngũ
tuyên truyền viên, cộng tác viên tích cực rèn luyện, học tập trau dồi kiến thức

23



để nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, xứng đáng với niềm tin cậy của
Đảng, Chính phủ và nhân dân;
Thứ ba, đổi mới hình thức tuyên truyền cho phong phú, đa dạng hơn đạt
hiệu quả hơn. Nội dung tuyên truyền rõ ràng, cụ thể hóa, dễ hiểu để người dân
nhanh chóng nắm bắt được nội dung, trách hiểu sai lệch, không đúng chính sách
của Đảng, Nhà nước.
Thứ tư, đầu tư thêm kinh phí cho công tác tổ chức thực hiện, nhất là công
tác tuyên truyền. Nếu thiếu kinh phí thì công tác tuyên truyền sẽ kém hiệu quả.
Thứ năm, Đảng, Nhà nước cần đổi mới công tác quản lý về Bảo hiểm Y
tế. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Bảo hiểm Y tế.
Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách Bảo Hiểm Y tế.

KẾT LUẬN
Tổ chức thực hiện chính sách có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ qua
trình thực hiện. Chỉ khi nào chúng ta xác định đúng những công việc cần làm,
lựa chọn chính xác những tổ chức có đủ khả năng đảm đương, phân công phù
hợp, rành mạch trách nhiệm và tạo lập được mối liên hệ phối hợp nhịp nhàng
giữa các tổ chức thực hiện thì việc thực hiện chính sách mới định hình về cơ
24


bản. Ngược lại, nếu công tác tổ chức không được tốt sẽ gây ra rất nhiều trở ngại
cho quá trình thực hiện chính sách. Khi cơ cấu tổ chức không được xác định
hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, trách nhiệm không rõ
ràng, phối hợp lõng lẻo… Kết quả là các mục tiêu của chính sách không được
thực hiện hoặc thực hiện một cách méo mó.
Bảo hiểm y tế là một chính sách lớn trong việc bảm bảo an sinh xã hội
cho nhân dân, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, thể hiện sự tương thân
tương ái, chia sẻ rủi ro giữa người khỏe mạnh với người ốm đau, giữa người trẻ

với người già, giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Nếu thực
hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế góp phần không nhỏ vào chiến lược phát triển
kinh tế.
Để thực hiện có hiệu quả chính sách bảo hiểm y tế thi công tác tổ chức
thực hiện chính sách là rất quan trọng. Công tác tổ chức thực hiện là quá trình
đưa chính sách bảo hiểm y tế từ lý luận ra thực tiễn. Đưa chính sách đến gần
với nhân dân hơn thông qua công tác tuyên truyền với các hình thức đa dạng,
phong phú, công tác thực hiện chính sách.
Chính sách bảo hiểm y tế thành công sẽ góp phần không nhỏ vào phát
triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế.
Khoa Chính trị học, HV Báo chí và Tuyên truyền (2008): “Khoa học
Chính sách công”, Nxb.CTQG, Hà Nội.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×