Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN bản CHẤT của NGUYÊN tắc tập TRUNG dân CHỦ và ý NGHĨA đối với CÔNG tác xây DỰNG ĐẢNG TRONG ĐẢNG bộ QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.91 KB, 23 trang )

BẢN CHẤT CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ VÀ
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
=========================
Theo Lê nin nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong
xây dựng tổ chức và sinh hoạt đảng. Không tuân thủ nguyên tắc này thì không
còn là một Đảng Mác xít nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trung thành
với luận điểm này của Lê nin trong xây dựng và hoạt động của Đảng ta mà
còn cụ thể hoá và làm sáng tỏ thêm bản chất và mối quan hệ biện chứng giữa
các thành tố trong nguyên tắc tập trung dân chủ. Theo Người, tập trung không
mâu thuẫn với dân chủ mà chúng thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau.
Trung thành với những nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn giữ
vững và khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của Đảng, là điều kiện không thể thiếu để phát huy dân chủ, giữ vững kỷ
cương, bảo đảm cho hoạt động thông suốt từ Trung ương đến chi bộ. Vì vậy, vấn
đề cấp thiết đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng trong quân đội hiện nay là phải
nắm vững bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ Đây là, cơ sở hết sức quan
trọng để trung thành và vận dụng đúng đắn nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng, là cơ sở để đấu tranh phê phán các quan điểm sai
trái, thù địch, nhằm phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, đánh bại âm mưu
“phi chính trị hoá” quân đội, làm Đảng ta tan rã từ bản chất, không còn là lực
lượng lãnh đạo quân đội ta tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.
Trong suốt sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn vận dụng trung thành
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổng kết công tác xây dựng Đảng, Đảng ta
khẳng định: “quá trình phát triển Đảng gắn liền với việc Đảng kiên trì và
từng bước cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ thực hiện nguyên
tắc này mà Đảng ta giữ vững và phát triển được tổ chức, bảo đảm sự thống
nhất ý chí và hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng”1. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền nguyên tắc tập trung dân chủ còn là nguyên tắc tổ
1



ĐCSVN, Báo cáo tông kết công tác xây dưng Đảng thời kỳ 1975-1995, Nxb CTQG, H.1996, tr.86


2
chức hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa (XHCN), là nguyên
tắc chỉ đạo phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với xã
hội, là điều kiện không thể thiếu để phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương,
pháp luật, bảo đảm cho hoạt động thông suốt từ trên xuống dưới. Tập trung
dân chủ được hiến pháp nước ta ghi nhận tại điều 4 hiến pháp năm 1959; tại
điều 6 của các hiến pháp năm 1980, năm 1992 và năm 2001, điều đó càng
khẳng định không chỉ trong Đảng, mà nhà nước ta được xây dựng tổ chức và
hoạt động dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện bản chất của nhà
nước cách mạng, của giai cấp công nhân (GCCN), nhà nước của dân, do dân
và vì dân.
Nguyên tắc tập trung dân chủ gắn liền với sự ra đời và cuộc đấu tranh
cách mạng của GCCN, gắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ
thể từng nước. Khi Đảng giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm
quyền, nhiệm vụ vai trò và điều kiện hoạt động của Đảng có sự thay đổi căn
bản, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt,
hoạt động của Đảng, mà còn là của hệ thống chính trị.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt và toàn bộ quá trình tổ chức,
sinh hoạt nội bộ và quá trình hoạt động của Đảng, bảo đảm cho Đảng là một
chỉnh thể có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật tự giác nghiêm minh, đoàn kết thống
nhất cả ý chí và hành động; có vai trò chỉ đạo các mối quan hệ trong sinh hoạt
nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa địa
phương và Trung ương, giữa cá nhân và tổ chức...; là cơ sở cho sự thống nhất
về chính trị, tư tưởng được bảo đảm bằng sức mạnh của tổ chức, vừa phát huy
được tính tích cực, chủ động của tổ chức đảng, đảng viên, vừa tập trung được

trí tuệ của toàn Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện nguyên tắc trung
dân chủ còn “tạo ra khả năng thường xuyên tự đổi mới, thường xuyên nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu”2, là phương thuốc hữu hiệu ngăn
ngừa những căn bệnh nguy hiểm hay mắc phải của một Đảng cầm quyền như
2

Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu nghị quyết hội nghị lần thứ 6, năm 1999, tr.14


3
quan liêu, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, tham ô hủ hoá, dân chủ vô
chính phủ; đây còn là một tiêu chuẩn để phân biệt Đảng Cộng sản với các
đảng phái khác, phân biệt người cộng sản chân chính với các phần tử tự do,
vô chính phủ, kém ý thức tổ chức, kỷ luật.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là thuộc tính bản chất của GCCN C.Mác
và Ph.Ăng coi tập trung dân chủ là cái “vốn có” của GCCN. Đảng là đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất của
GCCN là nơi thể hiện tập trung bản chất giai cấp của GCCN: Giai cấp công
nhân ra đời và phát triển gắn liền với sản xuất đại công nghiệp, quá trình được
rèn luyện trong nền sản xuất đó, vừa đòi hỏi trình độ chuyên môn hoá ngày
càng sâu, vừa đòi hỏi trình độ hợp tác hoá ngày càng cao và quá trình đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, với sự thống nhất lợi ích chính trị,
kinh tế, mục tiêu lý tưởng cao cả, đã tạo cho GCCN những đặc trưng cơ bản:
tinh thần cách mạng triệt để, tính tập trung thống nhất cao, tính kỷ luật tự
giác nghiêm minh, tinh thần dân chủ tập thể, tinh thần đoàn kết hiệp đồng
hợp tác. Những đặc trưng đó là ý thức, là hành động và phong cách của
GCCN, mà các giai cấp khác không thể có. Tập trung dân chủ là một nội dung
cơ bản thuộc bản chất của GCCN- nguyên tắc tập trung dân chủ đã phản ánh
bản chất tổ chức của GCCN trong lao động sản xuất và trong đấu tranh cách
mạng.

Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định xây dựng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động của Đảng, đảm bảo Đảng ta là một chỉnh thể thống nhất có tổ chức chặt
chẽ, đồng bộ thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, tránh được tình trạng lỏng lẻo,
lộn xộn, vô chính phủ bè phái; sẽ phát huy cao độ trí tuệ, tinh thần trách nhiệm,
sự sáng tạo của mọi thành viên, mọi tổ chức vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng;
đó còn là yêu cầu, là phương tiện phát huy thế và lực của cách mạng.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là biện pháp quản lý giáo
dục rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ nghiêm kỷ luật loại trừ những
phần tử cơ hội xét lại, vô chính phủ, thoái hoá biến chất ra khỏi Đảng. Cùng


4
với nhân tố chính trị, tư tưởng, nguyên tắc tổ chức bảo đảm sự trong sạch,
năng lực lãnh đạo sức chiến đấu, uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong quần
chúng; còn là tiêu chí phân biệt Đảng cộng sản với các đảng cơ hội xét lại,
phi vô sản. V.I.Lê nin cho rằng: “sức mạnh của GCCN chính là tổ chức”3.
Vì thế, “Đội tiên phong của GCCN phải hết sức có tổ chức”4, nguyên tắc tổ
chức chính là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Khi Đảng giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, nhiệm
vụ vai trò và điều kiện hoạt động của Đảng có sự thay đổi căn bản, nguyên tắc
tập trung dân chủ không chỉ còn là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, hoạt động
của Đảng, mà còn là của hệ thống chính trị, là nguyên tắc chỉ đạo, là phương
hướng lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nên vai trò của nguyên
tắc tập trung dân chủ không ngừng được tăng lên.
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các Đảng cộng sản
và Đảng ta cho thấy vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với
việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các Đảng Cộng sản. Ngay từ khi mới
ra đời giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ đã là một cuộc đấu tranh gay gắt
giữa người cộng sản và giai cấp vô sản với phần tử cơ hội xét lại, những tư
tưởng tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Nhưng nhiều Đảng đã ngộ nhận đổ lỗi cho

nguyên tắc tập trung dân chủ làm trì trệ, lạc hậu, không ưu việt hơn tư bản do
thiếu dân chủ nên thiếu năng động sáng tạo, không phát triển toàn diện, do
Đảng độc quyền đứng trên nhà nước, nên trong quá trình đổi mới và cải tổ,
một số Đảng Cộng sản cầm quyền ở Đông Âu và Liên Xô đã ngộ nhận, từ bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ dẫn tới tan rã, mất chính quyền. Đó là một trong
những nguyên nhân cơ bản làm cho các Đảng này mất vai trò lãnh đạo cách
mạng XHCN. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố quyết
định sự sống còn của Đảng Cộng sản gắn với sự thành bại của cách mạng vô
sản. Đảng nào phủ nhận xa rời, vi phạm đều dẫn tới chỗ giảm sút ý chí, phân
tán sức mạnh, phân liệt thậm chí tan rã.
3
4

V.I.Lênin, Toàn tập, tập14, Nxb. Tiến bộ, M. 1977, tr 163.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb. Tiến bộ, M. 1974, tr 286.


5
Đảng ta khẳng định: “chỉ có thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ mới có thể vừa chống được tập trung quan liêu, vừa chống được tình
trạng vô chính phủ và bè phái”5, và chỉ rõ: phủ nhận xa rời nguyên tắc tập
trung dân chủ là tự phá hoại sức mạnh về tổ chức, biến Đảng thành một câu
lạc bộ, mở đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái vô chính phủ đủ loại, dẫn đến
tan rã, thủ tiêu bản thân Đảng. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn là
điều kiện cơ bản để Đảng lãnh đạo quân đội, Đảng yêu cầu phải thường xuyên
kiên trì, giữ vững, thực hiện nghiêm, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Trong quá trình xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta “Kiên trì
nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm dân chủ và tập trung trong quá trình
hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chính sách, trong tổ

chức và hoạt động, làm cho Đảng vững mạnh về tổ chức, tạo khả năng
thường xuyên yêu cầu tự đổi mới, thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu”6, “vi phạm nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, đang
làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân”7
Để xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của công cuộc đổi mới, sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước; xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đòi hỏi phải tăng cường khối đoàn kết thống
nhất, phát huy truyền thống, ngăn chặn vô hiệu hoá sự phá hoại của kẻ thù
trên lĩnh vực tổ chức. Đảng ta xác định: giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình
và phê bình, kiên quyết đấu tranh phê phán với mọi quan điểm sai trái, thù
địch là một trong những vấn đề cơ bản cấp bách hiện nay.Tập trung dân chủ
là thuộc tính bản chất GCCN, Đảng được tổ chức trên nguyên tắc tập trung
dân chủ là tất yếu khách quan, nếu từ bỏ nguyên tắc này là sai lầm, là phi
khoa học, tức là từ bỏ bản chất GCCN của Đảng Cộng sản.

5
6
7

Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VII, Nxb Sư thật, H.1991, tr. 130.
Đảng Cộng sản Việt nam,Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VII, Nxb Sư thật, H.1991, tr. 14
Đảng Cộng sản Việt nam,Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VII, Nxb Sư thật, H.1991, tr. 15


6
Bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ còn là sự thống nhất giữa hai
thành tố tập trung và dân chủ, không có sự mâu thẫn đối lập nhau, hai thành
tố vừa làm tiền đề vừa làm điều kiện cho nhau không được coi nhẹ mặt nào.
Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung, dân chủ

phải có lãnh đạo, hai thành tố tập trung và dân chủ bổ sung cho nhau, tăng
cường tập trung trên cơ sở mở rộng phát huy dân chủ, còn dân chủ phải
hướng tới tăng cường của tập trung và chỉ có trên cơ sở thống nhất biện chứng
hai thành tố đó thì dân chủ trong Đảng mới càng phát triển và làm cho tập
trung dân chủ trong Đảng càng vững chắc, đồng thời chống những hiện tượng
tập trung quan liêu, dân chủ hình thức, chuyên quyền độc đoán, vô chính phủ,
tự do vô kỷ luật là trái bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khái quát mối quan hệ đó là: “tập trung trên nền dân chủ và dân
chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, tập trung và dân chủ luôn đi đôi với nhau”8, “
tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung, tập thể lãnh đạo
cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung”9 .
Tập trung trên nền tảng dân chủ là tập trung gắn với dân chủ, được
quyết định trên cơ sở dân chủ, để thực thi dân chủ, các cơ quan lãnh đạo của
Đảng đều do bầu cử dân chủ lập nên, quyền lực của cơ quan lãnh đạo là
quyền lực do đảng viên giao phó, do Đại hội, hội nghị của Đảng quyết định,
do đảng viên tập trung ý kiến, tổng hợp trí tuệ kinh nghiệm mà thành, đó
chính là sự tập trung do chính đảng viên lập nên, không phải do bất kỳ một ai
tự ý quyết định, là sự tập trung trên sự thống nhất ý chí và hành động, lợi ích
và trách nhiệm của đa số, được hình thành một cách tự giác, chứ không phải
là một thứ tập trung được thiết lập một cách hình thức cưỡng bức, hay tập
trung chỉ để phục vụ một nhóm người, một cá nhân, nó đối lập với tập trung
quan liêu độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực trấn áp cấp dưới, đe
doạ đảng viên và quan điểm thành phần trong Đảng.

8
9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H..2000, tr..240.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1996, tr. 554.



7
Tập trung trên cơ dân chủ được thể hiện trên mọi lĩnh vực, đó là sự
chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng, đòi hỏi tính tập trung cao độ là
tránh nhiệm rất cao của đảng viên. Nhưng nghị quyết của Đảng lại chính là
sản phẩm dân chủ của đảng viên, là kết quả của quá trình tham gia thảo luận
bàn bạc; là trí tuệ, ý chí của đảng viên, việc tuân thủ nghị quyết của đảng viên
chính là tuân thủ ý chí nguyện vọng của đảng viên, chính là tôn trong quyền
làm chủ của đảng viên. Trong thực hiện thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các chế độ ấy trên cơ sở thống
nhất cao độ về mục tiêu lợi ích, quyền lợi một cách nghiêm ngặt. Các cơ quan
lãnh đạo của Đảng có thẩm quyền ra chỉ thị, nghị quyết cho cấp dưới thực
hiện, kiểm tra đôn đốc, khen thưởng kỷ luật cấp dưới, nhưng các cơ quan đó
đều do bầu cử dân chủ lập ra, đại biểu cho trí tuệ và sức mạnh của đảng viên
đó không thể hiểu là tập trung quan liêu, duy ý chí, mà là thể hiện tập trung
gắn liền với dân chủ. Các cấp uỷ Đảng phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước
tổ chức đảng, gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình của cấp dưới thực
hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
Để hiểu sâu sắc hơn “dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung”, chúng
ta thấy rằng trong lịch sử xã hội loài người, từ khi có sự phân chia giai cấp
cho đến nay chưa bao giờ có dân chủ chung chung, dân chủ thuần tuý, dân
chủ vô bờ bến “Dân chủ là khát vọng của toàn nhân loại, nhưng trên con
đường vươn tới khát vọng đó nó bị chi phối bởi các đảng và mang dấu ấn của
điều kiện kinh tế - xã hội”10. V.I. Lê nin đã từng nói rằng: nếu không khinh
thường lẽ phải và không khinh thường lịch sử thì ai cũng thấy rõ chừng nào
còn có những giai cấp khác nhau thì không thể nói tới dân chủ thuần tuý, mà
chỉ có thể nói tới dân chủ có tính giai cấp. Cái thứ dân chủ thuần tuý, dân chủ
không bờ bến chẳng qua chỉ là một công thức rỗng tuếch; dân chủ tư sản là
một bước nhảy vượt bậc của nhân loại, nhưng tiếp sau đó là bước nhảy cao
hơn dân chủ tư sản, như vậy lịch sử đã chia dân chủ tư sản và dân chủ xã hội

chủ nghĩa chứ không phải chúng ta cứng nhắc chia ra. Dân chủ dưới sự chỉ
10

Nhị Lê - Lê Khả Thọ, Một Đảng lãnh đạo và Thực thi dân chủ, Tạp chí Cộng sản số 1.2005, tr.26


8
đạo của tập trung là dân chủ có mục đích, có định hướng, có lãnh đạo, có tổ
chức, hướng tới tập trung, bảo vệ và giữ gìn sự thống nhất trong Đảng, các
đảng viên được tôn trọng và được bảo vệ quyền bình đẳng trong bàn bạc, thảo
luận, quyết định các công việc của Đảng, nhưng phải trong khuôn khổ tổ
chức, phải chấp hành kỷ luật Đảng, phục tùng nghị quyết của Đảng. Cá nhân
phục tùng tổ chức, được tự do phát huy mọi sáng kiến, kinh nghiệm của mình,
nhưng phải nhằm tập trung trí tuệ, hành động thống nhất của toàn Đảng
hướng vào thực hiện mục tiêu, lý tưởng chung của Đảng. Trong điều 3, điều
lệ Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ các quyền của đảng viên, trên tinh thần đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến
của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ
của con người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý ”11. Vì thế, quyền thảo
luận và quyền tự do tư tưởng chính đáng, có nguyên tắc vừa là quyền lợi vừa là
nghĩa vụ của mỗi cán bộ đảng viên, nó đối lập với dân chủ tư sản, dân chủ cực
đoan, dân chủ vô chính phủ, dân chủ hình thức vì lợi ích cá nhân, bè phái, địa
phương chủ nghĩa, sẽ biến Đảng thành câu lạc bộ cãi vã suông, phân tán mất đoàn
kết.
Tập trung và dân chủ liên hệ ràng buộc với nhau, phụ thuộc nhau, thống
nhất với nhau, thành tố này lấy thành tố kia làm tiền đề tồn tại cho mình, hai thành
tố không tách rời nhau, nhờ tập trung mà thấy rõ giá trị dân chủ và ngược lại, tập
trung là tiền đề là điều kiện quy định tính chất của dân chủ cũng như dân chủ là

tiền đề, là điều kiện quy định trình độ tập trung. Dân chủ trong Đảng càng sâu
rộng thì sự thống nhất về ý chí và hành động càng cao, sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng càng bền chặt, sự tập trung càng được củng cố và phát triển không
ngừng và khi tập trung trong Đảng càng cao thì càng bảo đảm sự phát triển của
dân chủ và hiệu quả của dân chủ ngày càng sâu rộng. Như vậy, tập trung và dân
chủ luôn chế ước, điều chỉnh hoà quyện vào nhau, luôn tồn tại trong một chỉnh
11

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.1996, tr.554.


9
thể. Từ trong bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ đã loại bỏ hoàn toàn khuynh
hướng độc đoán, quan liêu, áp đặt, đồng thời cũng loại bỏ khuynh hướng vô chính
phủ, dân chủ cực đoan phá hoại sự đoàn kết thống nhất của Đảng, bản chất
nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi các tổ chức đảng trong quá trình thực hiện
nguyên tắc phải nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ tập trung và dân
chủ. Nhấn mạnh một chiều, tách rời tập trung và dân chủ hoặc phủ nhận bất kỳ
thành tố nào đều là trái với bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ.
Sự thống nhất giữa hai thành tố không phải là sự gán ghép chủ quan mà
được hình thành một cách khách quan do chúng đều có chung cơ sở kinh tế xã hội, đều thuộc bản chất GCCN, đều cần thiết cho sự tồn tại, hoạt động và
phát triển của Đảng, đều dựa trên sự thống nhất lợi ích chung của Đảng; có
những đặc trưng, yêu cầu giống nhau, có chung môi trường vận động đều là
phương thức thực hiện và bảo vệ quyền lợi của Đảng, GCCN, và chế độ
XHCN.
Bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng khác căn bản về chất
với tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán chuyên quyền, dân chủ có sự
lãnh đạo của tập trung khác với dân chủ vô chính phủ, dân chủ quá trớn, tự do
vô kỷ luật. Lê nin khẳng định mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ là một
sự kết hợp hài hoà, thống nhất chặt chẽ hữu cơ giữa hai mặt thống nhất chứ

không phải chỉ là tập trung hoặc dân chủ... tuyệt đối hoá một mặt nào cũng
đều dẫn đến sai lầm nguy hại ngay đến sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng
“chúng ta chủ trương theo chế độ tập trung dân chủ. Nhưng cần phải hiểu rõ
rằng chế độ tập trung dân chủ một mặt khác xa chế độ tập trung quan liêu
chủ nghĩa, mặt khác thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ ”12. Tập trung được
xây dựng trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu độc đoán.
Tập trung biểu hiện quyền lực của đa số với thiểu số, tập trung ý chí nguyện
vọng của toàn Đảng vào cơ quan lãnh đạo tối cao để đảm bảo sự thống nhất
cao về tư tưởng và hành động. Một “tổ chức bao giờ cũng cần có lãnh tụ,

12

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb. Tiến bộ M. 1977, tr. 185.


10
quần chúng dù là được giáo dục tốt nhất cũng cần có lãnh tụ”13, tính tập trung
của Đảng đòi hỏi Đảng phải có kỷ luật tự giác, nghiêm minh, được mọi đảng
viên thừa nhận và tuân thủ, việc chấp hành nghị quyết của Đảng là không điều
kiện, việc không chấp hành là sự cổ vũ cho sự vô chính phủ, vô tổ chức làm
suy yếu Đảng. Tập trung không tách rời dân chủ mà ngược lại nó bao hàm cả
dân chủ, “không được cấn đoán bất cứ ai mang đơn khiếu nại đến tận trung
ương. Đó là điều kiện cần thiết của nguyên tắc tập trung dân chủ”14. Bản chất
tập trung dân chủ được biểu hiện ở nội dung nguyên tắc được xác định trên
nhiều cấp độ khác nhau, trên cấp độ chung nhất là tập trung dân chủ về trí tuệ,
về quyền lực, về hoạt động, về lợi ích. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do
bầu cử dân chủ lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Cơ quan
lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc, cơ quan lãnh đạo ở
mỗi cấp là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên, giữa hai kỳ Đại hội cơ quan
lãnh đạo của Đảng là ban chấp hành Trung ương, mỗi cấp là ban chấp hành đảng

bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ). Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt
động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định
kỳ thông báo hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự
phê bình và phê bình. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của
Đảng, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng
tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội Đại biểu toàn quốc và
Ban chấp hành Trung ương. Nghị quyết của các cơ quan lãnh của Đảng chỉ có
giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành,
trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình, đảng viên
có ý kiến thuộc về thiểu số, được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó, không phân biệt đối sử với đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền
13
14

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 28, Nxb. Tiến bộ M. 1981, tr.709.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 7, Nxb M.1979, tr.357.


11
hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Nhưng nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ không cố định, bất
biến mà được phát triển, cụ thể hoá phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn
cách mạng, Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập
trung dân chủ được quy định trong chương II, điều 9, điều lệ Đảng cộng sản
Việt Nam do Đại hội X thông qua, trong đó đã kế thừa các quy định của điều
lệ Đảng khoá trước, một cách đầy đủ hoàn chỉnh, thể hiện sâu sắc bản chất

nguyên tắc, những nội dung ghi trong điều lệ còn tiếp tục được cụ thể hoá
trong các chỉ thị, quy định của các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Từ khi mới ra đời và cho đến nay chủ nghĩa Mác - Lên nin luôn là đối
tượng phê phán xuyên tạc của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản. Các nhà tư
tưởng tư sản chống cộng tập trung vào nhiều vấn đề nhằm xoá bỏ nền tảng tư
tưởng, làm tan rã Đảng Cộng sản và CNXH, chống lại phong trào cách mạng
thế giới. Đặc biệt những thế kỷ qua và hiện nay, các nhà tư tưởng chống cộng
liên tục tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tìm mọi cách phủ nhận
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức xây dựng và
hoạt động của Đảng, nhằm phá vỡ sự đoàn kết thống nhất, làm phân liệt, tan
rã Đảng về mặt tổ chức.
Biết rõ sức mạnh của nguyên tắc tập trung dân chủ của các Đảng Cộng
sản, các thế lực thù địch về chính trị tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để xuyên tạc
nguyên tắc này. Họ cho rằng, tập trung dân chủ chỉ là một chế độ tập quyền,
độc đoán bảo thủ, bóp méo dân chủ, kìm hãm tư duy sáng tạo, biến Đảng
thành người máy; họ ra sức tán dương dân chủ tự do, dân chủ vô hạn độ, dân
chủ cực đoan; ủng hộ trong Đảng có nhiều phe nhóm đối lập. Sử dụng triệt để
chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên”, để cổ vũ cho những ai bất đồng ý kiến, rồi
lợi dụng để chia rẽ Đảng. Ngay trong nội bộ Đảng cũng có những kẻ phản bội
lý tưởng, cơ hội, hữu khuynh, phê phán xét lại thậm chí còn muốn tìm cách
xoá bỏ nguyên tắc này: Họ cố tình tỏ ra không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc


12
bản chất của nguyên tắc, họ dẫn ra những sai lầm, quan liêu, độc đoán mất
dân chủ của một số người trong bộ máy của Đảng để chứng minh cho việc
cần phải thay nguyên tắc tập trung dân chủ; một số cán bộ, đảng viên hiểu
rằng khi tập trung thì không còn dân chủ và đã dân chủ thì không cần đến tập
trung, rằng tập trung càng cao thì dân chủ càng giảm, muốn tăng cường dân
chủ thì phải giảm bớt tập trung.

Một số quan điểm sai trái khác lập luận rằng tập trung dân chủ là sự
thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập, là sự gán ghép giữa hai thành tố
tập trung và dân chủ, sự gán ghép này luôn tạo ra xu hướng triệt tiêu lẫn nhau,
dẫn đến nếu tăng cường tập trung thì tất yếu thu hẹp và triệt tiêu dân chủ, cho
nên đã tập trung thì phải từ bỏ dân chủ, nếu thực hiện dân chủ thì phải từ bỏ
tập trung, còn giữ lại nguyên tắc tập trung dân chủ thì bản chất của nó là
không thể khắc phục được tệ độc đoán, gia trưởng, quan liêu... Việc chia cắt
nguyên tắc vốn thống nhất, hoặc đem dân chủ đối lập với tập trung là không
hiểu đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; quan điểm sai trái còn cho rằng tập
trung là danh từ, còn dân chủ chỉ là tính từ chỉ là cái bổ nghĩa cho tập trung
làm cho tập trung bớt cứng đi và chỉ để làm rõ thuộc tính tập trung, nên về
thực chất đó chính là nguyên tắc tập trung; quan điểm sai trái khác cho rằng
bản chất gốc rễ của tập trung dân chủ là tập trung quan liêu, vì tập trung là
mục đích còn dân chủ chỉ là phương tiện, có rất nhiều phương tiện để thực
hiện mục đích, thành ra dân chủ chỉ là một loại phương tiện. Rõ ràng, họ đã
tìm mọi cách để tầm thường hoá dân chủ, mưu đồ để phá hoại, rồi đến từ bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quan điểm cho rằng nên thay nguyên tắc tập trung dân chủ thành
nguyên tắc dân chủ tập trung là để chuyển dân chủ thành mục đích còn tập trung
là phương tiện, để dân chủ thành danh từ còn tập trung là tính từ, họ còn dẫn
chứng rằng ngay trong bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các văn kiện của
Người số lần dùng cụm từ “dân chủ tập trung” nhiều hơn rất nhiều dùng cụm từ
“tập trung dân chủ”, điều đó thể hiện bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ


13
tập trung chứ không phải là tập trung dân chủ. Ý đồ tư tưởng này cũng chỉ là
biểu hiện của tư tưởng đòi xét lại, hoài nghi dao động mà thôi. Nếu căn cứ vào
lịch sử thì những bút tích của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng ngôn ngữ tiếng Hán
và một số ngôn ngữ khác, tức là tính từ nói trước danh từ. Do đó, trong tư tưởng

Hồ Chí Minh dân chủ tập trung với tập trung dân chủ là một, tức là dân chủ có
tập trung, có lãnh đạo không phải dân chủ vô chính phủ.
Để phê phán các quan điểm sai trái trên cần phải hiểu một số điểm sau:
khi nói đến tập trung thì bao giờ cũng có hai trường hợp tập trung trên cơ sở
dân chủ hoặc tập trung dân phi dân chủ, tập trung quan liêu; còn khi nói dân
chủ thì cũng như vậy, với hai trường hợp là dân chủ hướng tới tập trung hoặc
dân chủ hướng tới phá vỡ tập trung, dân chủ vô chính phủ. Những vấn đề này
khẳng định tập trung trên cơ sở dân chủ không bao giờ thống nhất với tập
trung phi dân chủ, nếu tập trung trên cơ sở dân chủ phát triển thì tập trung phi
chính phủ bị đẩy lùi và ngược lại; còn dân chủ hướng tới tập trung cũng
không bao giờ thống nhất với dân chủ phá vỡ tập trung, nếu dân chủ hướng
tới tập trung mà phát triển thì dân chủ phá vỡ tập trung bị thu hẹp và ngược
lại. Do đó, phải đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái về bản chất của
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hiện nay cũng cần phải cảnh giác và đấu tranh chống lại ảnh hưởng
tiêu cực của nền kinh tế thị trường vào xây dựng Đảng và thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ. Đó là, những tác động của “nguyên tắc cầu lợi”,
“nguyên tắc trao đổi ngang giá”, “nguyên tắc mở cửa” trong nền kinh tế thị
trường đã và đang ngấm vào trong Đảng; những tư tưởng hủ bại, quan niệm
giá trị sai lầm của giai cấp tư sản đã không ngừng xâm nhập vào đội ngũ đảng
viên, đang tạo tư tưởng thực dụng sùng bái đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, họ
đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, lợi ích của Đảng. Họ dùng quyền
lực trong tay để độc đoán gia trưởng, dân chủ hình thức để tiến hành trao đổi
quyền, tiền, tham ô, chiếm đoạt tài sản tập thể. Từ đòi hỏi có quyền tự chủ
trong kinh doanh và phát triển trong kinh tế thị trường để chạy theo lợi nhuận


14
tối đa là mục tiêu phấn đấu của mình, nên khi chấp hành đường lối chính sách
của Đảng đã có hiện tượng “phép vua thua lệ làng”, đôi khi còn hiện tượng

“trên bảo dưới không nghe” đã tác động lớn đến nhận thức và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Đảng ta kiên quyết phê phán việc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân
chủ, Đảng coi nguyên tắc tập trung dân chủ “là nguyên tắc tổ chức cơ bản,
phân biệt chính Đảng kiểu mới của GCCN, đảng cách mạng chân chính với
các đảng khác, phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất”15.
Kinh nghiệm phong trào cộng sản và công nhân thế giới trước đây, ở Liên Xô
và Đông Âu vừa qua cho thấy: những kẻ phản bội Đảng đều bắt đầu tìm cách
phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ chức và hoạt động
của Đảng để tiến tới phủ nhận Đảng Cộng sản.
Từ sự tan rã của các Đảng Cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô, giờ đây ta
phải thừa nhận một thực tế đau xót, như nghị quyết TW3 (Khoá VII) chỉ ra
rằng: ý tưởng cải cách, cải tổ là đúng nhưng đường lối chính trị, giải pháp
bước đi của các Đảng đó là sai lầm, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, quan
liêu xa rời quần chúng, sai lầm trong công tác cán bộ (đặc biệt là cán bộ chủ
chốt), có một bộ phận cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền đã
không giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng. Họ thoái hoá biến chất, phạm
vào tham nhũng quan liêu, hách dịch, xa dân, bị quần chúng oán ghét và chính
trong số họ đã tìm cách phê phán hoặc từ bỏ những nguyên tắc cơ bản trong
đó có nguyên tắc tập trung dân chủ.
Ở nước ta sau chiến thắng chủ nghĩa thực dân mới, thống nhất Tổ
quốc, Đại hội V của Đảng đã nhận định tình hình xa sút phẩm chất, giảm sút ý
chí chiến đấu ở một bộ phận cán bộ đảng viên là: “nhiều người từ sai lầm trong
sinh hoạt, quan liêu trong đấu tranh, đã đi đến chỗ biến chất trong lối sống,
thoái hoá về chính trị”16, đến Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhận định: “Một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng,
15
16

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VII, Nxb ST, H.1991, tr.30

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ V, Tập 3, Nxb ST, H.1982, tr.25


15
mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, xa đoạ về đạo đức lối
sống. Một số cán bộ thoái hoá về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ
gây hậu quả hết sức nghiêm trọng”17, Hội nghị TW6 (lần 2) khoá VIII nhấn
mạnh trong Đảng còn có “việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không
nghiêm”, một số cán bộ chủ chốt gia trưởng, độc đoán, địa vị kèn cựa, việc giải
quyết các mối quan hệ chưa tốt, trong hội nghị nhất trí ngoài lại tỏ thái độ không
đồng tình, khi đương nhiệm không nói, nhiều nơi còn lấy cớ tập trung dân chủ
không dám quyết đoán, có nơi lại nhân danh cấp uỷ ra nghị quyết sai trái. Đến
Đại hội IX tiếp tục khẳng định rõ hơn là: “Việt tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ
trương chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật kỷ cương chưa nghiêm, tình trạng
tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành
chỉ thị nghị quyết của Đảng, pháp luật chính sách của nhà nước, báo cáo không
trung thực, làm cho nghị quyết của Đảng khó vào cuộc sống”18, và Đại hội X
“chưa thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Chậm xây
dựng, hoàn thiện tổ chức và cơ chế giám sát trong Đảng và trong hệ thống
chính trị, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và cán bộ, đảng
viên. Còn thiếu những qui chế cụ thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng
đắn nguyên tắc tập trung dân chủ…hoặc dân chủ hình thức”19. Đặc biệt, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên chỉ rõ: “Nhiều cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ chưa thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng”20.
Còn tình trạng trên là do nguyên nhân khách quan từ tư tưởng phong
kiến lạc hậu, tư tưởng tiểu nông nền sản xuất nhỏ, vẫn còn ăn sâu bám rễ
trong xã hội; cũng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và từ mặt trái của nền
kinh tế thị trường tác động. Trong tổ chức bộ máy và cơ chế chưa thật chặt

chẽ, thống nhất, hợp lý; một số chính sách vẫn còn bất cập; sự tan rã của Liên
17
18
19
20

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.137
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr 76.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr 270.
Thông báo Hội nghị lần thứ 6 BCHTW Đảng khoá X, Tạp chí Xây dựng Đảng số 2+3/2008, tr 121.


16
Xô và các nước XHCN Đông Âu và ảnh hưởng của những tư tưởng tư sản,
thủ đoạn tuyên truyền của các thế lực thù địch chống phá Đảng và chế độ
XHCN làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên dao động niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng và sự thắng lợi của CNXH. Nhưng nguyên nhân chủ quan là
chủ yếu vì nhiều cán bộ đảng viên đã hiểu không đúng và chưa thống nhất về
bản chất, nội dung, vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ nên tách rời, hoặc
nhấn mạnh một chiều, giản đơn phiến diện; không nghiên cứu tổng kết thực
tiễn nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thường xuyên; xây dựng và hướng
dẫn thực hiện quy chế chậm, thiếu cụ thể nên hiểu chưa thống nhất; chủ nghĩa
cá nhân ích kỷ, vụ lợi phát triển đã làm giảm ý thức đấu tranh bảo vệ chân lý,
dẫn đến dĩ hoà vĩ quý, không dám đấu tranh với những sai trái của cán bộ chủ
trì có chức có quyền; chưa có cơ chế đồng bộ cụ thể, bảo vệ những người
thẳng thắn, bị trù dập; công tác giám sát kiểm tra ở nhiều cấp chưa đúng mức,
chưa xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm; việc phát huy vai trò của
nhân dân trong kiểm tra, giám sát chưa sâu rộng, chưa quan tâm đúng mức;
năng lực tổ chức thực tiễn và công tác cán bộ còn yếu kém.
Những vấn đề trên trong Đảng bộ quân đội đều có biểu hiện nhưng ở

những mức độ khác nhau như: giải quyết mối quan hệ giữa bí thư, thường vụ
với chỉ huy chưa tốt; thường bí thư, chỉ huy lâu dẫn đến chuyên quyền, gia
trưởng; quan hệ cấp trên cấp dưới chưa chặt chẽ còn quan liêu, áp đặt; cán bộ
chỉ hướng lên trên tìm cách đối phó và giải quyết mối quan hệ với trên, ít
quan tâm đến cấp dưới; chưa phát huy sức mạnh tập thể, tính chiến đấu trong
sinh hoạt chưa cao, nghị quyết thiếu cụ thể, tính khả thi kém, nội bộ chưa
đoàn kết, có nơi mất đoàn kết kéo dài; một bộ phận cán bộ, đảng viên dĩ hoà
vĩ quý, chấp hành pháp luật chưa tốt.
Trước sự tăng cường chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch đối với Đảng và lực lượng vũ trang, Đảng ta cảnh báo bốn nguy cơ
vẫn tiếp tục tồn tại, đan xen tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự nghiệp quốc
phòng an ninh; các lực lượng phản động và thù địch sử dụng nhiều biện pháp


17
chống phá Đảng về tổ chức, trước hết là phủ nhận, vô hiệu hoá nguyên tắc tập
trung dân chủ, chúng ra sức tuyên truyền sự sụp ở Đông Âu và Liên Xô là do
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ coi dân chủ là tính từ, là phương
tiện để tập trung thực chất là độc đoán chuyên quyền, mất dân chủ. Chúng ra
sức khuếch trương ca ngợi tự do tuyệt đối kiểu CNTB, dùng con bài “dân
chủ”, “nhân quyền” để đòi hỏi Đảng mở rộng dân chủ tự do vô giới hạn, để
tạo điều kiện cho bọn phá hoại mặc sức chống phá, chúng kêu gọi phải “đa
nguyên”, “đa đảng”, chia rẽ Đảng với nhà nước và nhân dân; đối với quân đội
chúng tìm mọi cách mua chuộc, cài cắm lực lượng để phá hoại nội bộ, thực
hiện “phi chính trị hoá” quân đội, nhằm làm mất bản chất GCCN, chuyển hoá
bản chất giai cấp của quân đội; sự chống phá của kẻ thù hiện nay đối với cách
mạng nước ta, với nguyên tắc tập trung dân chủ còn là sự kết hợp với quá
trình từng bước áp đặt những giá trị tự do kiểu TBCN trên thế giới.
Trước sự tác động trực tiếp mặt trái của cơ chế thị trường, sự biến
động cơ cấu giai cấp, mở cửa hội nhập, sự vận động biến đổi các chuẩn giá

trị có nhiều tác động tiêu cực đến thực hiện nguyên tắc, nhất là tư tưởng
quyền lực, thực dụng, cơ hội bè phái đang có chiều hướng phát triển, cộng
hưởng với tàn dư tâm lý, tập quán, tác phong của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, lối tư duy sản xuất nhỏ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến động cơ,
nhận thức, hành động, phong cách trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt
động của tổ chức Đảng trong quân đội.
Hiện nay, vẫn còn không ít người trong đội ngũ cán bộ đảng viên
trong quân đội đã nhận thức mơ hồ về bản chất của tập trung dân chủ, về vai
trò nội dung của nguyên tắc này. Quân đội là lực lượng nòng cốt trong xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân; trong bảo vệ Tổ
quốc XHCN, bảo vệ Đảng, nhân dân và chế độ XHCN. Từ công cuộc CNH HĐH đất nước; phương hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ từng bước hiện đại đang đặt ra cho quân đội nhiệm vụ nặng nề, đa dạng,
phức tạp, biến động và thường xuyên phát triển, đặt ra nhiều vấn đề mới đối


18
với sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Là một bộ phận của Đảng, tổ chức đảng trong quân đội tất yếu phải thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt, hoạt động của mình,
nắm vững bản chất của nguyên tắc này là yêu cầu khách quan, những nội dung
trong điều lệ Đảng là cái chung nhất, cái phổ biến, mọi tổ chức trong quân đội
phải tuân thủ, song các tổ chức trong quân đội lại có những đặc điểm riêng về
nhiệm vụ, về đối tượng lãnh đạo, điều kiện hoạt động. Sức sống, giá trị của
nguyên tắc chính ở sự nắm vững bản chất nội dung và cụ thể hoá nội dung, vận
dụng đúng đắn sáng tạo những nội dung cơ bản của nguyên tắc đã được điều lệ
Đảng xác định, các quy định của tổ chức đảng cấp trên vào điều kiện cụ thể tổ
chức đảng, vì vậy quá trình thực hiện phải cụ thể hoá những nội dung yêu cầu của
nguyên tắc thành các quy định, quy chế về chế độ sinh hoạt, hoạt động thành trách
nhiệm quyền hạn, của từng tổ chức đảng, đảng viên, chức trách, các mối quan hệ

cụ thể phù hợp với chức năng nhiệm vụ, tình hình cụ thể ở từng tổ chức đảng.
Như vậy, rõ ràng trong tình hình hiện nay, tổ chức đảng trong quân đội
phải nắm vững bản chất nội dung, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung
dân chủ. Mở rộng dân chủ, phát huy mạnh mẽ dân chủ trong tổ chức đảng,
cần phải “nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ;
đồng thời có cơ chế thực hiện những nội dung đó”21, vì dân chủ là bản chất, là
nội dung, là động lực của xã hội mới, đồng thời phải giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, tính tập trung cao.
Bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nâng cao phẩm chất, năng lực mọi mặt cho cán bộ đảng viên, cấp uỷ các cấp.
Quán triệt cho cán bộ đảng viên nhận thức đầy đủ, thống nhất về nguyên tắc
tập trung dân chủ, đặc biệt nắm vững bản chất, nội dung, vai trò, mối quan hệ
biện chứng giữa tập trung và dân chủ, gắn với liên hệ kiểm điểm về nhận thức
và thực hiện nguyên tắc này. Cần phải tiếp tục cụ thể hoá nội dung yêu cầu

21

Báo cáo xây dựng Đảng và Điều lệ Đảng Đại hội VII, Nxb Sự thật, H.1991, tr.11


19
của nguyên tắc thành chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ,
chế độ công tác của từng cán bộ đảng viên, của từng cấp uỷ.
Kinh nghiệm hoạt động của Đảng ta chỉ rõ: “để thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ , phải nhận thức đúng và thống nhất nội dung bản chất
của tập trung dân chủ, mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân
chủ”22. Nắm vững vai trò, nội dung, bản chất của nguyên tắc là cơ sở để nhận
thức và thực hiện đúng, tránh được sai lầm khuyết điểm, là cơ sở để nhận
dạng phân biệt đúng sai, lệch lạc, những biến dạng của nguyên tắc tập trung
dân chủ. Phải tổ chức học tập nắm vững vai trò, nội dung, bản chất, nắm vững

điều lệ Đảng, các quy định về tổ chức, cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quân
đội, các chỉ thị hướng dẫn của trên về thực hiện nguyên tắc.
Chất lượng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ được nâng cao
trên cơ sở thống nhất về chính trị, tư tưởng, với nền tảng tư tưởng là chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ở thái độ trách nhiệm chính trị, ở
lối sống trong sạch lành mạnh, tự giác chấp hành kỷ luật, chấp hành nghị
quyết Đảng, tích cực chống tư tưởng thực dụng cơ hội, tham nhũng, đặc
quyền đặc lợi, thiếu tôn trọng, cố tình làm sai nghị quyết, vi phạm các điều
cấm, quan liêu xa rời quần chúng.
Nắm vững tinh thần nghị quyết TW6 (lần 2) Khoá VIII, để khắc phục
nhận thức về bản chất, nội dung nguyên tắc chưa đầy đủ, thống nhất; nhận
thức về quyền hạn nghĩa vụ chưa sâu sắc, tính tự giác và tính chủ động chưa
cao dẫn đến lời nói, việc làm trái nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần phải định
kỳ, thường xuyên tiến hành kiểm điểm việc nhận thức và thực hiện của cấp
uỷ, đảng viên thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong quá trình kiểm
điểm phải chỉ rõ được kết quả, thành tựu, những hạn chế khuyết điểm, đối với
tập thể cá nhân vi phạm, nguyên nhân xác định biện pháp khắc phục hạn chế
khuyết điểm. Đối với tập thể, cá nhân vi phạm nguyên tắc phải kiên quyết xử
lý nghiêm minh, thường xuyên chấn chỉnh tổ chức, kịp thời kiện toàn cán bộ
lãnh đạo chỉ huy các cấp.
22

Đảng cộng sản Việt Nam, Báo tổng kết xây dựng Đảng thời kỳ 1975-1995, Nxb CTQG, H.1996, tr169


20
Tiếp tục thực hiện NQ79/ĐUQSTW để xây dựng, ban hành các quy
định, quy chế chặt chẽ khoa học, nhằm cụ thể hoá hơn nữa các nội dung
nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là bảo đảm tập thể lãnh đạo cá nhân phụ
trách. Xây dựng, ban hành các quy định nhằm cụ thể hoá nguyên tắc tập thể

lãnh đạo cá nhân phụ trách, xác định rõ nhiệm vụ chức trách của lãnh đạo chỉ
huy các cấp, có quy định cụ thể hơn về thiểu số phục tùng đa số. Thực hiện
nghiêm túc chế độ bảo lưu ý kiến khiếu nại của đảng viên. Từ sau
NQ79/ĐUQSTƯ việc xây dựng quy chế đã được triển khai đi vào nề nếp, nội
dung quy chế ngày càng chặt chẽ, sát tình hình cụ thể của đảng bộ từng đơn
vị. Qua thực tế cho thấy đây là biện pháp quan trọng không thể thiếu để nâng
cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đã giải quyết
được các mối quan hệ trong tổ đảng, cấp uỷ, chỉ huy, cấp dưới cấp trên, cá
nhân tổ chức. Vai trò quan trọng của quy chế đã được Đại hội đại biểu Đảng
bộ quân đội lần thứ VII khẳng định: “Xây dựng hệ thống quy chế, quy định,
tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc lãnh đạo của Đảng vào hoạt động thực tiễn,
bảo đảm được sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng trong
mọi lĩnh vực hoạt động; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại”23, trong phần phương hướng nghị quyết cũng xác định:
“thực hiện làm việc có kế hoạch, theo quy chế và sát cơ sở”24
Để cho các quy chế thực sự đi vào cuộc sống, có hiệu lực hiệu quả đòi
hỏi phải tiếp tục cụ thể hoá hơn nữa về chức năng nhiệm vụ, phương thức tổ
chức hoạt động của các cấp uỷ đảng phù hợp với tổ chức biên chế, nhiệm vụ
của từng loại tổ chức đảng. Xác định rõ nhiệm vụ, chức trách của chỉ huy các
cấp, có quy định cụ thể thiểu số phục tùng đa số, có chương trình kế hoạch để
tăng cường công tác kiểm tra cấp trên và cấp dưới, thực hiện nghiêm chế độ
báo cáo xin ý kiến, và giải quyết khiếu nại của đảng viên, từng bước hoàn
thiện quy chế về công tác cán bộ, có quy định rõ chế độ cán bộ đi cơ sở để chỉ
đạo tại chỗ, giúp cấp dưới tháo gỡ khó khăn.
23
24

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quân lần thứ VII, 2001, tr.32
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quân lần thứ VII, 2001, tr.37



21
Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng, duy trì nề nếp chế
độ tự phê bình và phê bình, thực hành dân chủ đầy đủ trong sinh hoạt Đảng,
tăng cường công tác kiểm tra thực hiện điều lệ Đảng, chỉ thị nghị quyết và các
quy định, quy chế hoạt động của tổ chức đảng: Giữ vững, tăng cường và nâng
cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng, phải thực hiện đầy đủ dân chủ
trong sinh hoạt, để mọi thành viên tham gia ý kiến trên tinh thần thẳng thắn,
các đề án, chủ trương biện pháp phải được thảo luận kỹ. Thực hiện nghiêm
túc có nề nếp, chất lượng chế độ phê bình và tự phê bình, bí thư và người chỉ
huy phải thực sự gương mẫu, chí công vô tư nghiêm túc trong tự phê bình,
phát huy dân chủ và có quy định phù hợp bắt buộc phải dân chủ lấy ý kiến
quần chúng đánh giá phê bình cán bộ đảng viên, có quy chế thật cụ thể để bảo
vệ những người có ý kiến thẳng thắn, đồng thời xử lý nghiêm minh những
đảng viên lợi dụng phê bình để vu cáo đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Đảng
viên cán bộ phải giữ gìn đoàn kết thống nhất trên cơ sở đường lối, nguyên tắc
và tình yêu thương đồng chí, phải bố trí đúng cán bộ chủ trì.
Thường xuyên tiến hành làm tốt công tác kiểm tra, thực hiện đúng điều
lệ Đảng, các nghị quyết chỉ thị và các quy chế, quy định hoạt động của cấp
uỷ, tổ chức đảng; đặc biệt là kiểm tra thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,
kịp thời phát hiện những vấn đề đúng sai, chấn chỉnh và xử lý kịp thời.
Đề cao tính Đảng, trách nhiệm của từng cán bộ đảng viên trong xây
dựng tổ đảng và thực hiện các chức trách nhiệm vụ được giao; thực hiện
nghiêm túc và có hiệu quả nghị quyết 51/BCT về việc tiếp tục hoàn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với việc thực
hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nhân dân Việt nam; có quy
chế quản lý chặt chẽ cán bộ đảng viên trong đơn vị, khi đi công tác và ở nơi
cư trú. Đặc biệt là cán bộ chủ trì, cán bộ đảng viên trực tiếp quản lý vật tư, tài
sản, tài chính của cơ quan, đơn vị.
Mở rộng dân chủ phải đi đôi thực hiện tập trung thống nhất, đề cao kỷ

cương, kỷ luật. Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống trong nhận thức cũng như


22
trong hành động. Mọi hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành nghị
quyết, gây chia rẽ bè phái đều phải xử lý nghiêm minh, mọi sự năng động
sáng tạo, phải đúng đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn cho thấy nếu ở đâu tập trung và dân chủ không đi đôi với nhau thì
ở đó xuất hiện tập trung quan liêu, hoặc dân chủ quá trớn, những hiện tượng
độc đoán, chuyên quyền, nạn ô dù, bè cánh, trù úm có cơ hội phát triển, có
biểu hiện trong hội nghị không dám nói ngoài hội nghị tuyên truyền quan
điểm riêng. Đó là những trở ngại lớn phát triển dân chủ trong Đảng, dân chủ
bị biến dạng thành dân chủ hình thức. Tập trung quan liêu, tham ô là bạn đồng
hành tạo nên sự e dè nể nang, né tránh sợ nói sự thật, chất lượng thực hiện tập
trung dân chủ chính là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp, một cuộc đấu
tranh vừa phải xây dựng nhận thức và hành động đúng, vừa phải kiên quyết
đấu tranh phê phán loại bỏ, đề phòng các khuynh hướng lệch lạc, sai lầm.
Muốn xây thì phải chống, chống cũng là để xây, hai mặt không thể tách rời.
Nâng cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh với âm mưu thủ đoạn
xuyên tạc phủ nhận của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch với nguyên
tắc tập trung dân chủ và khắc phục những hiện tượng sai trái trong nội bộ:
Đảng ta là Đảng cầm quyền các vị trí lãnh đạo, chỉ huy do đảng viên nắm giữ
nếu không thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, người đảng viên sẽ say mê
quyền lực, giữ quyền lực bằng mọi giá, lợi dụng quyền lực dễ làm điều sai
trái, đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay tình trạng chạy chức,
chạy quyền, chạy lợi có chiều hướng gia tăng như báo cáo của Bộ Chính trị
tại hội nghị TW6 (lần 2) Khoá VIII.
Chủ nghĩa đế quốc điên cuồng chống phá cách mạng nước ta, chúng
không từ một thủ đoạn thâm độc nào để đạt được mục đích xoá bỏ sự lãnh
đạo của Đảng, phi chính trị hoá quân đội, chúng dùng chiến lược “diễn biến

hoà bình” với nhiều thủ đoạn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực lý
luận, chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,


23
nguyên tắc tập trung dân chủ, tuyên truyền các giá trị của giai cấp tư sản, của
CNTB.
Trong thời quá độ lên CNXH, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực
kinh tế. Tuy nhiên mặt trái của nó là làm khoảng cách giầu nghèo trong xã hội
tăng lên, cơ cấu giai cấp không còn như trước, trong xã hội xuất hiện tầng lớp
tư sản, ông chủ... Vì vậy, tư tưởng tư sản và một số tư tưởng phi vô sản khác
sẽ có đất để tồn tại. Điều này có ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng tâm lý xã
hội và ngay cả một số đảng viên trong quân đội đang mơ hồ mất cảnh giác.
Những cơ sở trên là mãnh đất mầu mở cho tư tưởng cơ hội, chủ nghĩa cá nhân
trong Đảng phát triển, dễ làm cho một số tổ chức đảng suy yếu cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức sẽ làm cho uy tín của Đảng bị giảm sút... Những kẻ cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân không đủ tiêu chuẩn đảng viên cả về chính trị và đạo
đức cần phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng.
Đồng thời, tích cực đấu tranh với những nhận thức lệch lạc, quan điểm
sai trái thù địch, mọi biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào
CNXH, vào sự lãnh đạo của Đảng; luôn tự phê bình, phê bình và giữ nghiêm
kỷ luật của Đảng, không vi phạm những điều cấm do Bộ Chính trị và Đảng uỷ
quân sự Trung ương ban hành về những điều đảng viên không được làm.
Như vậy, từ chính lý luận và thực tiễn cho thấy không nhận thức đúng
bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, từ bỏ phủ nhận nguyên tắc
là từ bỏ phủ nhận Đảng từ bản chất, làm tan rã Đảng, tan rã CNXH, Đảng
không thể lãnh đạo quân đội tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; xây dựng tổ chức
chặt chẽ tập trung thống nhất, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Không thể
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,

mang bản chất giai cấp công nhân.



×