Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Ước lượng mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------

NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

ƯỚC LƯỢNG MỨC ĐỘ TRUYỀN DẪN
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN CÁC CHỈ SỐ GIÁ
TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------

NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

ƯỚC LƯỢNG MỨC ĐỘ TRUYỀN DẪN
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN CÁC CHỈ SỐ GIÁ
TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA



TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến người hướng dẫn khoa
học, PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa, về những ý kiến đóng góp, những chỉ dẫn có
giá trị giúp tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin gửi lời cám ơn đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã hết lòng
ủng hộ và động viên tác giả trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.

Tp. Hồ Chí Minh,ngày 20 tháng 9 năm 2013
Học viên

Nguyễn Thị Lan Phương


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả với sự
giúp đỡ của Giáo viên hướng dẫn và những người mà tác giả đã cảm ơn. Số liệu
thống kê được lấy từ nguồn đáng tin cậy, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận
văn này chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện
nay.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Thị Lan Phương


MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ ................................................................ i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. ii
TÓM TẮT ................................................................................................................. iii
1. GIỚI THIỆU ............................................................................................................. 1
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ................................................. 5
2.1 Các nghiên cứu về cơ chế tác động của tỷ giá hối đoái đến giá cả ........................ 5
2.2 Các nghiên cứu giải thích ERPT chưa đầy đủ ...................................................... 7
2.3 Các nghiên cứu về vai trò của chính sách tiền tệ và ERPT ................................... 8
2.4 Các nghiên cứu về độ mở cửa thương mại và ERPT ............................................ 9
2.5 Các nghiên cứu về mức độ chịu tác động của các chỉ số giá và ERPT.................. 10
2.6 Các nghiên cứu về lạm phát và ERPT .................................................................. 13
2.7 Các nghiên cứu về ERPT tại Việt Nam ................................................................ 14
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................................................. 17
3.1 Các bước thực hiện .............................................................................................. 17
3.2 Mô hình nghiên cứu ............................................................................................. 17
3.2.1 Mô hình nghiên cứu cơ sở................................................................................. 17
3.2.2 Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 20
3.2.2.1 Mô tả các biến của mô hình ........................................................................... 20
3.2.2.2 Mô hình nghiên cứu ....................................................................................... 24
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................................ 28
4.1 Tính dừng ............................................................................................................ 28
4.2 Chọn độ trễ cho các biến trong mô hình ............................................................... 31
4.3 Phân tích phản ứng xung...................................................................................... 31
4.4 Kiểm định Robustness ......................................................................................... 34
4.4.1 Kết quả kiểm định mô hình cơ sở...................................................................... 35
4.4.2 Kết quả kiểm định mô hình thay thế thứ nhất .................................................... 35
4.4.3 Kết quả kiểm định mô hình thay thế thứ hai ...................................................... 36
4.5 Phân rã phương sai .............................................................................................. 36

5. KẾT LUẬN ............................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ............................................................... 29
Bảng 4.2 Độ trễ tối ưu cho mô hình VAR .................................................................. 31
Bảng 4.3 Kết quả hàm phản ứng xung của các chỉ số giá với cú sốc 1% từ NEER ..... 32
Bảng 4.4 Kết quả phân rã phương sai mức giải thích của các biến đến sự thay đổi
CPI ............................................................................................................................ 37
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1 Các kênh truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát ................ 2
Hình 2.1 Biểu đồ mô tả của Lafleche (1996).............................................................. 6
Hình 4.1 Kết quả phân tích phản ứng xung của các chỉ số giá với cú sốc 1% từ
NEER (mô hình cơ sở) .............................................................................................. 33
Hình 4.2 Kết quả phân tích phản ứng xung của các chỉ số giá với cú sốc 1% từ
NEER (mô hình thay thế thứ nhất)............................................................................. 35
Hình 4.3 Kết quả phân tích phản ứng xung của các chỉ số giá với cú sốc 1% từ
NEER (mô hình thay thế thứ hai) .............................................................................. 36
Hình 4.4 Mức độ tác động của các biến trong mô hình đến sự thay đổi của CPI ........ 38


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADF

Augmented Dickey Fuller

CPI


Chỉ số giá tiêu dùng

ERPT

Exchange Rate Pass Through – Truyền dẫn tỷ giá hối đoái

GDP

Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm nội địa

GSO

Tổng cục thống kê Việt Nam

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

IMP

Chỉ số giá nhập khẩu

IRF

Hàm phản ứng xung

NEER

Tỷ giá danh nghĩa hiệu lực đa phương


NHTW

Ngân hàng trung ương

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

PPI

Chỉ số giá sản xuất

VAR

Vector Autoregressive Model - Mô hình tự hồi quy vec tơ

VEPR

Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách

VND

Việt Nam Đồng

USD

Đô la Mỹ



TÓM TẮT
Bài nghiên cứu đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào trong chỉ số giá nhập
khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng, đồng thời ước lượng mức tác động
của các yếu tố nền kinh tế trong việc giải thích sự biến động của lạm phát tại Việt
Nam trong giai đoạn từ quý 1 năm 2001 đến quý 1 năm 2013. Bài nghiên cứu sử
dụng mô hình tự hồi quy vectơ (VAR) qua các kiểm định thực nghiệm như kiểm
định nghiệm đơn vị ADF (Augmented Dickey-Fuller), hàm phản ứng xung và phân
rã phương sai. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số truyền dẫn tỷ giá vào chỉ số giá
nhập khẩu cao nhất là 2.31, vào chỉ số giá sản xuất cao nhất là 1.56, và vào chỉ số
giá tiêu dùng cao nhất là 0,69 sau bảy quý kể từ tác động của cú sốc tỷ giá đầu tiên.
Từ kết quả phân rã phương sai, ta thấy ngoài hai nhân tố chính là chính sách tiền tệ
(mức giải thích khoảng hơn 30%) và chỉ số giá nhập khẩu (mức giải thích khoảng
27,63%), thì độ mở cửa kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích biến
động của lạm phát (mức giải thích khoảng gần 30 %). Điều này cho thấy để ổn định
lạm phát thì Ngân hàng nhà nước phải kiểm soát cung tiền và lãi suất, đây chính là
các công cụ quan trọng. Đồng thời với việc Việt Nam mở cửa hội nhập với kinh tế
thế giới, không tránh khỏi những ảnh hưởng do những cú sốc quốc tế, gây không ít
khó khăn cho chính sách kiểm soát lạm phát. Để thực thi chính sách này một cách
có hiệu quả, đòi hỏi cần có một sự chủ động và có lộ trình rõ ràng của nhà nước
trong việc mở cửa hội nhập. Tỷ giá hối đoái giải thích khoảng 3-4% thay đổi của
lạm phát, đây là con số tương đối thấp, ngụ ý Ngân hàng nhà nước có thể thực hiện
chính sách tỷ giá linh hoạt hơn nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô. Các kết quả ước
lượng này, hy vọng sẽ mang lại đóng góp nhỏ trong công tác hoạch định chính sách
vĩ mô khi công cụ tỷ giá hối đoái được sử dụng hiệu quả.


1

1. GIỚI THIỆU
Việt Nam, với quá trình hội nhập đa phương và tự do hóa, nền kinh tế đã có những

bước tiến cơ bản. Quy mô thương mại tăng đáng kể, đi kèm theo đó là đầu tư trực tiếp,
gián tiếp nước ngoài càng nhiều và tốc độ phát triển kinh tế càng nhanh. Tuy nhiên,
tiến trình tự do hóa đồng thời cũng gắn kết nền kinh tế Việt Nam với những biến động
của kinh tế thế giới thông qua sự nhạy cảm của giá cả trong nước với những cú sốc đến
từ môi trường quốc tế. Một trong những sự nhạy cảm đó mà bài viết muốn đề cập là
phản ứng của giá cả trong nước với cú sốc tỷ giá hối đoái, hay gọi chung là truyền dẫn
tỷ giá hối đoái.
Truyền dẫn tỷ giá hối đoái – ERPT (Exchange Rate Pass Through) được định nghĩa là
phần trăm thay đổi trong giá cả của nước nhập khẩu tính bằng nội tệ khi một phần trăm
thay đổi trong tỷ giá giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, Goldberg & Knetter
(1996) hay Olivei (2002). Jonathan McCarthy (2007) thì xem xét khái niệm truyền dẫn
tỷ giá hối đoái dưới góc độ tác động của sự biến động tỷ giá hối đoái và giá nhập khẩu
đến giá cả sản xuất nội địa PPI và giá tiêu dùng CPI. Lian (2006) và Nkunde Mwase
(2006), hiểu khái niệm truyền dẫn tỷ giá hối đoái rộng hơn, tức là mức chuyển của cú
sốc tỷ giá vào các chỉ số giá, bao gồm chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ
số giá tiêu dùng; theo đó “truyền dẫn tỷ giá hối đoái là phần trăm thay đổi của các chỉ
số giá trong nước khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay đổi 1%”. Bài viết này cũng xem
xét khái niệm truyền dẫn theo góc độ của Lian (2006) và Nkunde Mwase (2006) đã đề
cập ở trên.
Nền kinh tế đối mặt với hiệu ứng truyền dẫn hoàn toàn khi có 1% phản ứng của giá cả
đối với 1% cú sốc tỷ giá xảy ra. Và ngược lại là hiệu ứng truyền dẫn không hoàn toàn
khi có ít hơn 1% thay đổi trong giá cả.
Truyền dẫn tỷ giá hối đoái đã là một chủ đề nóng của hàng loạt các nghiên cứu trong
nhiều thập kỷ. Với các từ khóa truyền dẫn tỷ giá hối đoái hay Exchange Rate Pass
Through, có thể dễ dàng tìm thấy các nghiên cứu về vấn đề này. Vậy lý do nào mà


2

truyền dẫn tỷ giá hối đoái lại là chủ đề nghiên cứu của nhiều bài viết của nhiều tác giả

trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Có lẽ cần đề cập đến tầm quan trọng
của truyền dẫn tỷ giá hối đoái trước khi đi vào nghiên cứu. Nhìn chung truyền dẫn tỷ
giá hối đoái có hai vai trò chính là giúp dự báo khả năng lạm phát và gợi ý cho Ngân
hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để tác động đến mục
tiêu cuối cùng của mình, trong đó, mục tiêu ổn định giá cả, lạm phát cũng là một trong
những mục tiêu hàng đầu. Trong các công cụ của chính sách tiền tệ, không thể không
nhắc đến tỷ giá hối đoái và vai trò của nó. Thông qua hai kênh truyền dẫn: trực tiếp
thông qua giá nhập khẩu hay gián tiếp tác động lên tổng cầu, có thể thấy vai trò của tỷ
giá trong quá trình truyền tải tác động của chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá cả, lạm
phát.

Nguồn: Tóm lược của tác giả
Hình 1.Các kênh truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát


3

Hiểu và đánh giá ERPT có thể giúp ngân hàng trung ương trong việc hiểu được ảnh
hưởng, mức độ, thời gian của cú sốc tỷ giá đến các chỉ số giá và lạm phát. Do đó, ngân
hàng trung ương, đặc biệt là trong giai đoạn đưa mục tiêu kiểm soát lạm phát lên hàng
đầu, có thể nhanh chóng đưa ra các chính sách để có thể đáp ứng kịp thời các cú sốc tỷ
giá. Một mức độ ERPT thấp ngụ ý chi phí chuyển đổi trong chính sách tiền tệ trong
nước thì thấp và chính sách tiền tệ thì hiệu quả khi đối phó với những cú sốc thực. Do
đó Ngân Hàng Trung Ương ít quan tâm đến vấn đề tỷ giá hơn để tập trung cho các mục
tiêu khác như tăng trưởng kinh tế hay gia tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu. Mặt
khác, chính sách tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng khi mức độ ERPT cao nếu quốc gia đó theo
đuổi mục tiêu ổn định chính sách tiền tệ (Campa và Goldberg 2005).
Theo Choudhri, E. và Hakura, D. (2006), mức độ tác động của tỷ giá hối đoái đến các
chỉ số giá cũng là một vấn đề quan trọng trong các thảo luận để lựa chọn chính sách

điều hành tiền tệ và tỷ giá hối đoái thích hợp cho từng nước. Các quốc gia có mức độ
tác động của tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá thấp có nhiều cơ hội hơn để theo đuổi
một chính sách tiền tệ độc lập và dễ dàng triển khai chính sách lạm phát mục tiêu hơn
so với quốc gia có mức độ tác động của tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá cả cao.
Các quốc gia Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế đã trải qua những mức độ biến động của tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát,
dẫn đến cú sốc đầu tiên là giảm giá đồng tiền nhanh. Tại một số quốc gia như Hàn
Quốc, một sự giảm giá danh nghĩa nhanh chóng do sự đảo chiều đột ngột trong vài
tháng, gây ra một ít tác động đến tỷ lệ lạm phát trong nước. Tại một số quốc gia khác
như Indonesia, sự sụt giảm giá lớn – kết quả của thời kỳ lạm phát cao, làm cho
Indonesia dần dần mất khả năng cạnh tranh về giá do sự tăng tỷ giá hối đoái thực, kết
quả của lạm phát cao (Ito và Sato 2006)
Nếu giá cả hàng trong nước phản ứng với sự sụt giảm tỷ giá danh nghĩa theo tỷ lệ 1:1tức là, sự truyền dẫn hoàn toàn đối với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) – tỷ giá thực không
đổi, giảm giá danh nghĩa kết hợp với lạm phát cao làm cho cạnh tranh xuất khẩu không


4

đổi, khi đó cạnh tranh xuất khẩu có được do giảm giá danh nghĩa sẽ mất đi. Tuy nhiên
các tập đoàn và các tổ chức tài chính có nợ vay ròng bằng ngoại tệ, sẽ gặp phải những
gánh nặng tài chính do những khoản vay lớn hơn. Đây sẽ là điều đáng lo ngại nhất
trong quản trị tại các quốc gia bị khủng hoảng. Vì vậy, phân tích truyền dẫn rất quan
trọng.
Mục tiêu của bài nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tác động truyền dẫn của sự biến động
tỷ giá hối đoái đến giá cả trong nước Việt Nam và đánh giá mức độ giải thích của các
cú sốc của nền kinh tế đối với biến động của CPI. Để tính đến những hiệu ứng truyền
dẫn giữa tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ, và giá cả quốc nội, nghiên cứu định lượng
hồi quy chuỗi thời gian thông qua phương pháp Véc tơ tự hồi quy, kiểm định
Robustness, phân rã phương sai với số liệu theo quý từ quý 1 năm 2001 đến quý 1 năm
2013 nhằm trả lời cho các câu hỏi sau:

-

Những nhân tố nào ảnh hưởng đến mức truyền dẫn tỷ giá vào CPI?

-

Mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá là bao nhiêu? Tỷ giá hối đoái
có thể giải thích bao nhiêu phần trăm những thay đổi của lạm phát ?

-

Chính sách tiền tệ đã ảnh hưởng như thế nào đến lạm phát thông qua kênh
truyền dẫn này?

Phần còn lại của luận văn được trình bày như sau. Phần kế tiếp giới thiệu tổng quan các
nghiên cứu trước đây về sự truyền dẫn của tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá và lạm
phát. Phần 3 trình bày phương pháp nghiên cứu và dữ liệu. Phần 4 mô tả các kết quả
nghiên cứu của bài viết và phần 5 kết luận.


5

2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Trong khi truyền dẫn tỷ giá hối đoái từ lâu đã được quan tâm, trọng tâm của mối quan
tâm này đã phát triển đáng kể theo thời gian. Sau một thời gian dài tranh cãi về luật
một giá và giá đồng nhất giữa các quốc gia, bắt đầu từ nữa sau của thập niên 1980, các
nghiên cứu nhấn mạnh tổ chức công nghiệp và vai trò của phân đoạn và phân biệt giá
trên thị trường sản phẩm có khác biệt về địa lý. Gần đây nhất là vấn đề truyền dẫn
đóng vai trò trung tâm trong các cuộc tranh luận sôi nổi về chính sách tiền tệ thích hợp
và chế độ tỷ giá tối ưu trong mô hình cân bằng chung. Những cuộc tranh luận có ý

nghĩa lớn trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng của
những cú sốc quốc tế, và nỗ lực chống lại sự mất cân bằng lớn trong thương mại và
dòng vốn quốc tế.
Một tập hợp tài liệu kinh tế khá quy mô về ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá hối đoái đã phát
triển hơn hai thập kỷ qua. Bắt đầu từ những lập trường quan điểm khác nhau, tập hợp
các nghiên cứu thực nghiệm này xem xét vai trò của ERPT trong các nền kinh tế lớn và
nhỏ.
2.1 Các nghiên cứu về cơ chế tác động của tỷ giá hối đoái đến giá cả
Theo Sahminan ( 2002) và An ( 2006) thì tỷ giá hối đoái truyền dẫn đến giá cả trong
nước thông qua ba kênh: giá tiêu dùng nhập khẩu, giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu
và giá hàng hóa trong nước khi tính bằng đồng tiền nước ngoài.
Lafleche (1996) đã chỉ ra cơ chế tác động của tỷ giá đến giá hàng hóa trong nước thông
qua biểu đồ mô tả của mình (tỷ giá được tính theo phương pháp gián tiếp, số đơn vị
ngoại tệ trên 1 đơn vị nội tệ).


6
Giảm tỷ giá (phá giá nội tệ)

Trực tiếp

Tăng
giá các
nguyên
liệu đầu
vào nhập
khẩu
Tăng giá
các hàng
hóa nhập

khẩu

Gián tiếp

Tăng cầu
nội địa đối
với hàng sản
xuất trong
nước (thay
thế hàng
nước ngoài)

Tăng
nhu cầu
về xuất
khẩu

Tăng
cầu về lao
động

Tăng
chi phí
sản xuất
Giá cả hàng nội
địa thay thế và
hàng xuất khẩu
trở nên đắt hơn

Tăng

tiền lương

Tăng giá tiêu dùng

Hình 2.1 Biểu đồ mô tả của Lafleche (1996)
Giá tiêu dùng thay đổi tương ứng với sự thay đổi của tỷ giá danh nghĩa qua hai kênh
chính như sau
Hiệu ứng trực tiếp: Hiệu ứng trực tiếp bao gồm thay đổi trực tiếp giá cả các hàng hóa
nhập khẩu trung gian và nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng do thay đổi tỷ giá. Obstefeld và


7

Rogoff (2000) và các tác giả khác đã chứng minh rằng, giá cả các hàng hóa nhập khẩu
có mức độ nhạy cảm hơn đối với những thay đổi của tỷ giá so với giá cả hàng tiêu
dùng nói chung.
Hiệu ứng gián tiếp: dựa trên giả thuyết về sự thay thế lẫn nhau của hàng hóa sản xuất
trong nước và hàng hóa nhập khẩu, hiệu ứng này bao gồm sự thay thế giữa hàng hóa
sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng cả trên thị trường nội
địa và trên thị trường nước ngoài.
Nội tệ mất giá có thể làm giảm đi nhu cầu đối với hàng nhập khẩu (hàng nhập khẩu
mắc hơn tương đối khi tính bằng nội tệ), đẩy mạnh xuất khẩu và đồng thời cũng làm
cho tiền lương danh nghĩa giảm đi tính bằng ngoại tệ. Nhằm tận dụng các lợi thế so
sánh về tiền lương và nguồn nhân công dồi dào, đã thúc đẩy nhiều tập đoàn xuất khẩu
nước ngoài dịch chuyển cơ sở sản xuất vào trong nước. Tăng trưởng sản xuất hàng hóa
nội địa thay thế hàng nhập khẩu làm tăng cầu lao động và tăng tiền lương đồng thời
đẩy giá tiêu dùng tăng lên.
2.2 Các nghiên cứu giải thích ERPT chưa đầy đủ
Để đơn giản hóa, các nhà kinh tế truyền thống giả định rằng giá cả hàng hoá ngoại
thương một khi được quy về cùng một loại tiền tệ thì sẽ bằng nhau giữa các quốc gia,

tức là điều kiện cân bằng sức mua (PPP) tồn tại. Tuy nhiên, nói chung giả định ít này
nhận được ít sự hỗ trợ về mặt thực nghiệm, ít nhất là trong trường hợp những mẫu
nghiên cứu nhỏ và trong các giai đoạn ngắn và trung hạn. Các nghiên cứu trong hơn
hai thập kỷ qua đã cung cấp những lý do tại sao ERPT chưa đầy đủ. Cụ thể:
Dornbusch (1987) chứng minh tính chưa đầy đủ là do các công ty hoạt động trong một
thị trường được đặc trưng bởi sự cạnh tranh không hoàn hảo và các công ty điều chỉnh
số tiền cộng thêm vào giá vốn của họ để phản ứng lại với một cú sốc tỉ giá.
Burstein và Gopinath (2013) chỉ ra rằng chi phí của các nhà phân phối trong nước
(như bán sỉ và bán lẻ) chiếm đến 40% trong giá bán lẻ sau cùng của bất kỳ hàng hóa
nào. Do những chi phí này ít phụ thuộc vào sự thay đổi của tỷ giá, nên có thể dẫn đến


8

mức truyền dẫn tỷ giá thấp hơn, ngay với hàng hóa qua giao thương quốc tế. Tác giả
cũng nhấn mạnh vai trò của các đầu vào nội địa (phi ngoại thương) trong chuỗi phân
phối hàng hóa ngoại thương, chỉ rõ các vấn đề đo lường CPI, bỏ qua sự điều chỉnh chất
lượng hàng hoá ngoại phương, sự điều chỉnh tỉ giá có quy mô lớn.
2.3 Các nghiên cứu về vai trò của chính sách tiền tệ và ERPT
Gagnon, J. và Ihrig, J. (2004) chỉ ra ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá vào lạm phát nội địa
có vẻ đã suy giảm ở rất nhiều các quốc gia kể từ những năm 1980. Các tác giả đã phát
triển một mô hình lý thuyết cho rằng thay đổi trong mức độ truyền dẫn tỉ giá tới chính
sách ổn định lạm phát ngày càng được chú trọng được thực hiện bởi rất nhiều ngân
hàng trung ương. Giả thuyết này được kiểm tra ở 20 quốc gia công nghiệp giai đoạn
1973-2003. Các tác giả tìm thấy bằng chứng rộng rãi về mối liên hệ mạnh mẽ và có ý
nghĩa thống kê giữa mức độ truyền dẫn tỉ giá và sự thay đổi của lạm phát. Các tác giả
cũng tìm thấy bằng chứng rằng hành vi chính sách tiền tệ được quan sát có thể là một
yếu tố của sự suy giảm mức độ truyền dẫn tỉ giá. Gagnon và Ihrig đã lập luận và nhấn
mạnh hơn vai trò của các cơ quan tiền tệ và tài khóa, bằng cách bù đắp một phần tác
động của những thay đổi trong tỉ giá hối đoái lên giá cả.

Bacchetta và van Wincoop (2003) thì khám phá ra vai trò của việc định giá đồng nội tệ
trong việc giảm mức độ ERPT.
Ito và Sato (2006) xem xét mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái lên giá cả trong nước ở
các quốc gia Đông Á thông qua việc sử dụng phân tích hồi qui đa biến VAR, đặc biệt
còn chú ý đến sự tương tác giữa chính sách tiền tệ và sự thay đổi tỷ giá. Một kết quả
tổng quan đó là mức truyền dẫn này ở các nước khác nhau sẽ khác nhau và một điểm
đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997-1998, lạm phát ở hầu hết các quốc gia
chịu khủng hoảng đều có sự gia tăng thấp ngoại trừ Indonesia bởi vì đồng Rupiah bị
mất giá danh nghĩa mạnh. Cụ thể, có ba kết quả chính được rút ra: thứ nhất, mức độ
truyền dẫn tỷ giá hối đoái lên giá cả nhập khẩu là cao trong các nền kinh tế bị khủng
hoảng. Thứ hai, mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái lên chỉ số CPI nhìn chung là thấp


9

ngoại trừ Indonesia. Thứ ba, cả phản ứng đẩy của chính sách tiền tệ đối với các cú sốc
tỷ giá và phản ứng đẩy của CPI với cú sốc của chính sách tiền tệ là cùng chiều, mạnh
và có ý nghĩa thống kê. Những kết quả này phù hợp với quan điểm rằng Indonesia đã
thực hiện chính sách tiền tệ thiếu thận trọng khi ứng phó với sự mất giá đồng nội tệ, và
chính sách tiền tệ là một trong những yếu tố khiến cho lạm phát xấu thêm trong suốt
cuộc khủng hoảng tiền tệ.
Bằng cách tập trung vào sự tương tác giữa thay đổi tỷ giá hối đoái và lạm phát, nhóm
tác giả đã minh chứng rõ nét hơn về những khó khăn mà Indonesia đã gặp phải trong
suốt thời gian khủng hoảng, đồng thời làm nổi bật được vai trò của tỷ giá thực trong
khi những bài nghiên cứu trước đó chủ yếu là xem xét tỷ giá hối đoái danh nghĩa để
mô tả quá trình hồi phục và không phục hồi. Bên cạnh việc sử dụng phân tích hồi qui
đa biến VAR, tác giả đã có một sự đột phá hơn khi phân tích sự tương tác ngược từ lạm
phát đến tỷ giá hối đoái của các quốc gia chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng.
Dựa trên quan điểm về việc sử dụng biến động tỷ giá hối đoái như là một công cụ điều
chỉnh cán cân thương mại (giảm thâm hụt và tạo giá trị thặng dư), sự truyền dẫn tác

động đến giá nhập khẩu và giá của nhà sản xuất tạo áp lực điều chỉnh chi tiêu là tốt,
nhưng tác động sự truyền dẫn đến CPI, làm tăng giá toàn bộ, thì lại không tốt. Chính
sách tiền tệ nên được thiết lập dựa trên nhận thức của sự khác biệt này.
2.4 Các nghiên cứu về độ mở cửa thương mại và ERPT
Trên quan điểm lý thuyết, một yếu tố quyết định quan trọng khác của ERPT là mức độ
mở cửa thương mại của một quốc gia. Sự kết nối trực tiếp nhất giữa hai biến số này là
cùng chiều: một quốc gia càng mở cửa thì càng nhiều dao động tỉ giá hối đoái được
truyền dẫn qua giá nhập khẩu đi vào những thay đổi chỉ số CPI . Tuy nhiên, sự việc
này trở nên phức tạp hơn khi tác giả tính đến việc lạm phát có thể có tương quan
nghịch với độ mở cửa nền kinh tế, theo như bằng chứng thực nghiệm đã được Romer
(1993) tìm thấy. Theo kết quả của nghiên cứu “Openness and Inflation: Theory and
Evidence” của Romer (1993), mối quan hệ giữa mở cửa và lạm phát sẽ mạnh hơn ở các


10

quốc gia có tình hình chính trị bất ổn và tính độc lập của ngân hàng trung ương thấp.
Việc mở rộng tiền tệ không được dự đoán trước sẽ làm cho tỉ giá hối đoái thực sụt giảm
và bởi vì trong nền kinh tế mở cửa nhiều hơn, những thiệt hại của sự sụt giảm này sẽ
lớn hơn, lợi ích đạt được từ việc mở rộng tiền tệ không dự đoán trước rõ ràng giảm
theo mức độ mở cửa của nền kinh tế. Dữ liệu của nghiên cứu này cho thấy có mối
tương quan âm khá mạnh giữa mức độ mở cửa nền kinh tế và lạm phát. Có nghĩa là
một kênh gián tiếp được tăng cường, theo đó khi có tính đến giả thuyết của Taylor, độ
mở cửa nền kinh tế sẽ có mối tương quan nghịch với lạm phát và mức độ truyền dẫn tỉ
giá. Các kênh trực tiếp và gián tiếp đi theo chiều ngược nhau và hệ số tương quan giữa
ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá và độ mở cửa nền kinh tế do đó có thể là dương hoặc âm.
2.5 Các nghiên cứu về mức độ chịu tác động của các chỉ số giá và ERPT
Hahn (2003) nghiên cứu ảnh hưởng truyền dẫn của cú sốc bên ngoài đến lạm phát tại
các giai đoạn phân phối khác nhau (giá nhập khẩu, giá sản xuất, giá tiêu dùng) trong
khu vực sử dụng đồng Euro. Bài nghiên cứu cũng sử dụng mô hình VAR như nghiên

cứu của Mc.Carthy, J. (2000) để đo lường mức truyền dẫn. Kết quả cho thấy giá chỉ số
giá nhập khẩu phi dầu mỏ chịu ảnh truyền dẫn tỉ giá lớn nhất và nhanh nhất, sau đó tới
ảnh hưởng của các cú sốc tỉ giá và các cú sốc giá dầu. Mức độ và tốc độ ảnh hưởng của
ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá giảm dần theo chuỗi giá cả. Các cú sốc bên ngoài đóng góp
phần lớn tới lạm phát trong khu vực Euro khi bắt đầu sử dụng đồng tiền chung Châu
Âu.
Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn và Marcelo Sánchez (2007) giới thiệu bài nghiên cứu
xem xét mức độ ERPT tới chỉ số giá ở 12 thị trường mới nổi thuộc châu Á, Mỹ
LaTinh, Trung và Đông Âu. Các tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu đã được
McCarthy (2000) phát triển cho các quốc gia phát triển và được Hahn (2003) áp dụng
cho khu vực đồng Euro. Các kết quả nghiên cứu của tác giả xác nhận ERPT giảm qua
chuỗi giá cả, tức là ERPT lên giá tiêu dùng thấp hơn ERPT lên giá nhập khẩu.


11

Ngoài ra còn có bằng chứng về ERPT thấp đối với các nền kinh tế phát triển, cụ thể
ERPT lên giá tiêu dùng thấp đối với trường hợp Mỹ và Nhật Bản. Giống với các
nghiên cứu trước đây, ERPT được phát hiện là hơi cao hơn so với ở Mỹ trong khu vực
đồng Euro, cả trường hợp ERPT lên giá tiêu dùng và ERPT lên giá nhập khẩu. Phân
tích của tác giả cũng phần nào đi ngược lại quan điểm truyền thống cho rằng ảnh
hưởng truyền dẫn tỉ giá tới cả giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các quốc gia thị trường
mới nổi luôn cao hơn là ở các quốc gia phát triển. Đối với các nền kinh tế mới nổi có
mức lạm phát một con số (nhất là các nước châu Á trong mẫu nghiên cứu của tác giả),
ERPT là thấp và không khác biệt nhiều so với mức độ ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá
thường thấy ở các nền kinh tế phát triển. Nghiên cứu này xác nhận một mối quan hệ
cùng chiều giữa lạm phát và mức độ ERPT, phù hợp với giả thuyết của Taylor. Kết quả
này chỉ trở nên rõ ràng sau khi hai quốc gia ngoại lệ (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) được
loại trừ ra khỏi phân tích do những khó khăn trong ước lượng gắn với sự bất ổn kinh tế
vĩ mô nghiêm trọng trên mẫu phân tích ở hai nước này. Cuối cùng, sự hiện diện của

một liên kết cùng chiều giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, trong khi khá thuyết phục về
mặt lý thuyết, nhưng lại chỉ tìm thấy bằng chứng thực nghiệm yếu.
Mihaljek và cộng sự (2000) nghiên cứu ảnh hưởng truyền dẫn của các thay đổi tỉ giá
hối đoái và thay đổi giá nhập khẩu (tính bằng ngoại tệ) vào lạm phát trong nước cho
nhóm 13 nền kinh tế thị trường mới nổi. Kết quả cho thấy: (a) Thay đổi tỉ giá hối đoái
tương quan với lạm phát mạnh hơn và đồng thời hơn hơn là thay đổi của giá nhập
khẩu; (b) Độ co giãn của giá nhập khẩu và tỉ giá hối đoái của lạm phát gần như là như
nhau ở 4 quốc gia trong mẫu. Độ co giãn giá nhập khẩu cao hơn ở 2 nước, và độ co
giãn tỉ giá cao hơn ở 7 nước; (c) Sự khác biệt về hệ số truyền dẫn tỉ giá giữa các quốc
gia là lớn và có vẻ liên quan đến biến động của lạm phát nhưng không liên tục; (d) Ảnh
hưởng truyền dẫn từ thay đổi tỉ giá hối đoái vào lạm phát nói chung mạnh hơn sự
chuyển dịch từ giá nhập khẩu, nhưng giảm kể từ giữa những năm 1990, có thể là do kết


12

quả của các điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định và các cải cách cơ cấu được nền kinh tế
mới nổi thực hiện.
McCarthy (2007)giới thiệu bài ghiên cứu kiểm định tác động của tỉ giá hối đoái và giá
nhập khẩu tới chỉ số giá sản xuất (PPI) và CPI nội địa ở một số quốc gia công nghiệp.
Tỉ giá hối đoái có ảnh hưởng không đáng kể đến lạm phát giá cả trong nước trong khi
giá nhập khẩu có tác động mạnh hơn. Ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá có mức độ lớn hơn
ở những nước có giá trị nhập khẩu lớn và phụ thuộc nhiều vào tỷ giá và giá nhập khẩu.
Về lý do vì sao ảnh hưởng truyền dẫn đến chỉ số giá nhập khẩu (IMP) cao hơn hẳn
CPI, Bacchetta, P. và van Wincoop, E. (2003) đã khẳng định trong bài nghiên cứu của
mình là ngoài lý do chi phí phân phối là lý do chính yếu, khi xem xét góc độ nhà sản
xuất hàng hóa tiêu dùng cuối cùng (định giá bằng nội tệ), với giả định đầu vào tất cả là
nhập khẩu (chi phí bằng ngoại tệ) dựa trên chiến lược giá tối ưu của công ty đã làm ảnh
hưởng đến mức truyền dẫn vào CPI thấp hơn IMP. Kết quả cơ bản là tiền tệ mà giá
được thiết lập phụ thuộc vào áp lực cạnh tranh trong một ngành công nghiệp. Khi phải

đối mặt với công ty cạnh tranh ít hơn, họ có nhiều khả năng để thiết lập giá tiền tệ của
riêng họ. Tác giả đã trình bày một tập hợp hàng hoá doanh nghiệp trong nước nhập
khẩu định giá bằng ngoại tệ và bán chúng bằng nội tệ. Nếu nội tệ mất giá, họ chấp
nhận chịu lỗ chi phí tỷ giá vì dưới áp lực cạnh tranh của hàng hóa nội địa, các công ty
này không tự do định giá bán của mình mà bị chi phối bởi mặt bằng giá cả hàng hóa
trong nước. Chính điều này là nguyên nhân dẫn đến mức truyền dẫn vào CPI thấp hơn
mức truyền dẫn của tỷ giá hối đoái vào IMP.


13

2.6 Các nghiên cứu về lạm phát và ERPT:
Campa và Goldberg (2005) đã thực hiện nghiên cứu đánh giá mức độ truyền dẫn tỉ giá
vào giá nhập khẩu của 23 nước OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), tìm
được bằng chứng thuyết phục về ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá một phần trong ngắn hạn,
đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất. Trong dài hạn, việc định giá theo đồng tiền của nước
sản xuất phổ biến hơn đối với rất nhiều mặt hàng nhập khẩu. Các nước có tỉ giá hối
đoái và lạm phát biến động ít hơn có thể sẽ có mức độ ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá hối
đoái vào giá nhập khẩu thấp hơn.
Taylor (2000) đã đưa ra giả thuyết rằng phản ứng của giá cả đến biến động tỉ giá hối
đoái có mối tương quan dương với lạm phát. Lý do căn bản của điều này liên quan đến
một tương quan dương giữa mức độ và sự tồn tại dai dẳng của lạm phát, kết hợp với
một liên kết giữa lạm phát và ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá. Mối liên kết thứ hai có thể
được thể hiện như sau: lạm phát càng dai dẳng thì dao động tỉ giá hối đoái được quan
sát thấy càng ngắn và càng nhiều công ty có thể phản ứng thông qua việc điều chỉnh
giá. Theo Taylor, phá giá đồng tiền không phải lúc nào cũng gây ra lạm phát. Những
nước có tỉ lệ lạm phát thấp sẽ ít bị lạm phát sau khi phá giá. Với lạm phát ổn định ở
mức thấp, khi doanh nghiệp định giá sản phẩm trước một thời hạn nào đó sẽ định giá
theo kỳ vọng là giá sẽ không biến đổi nhiều. Trong môi trường lạm phát cao thì ảnh
hưởng truyền dẫn này sẽ từ thấp thành cao vì doanh nghiệp biết rằng lạm phát sẽ lên

cao, do đó, cũng sẽ định giá trước cho sản phẩm cao theo.
Bằng chứng của các nghiên cứu khác nhau nói chung ủng hộ giả thuyết của Taylor.
Tuy nhiên, mối quan hệ dương giữa lạm phát và mức độ ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá
xuất hiện rõ nét hơn khi các thị trường mới nổi trong thời kỳ nghiên cứu mẫu được đưa
vào xem xét đánh giá (Choudhri và Hakura, 2006). Điều này có thể không có gì đáng
ngạc nhiên, bởi vì luận chứng lý thuyết của Taylor trở nên có ý nghĩa hơn khi tỉ lệ lạm
phát cao hơn.


14

Choudhri và Hakura (2006) kiểm định giả thuyết được đề xuất bởi Taylor (2000) rằng
môi trường lạm phát thấp dẫn đến ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá tới giá nội địa thấp. Sử
dụng số liệu của 71 quốc gia trong giai đoạn 1979 – 2000 để kiểm chứng mức độ của
sự phá giá lên lạm phát. Mức độ truyền dẫn mạnh hay yếu phụ thuộc vào mức độ lạm
phát ban đầu của nước phá giá. Mức độ truyền dẫn yếu đối với nước có mức lạm phát
ban đầu thấp và cao đối với nước có mức lạm phát ban đầu cao. Tỷ lệ lạm phát vượt
qua các biến vĩ mô khác trong việc giải thích sự khác biệt của truyền dẫn. Đối với mức
độ lạm phát cao, tác động của những cú sốc tiền tệ có xu hướng được kéo dài hơn và
có thể sẽ được phản ánh trong những thay đổi tỷ giá hối đoái ở mức độ lớn hơn.
2.7 Các nghiên cứu về ERPT tại Việt Nam
Võ Văn Minh (2009) đã sử dụng kiểm định thực nghiệm và kiểm tra phản ứng xung
để nghiên cứu ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá đến lạm phát. Tác giả sử dụng cơ sở dữ
liệu từ 1/2001 đến 2/2007 về NEER (tỉ giá hối đoái danh nghĩa hiệu lực), khe hở sản
lượng

(chênh

lệch


giữa

sản

lượng

thực



sản

lượng

tiềm

năng),

giá dầu, CPI, IMP và cung tiền mở M2. Kết quả cho thấy ảnh hưởng truyền dẫn tỉ giá ở
Việt Nam là không đầy đủ, mức độ truyền dẫn tỉ giá lên giá nhập khẩu thấp hơn so với
giá tiêu dùng. ERPT năm đầu tiên là 0.61, ở mức vừa phải so với các quốc gia có nền
tảng tương tự Việt Nam. Ảnh hưởng lớn nhất lên giá nhập khẩu có độ trễ 5-7 tháng sau
một cú sốc tỉ giá hối đoái do các điều chỉnh trong hợp đồng ngoại thương của các công
ty được điều chỉnh trễ hơn một thời gian sau cú sốc. Tuy nhiên, tác động của tỉ giá hối
đoái tới giá tiêu dùng có quán tính khoảng 10 tháng sau cú sốc tỉ giá. Sau 15 tháng, tác
động của một cú sốc tỉ giá lên giá nhập khẩu và giá tiêu dùng bị loại bỏ hoàn toàn. Tác
giả giải thích điều này bằng cách trích dẫn môi trường lạm phát khác nhau, tình trạng
đô la hóa ít hơn và chính sách lãi suất nới lỏng hơn giữa hai giai đoạn. Nghiên cứu này
cũng kêu gọi loại bỏ các can thiệp tỉ giá hối đoái. Do mức độ ERPT vừa phải, một cơ
chế tỉ giá hối đoái linh hoạt hơn, cụ thể biên độ dao động lớn hơn được khuyến nghị.



15

Ngân hàng Nhà Nước vì vậy có thể thực thi chính sách tiền tệ mạnh hơn để đối phó với
các biến động trên thị trường tài chính.
Theo Michaël Goujon (2006) khi thực hiện nghiên cứu về lạm phát trong tình trạng đô
la hóa ở Việt Nam, cho rằng kênh thay đổi tỉ giá hối đoái có ảnh hưởng lên giá hàng
hóa ngoại thương (tradables) và giá hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước (nontradables). Hai ảnh hưởng này của tỉ giá lên lạm phát chính là nhóm ảnh hưởng truyền
dẫn tỉ giá hối đoái lên lạm phát.
Ngô Quang Thành (2010) sử dụng số liệu chéo của một năm 2006 từ thông tin lạm
phát và các yếu tố có liên quan của 64 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Đối với ảnh
hưởng lên chỉ số CPI của riêng tỉ giá hối đoái giữa Việt Nam Đồng(VND) với Đô la
Mỹ (USD), nghiên cứu này cho thấy mối quan hệ dương. Về mặt định lượng, trong
điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, trung bình, chỉ số tỉ giá hối đoái tại một địa
phương tăng 1%, chỉ số CPI của địa phương đó tăng 0,21%. Lưu ý rằng con số 0,21%
này là tổng ảnh hưởng của tỉ giá hối đoái lên giá hàng hóa ngoại thương (tradables) và
hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước (non-tradables) (hay ERPT). Bên cạnh đó,
nghiên cứu này còn chỉ ra tác động lan tỏa theo địa lý của CPI giữa các địa phương.
Trong trường hợp tỉ giá đoái VND với USD tăng 1% tại một địa phương, CPI các địa
phương còn lại tăng tổng cộng khoảng 0,11% điểm. Tổng hợp lại, giả sử chỉ số tỉ giá
hối đoái VND với USD tăng 1% tại tất cả các địa phương, CPI trung bình của cả nước
có thể tăng lên đến khoảng 0,33% điểm trong một năm.
Nghiên cứu của Bạch Thị Thu Thảo (2011) là nghiên cứu khá cập nhật và rõ ràng về
ERPT tại Việt Nam, sử dụng mô hình VAR, phân tích phản ứng đẩy và phân rã
phương sai với các biến như sau: giá dầu (OIL), tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu lực đa
phương (NEER), GDP thực, cung tiền mở (M2), Chỉ số giá nhập khẩu (IMP), chỉ số
giá sản xuất (PPI), chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Tác giả chỉ ra tác động lớn nhất của tỷ
giá hối đoái đến IMP là sau khoảng gần 14 tháng kể từ khi có cú sốc tỷ giá hối đoái với
độ lớn 77%, đối với CPI cũng sau khoảng gần 14 tháng, độ lớn 73%. Nghiên cứu cho



16

thấy IMP và CPI chịu ảnh hưởng của cú sốc tỷ giá hối đoái với thời gian kéo dài là 24
tháng. Cú sốc tỷ giá hối đoái tác động đến CPI là thấp nhất với mức cao nhất sau gần
15 tháng là 39.64%.
Một nghiên cứu đáng chú ý nữa là nghiên cứu của Lục Văn Cường(2012), đã đặc biệt
quan tâm nghiên cứu sự chuyển dịch bất cân xứng từ tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu.
Với việc sử dụng phương pháp đồng liên kết Johansen, mô hình véc tơ điều chỉnh sai
số và mô hình véc tơ tự hồi quy, tác giả nghiên cứu trên dữ liệu quý từ quý 1/2001 đến
quý 4/2012. Trong dài hạn, sự chuyển dịch là hoàn toàn. Kết quả nghiên cứu cho thấy
sự chuyển dịch giảm dần theo chuỗi giá cả, tức là chuyển dịch vào chỉ số giá nhập khẩu
là lớn nhất, và vào chỉ số giá sản xuất lớn hơn chỉ số giá tiêu dùng. Đồng thời bài
nghiên cứu cũng phát hiện không có sự chuyển dịch bất cân xứng vào giá nhập khẩu
trong trường hợp thay đổi tỷ giá hối đoái lớn so với thay đổi tỷ giá hối đoái nhỏ.


17

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Các bước thực hiện
Chuỗi dữ liệu đưa vào mô hình được thực hiện tuần tự như sau với công cụ Eview:
-

Đầu tiên, các biến sẽ được hiệu chỉnh tính mùa vụ bằng phương pháp Cencus
X12.

-


Tiếp theo, thực hiện kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian của các biến đưa
vào, do điều kiện bắt buộc của mô hình VAR là chuỗi dữ liệu phải dừng. Dùng
phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị ADF (Augmented Dickey- Fuller) để
kiểm định tính dừng.

-

Tìm độ trễ tối ưu cho mô hình VAR với các biến đã đưa vào bằng công cụ VAR
Lag Other Selection Criteria trong Eview.

-

Tính toán tác động của cú sốc tỷ giá lên chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu
dùng qua phân tích phản ứng xung (Impulse Response Function)

-

Thực hiện kiểm định Robustness, ước lượng lại mô hình với hai mô hình mới
khi thay đổi thứ tự giữa các biến dựa trên phân rã Cholesky để kiểm định tính
phù hợp của mô hình. Bởi lẽ, việc sắp xếp thứ tự các biến trong mô hình
(Cholesky order) khác nhau, sẽ cho ra kết quả khác nhau.

-

Dùng chức năng phân rã phương sai (Variance decomposition) phân tích tầm
quan trọng của mỗi biến trong việc giải thích những thay đổi của lạm phát, qua
chỉ số giá CPI.

3.2 Mô hình nghiên cứu
3.2.1 Mô hình nghiên cứu cơ sở

Bài viết dựa trên mô hình nghiên cứu gốc từ bài nghiên cứu của Michele Ca’ Zorzi,
Elke Hahn và Marcelo Sánchez (2007). Mô hình này đã từng được giới thiệu trước đây
bởi McCarthy (2000). Phân tích được thực hiện bằng cách sử dụng một mô hình VAR
chuẩn như trong phương trình (1)


×