Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

ĐO LƯỜNG MỨC ĐỘ TRUYỀN DẪN CÚ SỐC TỶ GIÁ ĐẾN GIÁ NHẬP KHẨU VÀ GIÁ TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 62 trang )

1



Tóm lƣợc
Hầu hết các tài liệu nghiên cứu trước đây về mô hình ERPT( hiệu ứng truyền dẫn
của tỷ giá đến giá cả - exchange rate passthrough) đều cho thấy đây là một công cụ rất
quan trọng trong việc xem xét thực hiện các chính sách tiền tệ, đặc biệt là để đối phó lại
với cú sốc tỷ giá hối đoái. Bài viết này cũng sẽ (1) đo lường mức độ và thời
gian của ERPT( exchange rate pass-through), (2) đánh giá tác động của thay đổi của tỷ
giá hối đoái đến lạm phát, và (3) kiến nghị chính sách thích hợp từ những kết quả nhận
được bằng cách sử dụng các kiểm định khác nhau bao gồm Dickey-Fuller Augmented,
Hodrick và Prescott, kiểm định sự phù hợp của mô hình và hai thuộc tính của mô hình
Var là phản ứng xung lực và phân tách Var. Kết quả cho thấy rằng hiệu ứng truyền dẫn
của tỷ giá đến giá nhập khẩu lẫn giá tiêu dùng đều dương khi có một cú sốc tỷ giá xảy ra,
và ERPT của CPI thì thấp hơn nhiều so với IMP. Cụ thể, trong ngắn hạn, hệ số ERPT đến
giá nhập khẩu là khá cao, 0.912 trong vòng một năm, và giảm còn 0.727 trong năm thứ
hai. Riêng với ERPT của CPI thì thấp hơn nhiều so với IMP, nhưng cũng khá cao, ở mức
0.112 trong vòng mười hai tháng đầu, và giảm còn 0.094 trong vòng hai mươi bốn tháng.
Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu với kết quả của VoVan Minh (2009) với hệ số
ERPT đến CPI là 0.08, với IMP là 0.61 trong khoảng thời gian 1 năm đầu kể từ khi xảy
ra cú sốc phá giá, và của Nguyễn Phi Lân (2010) thì khả năng giải thích của tỷ giá đối với
lạm phát là khá ít, 5% sau 12 tháng và 8% sau 24 tháng. Nghiên cứu cũng thấy rằng lạm
phát cao ở Việt Nam trong những năm gần đây chủ yếu là sự biến động của tỷ giá, của lãi
suất, và do biến động của giá dầu.
2



1) Giới thiệu
Tỷ giá hối đoái là một trong những biến số quan trọng của nền kinh tế. Tỷ giá hối


đoái có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua nhiều kênh truyền dẫn khác nhau như
thương mại, giá cả và ngân sách. Một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất của nó là
tác động đến lạm phát. Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát luôn là
trọng tâm của các bài nghiên cứu. Theo đó, các bài nghiên cứu tập trung trả lời cho câu
hỏi tỷ giá ảnh hưởng như thế nào đến giá cả, hay yếu tố nào là nhân tố chính gây nên lạm
phát trong thời kỳ này. Các bài nghiên cứu xoay quanh việc đo lường mức độ truyền dẫn
cú sốc tỷ giá hối đoái đến giá cả trong nước như thế nào thông qua hệ số ERPT.
ERPT được định nghĩa là phần trăm thay đổi trong gia cả của nước nhập khẩu tính
bằng nội tệ khi một phần trăm thay đổi trong tỷ giá giữa nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu (Goldberg & Knetter 1996).
Nền kinh tế đối mặt với hiệu ứng truyền dẫn hoàn toàn khi có 1% phản ứng của
giá cả đối với 1% cú sốc tỷ giá xảy ra. Và ngược lại là hiệu ứng truyền dẫn không hoàn
toàn khi có ít hơn 1% thay đổi trong giá cả. Thực tế cho thấy rằng hiệu ứng truyền dẫn thì
không hoàn toàn như trong nghiên cứu của Campa & Goldberg ( 2001).
Tầm quan trọng của ERPT đã được đề cập khá nhiều ở nhiều bài nghiên cứu trước
ở một số nước. Nhìn chung ERPT có hai vai trò chính là giúp dự báo khả năng lạm phát
và ngụ ý trong điều hành chính sách tiền tệ, cái mà bất kỳ Ngân Hàng Trung Ương nào
cũng cần trong việc điều hành chính sách tiền tệ của mình. Hiểu biết và đánh giá tốt
ERPT ngân hàng trung ương có thể hiểu được ảnh hưởng, mức độ, thời gian của cú sốc tỷ
giá đến lạm phát. Do đó, ngân hàng trung ương, đặc biệt là trong giai đoạn kiểm soát lạm
phát là mục tiêu hàng đầu, có thể đáp ứng kịp thời các cú sốc với chính sách tiền tệ thích
hợp để đạt được mục tiêu. Một mức độ ERPT thấp ngụ ý chi phí chuyển đổi trong chính
sách tiền tệ trong nước thì thấp và chính sách tiền tệ thì hiệu quả khi đối phó với những
cú sốc thực. Do đó Ngân Hàng Trung Ương ít quan tâm đến vấn đề tỷ giá hơn để tập
trung cho các mục tiêu khác như tăng trưởng kinh tế hay gia tăng khả năng cạnh tranh
3



xuất khẩu. Mặt khác chính sách tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng khi mức độ ERPT cao khi quốc

gia đó theo đuổi mục tiêu ổn định chính sách tiền tệ ( Campa& Goldberg 2002). Do đó nó
thì quan trọng để biết và hiểu mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái đến giá cả và cú
sốc được truyền dẫn với những mức độ khác nhau đến nền kinh tế.
Như ta biết, tỷ giá là một trong những kênh truyền tải của chính sách tiền tệ,
truyền dẫn tác động từ các công cụ đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ, trong
đó, quan trọng nhất là mục tiêu ổn định giá cả. Và điều này thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:


Nguồn: ThS. Nguyễn Huyền Diệu
Thông qua hình vẽ trên, ta có thể thấy được vai trò của tỷ giá trong quá trình
truyền tải tác động của chính sách tiền tệ. Bằng kênh truyền dẫn trực tiếp thông qua giá
nhập khẩu hay kênh truyền dẫn gián tiếp tác động lên tổng cầu cuối cùng tỷ giá tác động
lên lạm phát.
Theo Sahminan ( 2002) và An ( 2006) tỷ giá hối đoái được truyền dẫn đến giá cả
trong nước qua ba kênh: giá tiêu dùng nhập khẩu, giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu và
giá hàng hóa trong nước khi tính bằng đồng tiền nước ngoài. Để hiểu rõ hơn về cơ chế tác
động của tỷ giá đến giá hàng hóa trong nước như thế nào, ta có thể sử dụng biểu đồ mô tả
4



của Lafleche (1996), thông qua đó, một sự giảm tỷ giá có thể tác động đến giá trong nước
của một quốc gia (lưu ý ở đây, tỷ giá được tính theo phương pháp gián tiếp, số đơn vị
ngoại tệ trên 1 đơn vị nội tệ).

Biểu đồ mô tả của Lafleche (1996)
Có tối thiểu ba kênh mà thông qua đó, giá tiêu dùng thích ứng với những thay đổi
của tỷ giá danh nghĩa: trực tiếp, gián tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hiệu ứng trực tiếp: Chuỗi hiệu ứng trực tiếp bao gồm thay đổi trực tiếp giá cả các
hàng hóa nhập khẩu trung gian và nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng do thay đổi tỷ giá.

Obstefeld và Rogoff (2000) và các tác giả khác đã chứng minh rằng, giá cả các hàng hóa
nhập khẩu có mức độ nhạy cảm hơn đối với những thay đổi của tỷ giá so với giá cả hàng
tiêu dùng nói chung.
5



Hiệu ứng gián tiếp: Chuỗi hiệu ứng gián tiếp dựa trên giả thuyết về sự thay thế lẫn
nhau của hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu. Hiệu ứng gián tiếp bao
gồm sự thay thế giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu tiêu dùng cuối
cùng trên thị trường nội địa và trên thị trường nước ngoài.
Hiệu ứng FDI: Thí dụ đơn giản như một sự giảm giá của VND có thể làm giảm đi
nhu cầu đối với hàng nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu và đồng thời cũng làm cho tiền
lương danh nghĩa giảm đi tính bằng ngoại tệ. Điều này, ảnh hưởng tương đối đến các nhà
xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam, khi phải lực chọn một trong hai tình huống, đó là có
thể bị mất thị phần thị trường xuất khẩu của mình, hoặc là phải bắt đầu xây dựng cơ sở
sản xuất mới ở Việt Nam, nhằm tận dụng các lợi thế so sánh về tiền lương và nguồn nhân
công dồi dào. Chính điều này, đã thúc đẩy nhiều tập đoàn đã mở chi nhánh và dịch
chuyển cơ sở sản xuất vào Việt Nam( FDI flows). Tăng trưởng sản xuất làm tăng cầu lao
động và tăng tiền lương. Đến lượt mình, điều này đã đẩy giá tăng lên.
Trong những năm gần đây, theo số liệu thống kê cho thấy rằng Việt Nam đã và
đang đối mặt với lạm phát cao, khi mà chỉ số CPI cao lên theo từng ngày, đặc biệt là sau
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008. Điều này, thể hiện rõ qua biều sau:

Nguồn: IMF- IFS
0
50
100
150
200

250
2005M01
2005M07
2006M01
2006M07
2007M01
2007M07
2008M01
2008M07
2009M01
2009M07
2010M01
2010M07
2011M01
2011M07
Biến động CPI
Biến động CPI
6



Theo thống kê cho biết được, Việt Nam đã rơi vào một tình trạng tỷ lệ lạm
phát ngày càng tăng, và tăng ở mức hai con số, cùng với sự mất giá đáng kể của
Việt Nam đồng, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế- xã hôi, và mục tiêu kiểm soát
lạm phát được đặt ra là mục tiêu hàng đầu. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(KH&ĐT) Bùi Quang Vinh nhấn mạnh khi chủ trì cuộc thảo luận về Dự thảo Kế hoạch
Phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 : “Phải đưa kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu
trong mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội năm 2012. Người dân hiện rất quan
tâm vấn đề này”. Vì vậy, thực sự rất quan trọng để có một nghiên cứu thực nghiệm của
hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đên giá đối với Việt Nam. Đồng thời, theo An

(2006) thì nghiên cứu ERPT là cực kì quan trọng, vì những lý do sau:
Thứ nhất là các thông tin về mức độ và thời gian của ERPT là rất cần thiết cho
việc đánh giá đúng đắn của kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ đến giá cả cũng như lạm
phát .
Thứ hai, việc áp dụng lạm phát mục tiêu cũng cần phải có kiến thức về quy mô và
tốc độ của tỷ giá hối truyền dẫn vào lạm phát.
Từ những yêu cầu trên, bài nghiên cứu này sẽ đi sâu tìm hiểu xem hiệu ứng truyền
dẫn của tỷ giá đến giá cả tác động như thế nào đến biến động giá cả CPI của Việt Nam và
sẽ cố gắng để khắc phục một số hạn chế trong các nghiên cứu trước đó về chuỗi thời gian
cũng như hạn chế về số liệu.Và cụ thể, mục tiêu bài viết này là:
Mục tiêu đầu tiên của bài nghiên cứu này là để đánh giá phản ứng của mức giá
khác nhau (IMP,CPI) đối với một cú sốc tỷ giá hối đoái tại Việt Nam. Chúng tôi sử dụng
dữ liệu hàng tháng từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 5 năm 2011 để kiểm tra mức độ hiệu
ứng truyền dẫn của tỷ giá đến giá trong cả ngắn hạn và dài han. Kết quả thực nghiệm cho
ta thấy rằng mối quan hệ giữa tỷ giá với giá nhập khẩu (IMP) và giá tiêu dùng có mối
tương quan dương trong ngắn hạn lẫn dài hạn.
7



Mục tiêu thứ hai là ta sẽ tiến hành phân tích sự biến động của CPI là do những yếu
tố nào quyết định, nghĩa là biết được yếu tố nào đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến
thay đổi của CPI.
Mục tiêu thứ ba là xem xét liệu việc thay đổi biến trong mô hình có làm thay đổi
kết quả hay không, từ đó lựa chọn mô hình phù hợp.
Và mục tiêu cuối cùng là thông qua kết quả thực nghiệm nghiên cứu được, ta sẽ
tiến hành đề xuất một vài kiến nghị để có thể phần nào giải quyết tình trạng lạm phát hiện
nay.
Ngoài phần mở đầu và kết luận và kiến nghị chính sách thì kết cấu của bài nghiên
cứu được chia làm:

1 : Tổng quan những bài nghiên cứu trước
2: Phương pháp nghiên cứu
3: Nội dung các kiểm định
4: Kết quả nghiên cứu
5: So sánh và lựa chọn mô hình
6: Kết luận và kiến nghị
2) Tổng hợp các bài nghiên cứu trƣớc đây
Nghiên cứu ban đầu về ERPT được thực hiện bằng cách ước tính độ co giãn của
cung và cầu xuất nhập khẩu trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, phương pháp đo
lường này gặp phải rất nhiều vấn đề lớn. Phương pháp này không hề xét đến thời gian,
và cũng bỏ qua một số yếu tố quan trọng khác nữa. Gần đây, rất nhiều bài nghiên cứu
thực nghiệm đã cung cấp bằng chứng thống kê rằng việc truyền tải của tỷ giá hối đoái là
không hoàn toàn tại các mức giá khác nhau. Điều này có thể là do cơ cấu thị trường (cạnh
tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo), sự khác biệt sản phẩm, và những ảnh
8



hưởng của các rào cản thương mại,… Kết quả là, ERPT của tỷ giá hối đoái có xu
hướng thay đổi đáng kể trên một phạm vi rộng của các nước và các ngành công nghiệp.
Taylor(2000) lần đầu tiên xác định sự suy giảm trong ERPT là do môi trường lạm
phát thấp bằng cách sử dụng một mô hình kinh tế hoàn toàn phù hợp với mô hình kinh tế
vi mô để minh họa làm thế nào một sự thay đổi mạnh của giá ảnh hưởng đến sản lượng
và lạm phát, và kết quả cho thấy rằng lạm phát thấp dẫn đến ERPT thấp.
Một nghiên cứu thứ hai của Choudhri và Hakura ( 2001) đã thử nghiệm các giả
thuyết được đề xuất bởi Taylor (2000).Một cơ sở dữ liệu lớn từ năm 1979-2000 cho 71
nước được sử dụng để ước tính mối quan hệ giữa ERPT và tỷ lệ lạm phát trung bình giữa
các quốc gia. Nghiên cứu ủng hộ mạnh mẽ mối quan hệ dương và có ý nghĩa giữa tỷ
lệ lạm phát và ERPT qua ước lượng. Vì vậy, kết quả này là rất quan trọng cho các nhà
hoạch định chính sách trong việc thiết kế các quy tắc chính sách tiền tệ.

Campa và Goldberg (2002) nghiên cứu hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đến giá vào
giá nhập khẩu của 25 nước OECD. Họ sử dụng dữ liệu hàng quý 1975-1999 ước tính độ
co giãn của ERPT. Họ cung cấp dữ liệu cụ thể về ngành công nghiệp vật liệu PCP hoặc
LCP nhập khẩu. Trong ngắn hạn, ERPT là không hoàn toàn với cả PCP và LCP. Về lâu
dài,mức độ của ERPT là gần một. Mặc dù các biến kinh tế vĩ mô như lạm phát và tiền tệ
đóng vai trò quan trọng nhưng có vai trò hạn chế trong việc giải thích mức độ tác động
hoàn toàn của ERPT.
Hơn nữa, Campa, Goldberg, và Gonzalez-Minguez (2005) trình bày một phân tích
thực nghiệm của hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá vào giá nhập khẩu giữa các nước châu
Âu và những bài khác trong vòng mười lăm năm qua. Họ kiểm tra các thay đổi cấu trúc
trong việc truyền dẫn của sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Kết quả của họ cho thấy trung bình
ERPT vào giá nhập khẩu thì cao trong ngắn hạn, khoảng 66%. Về lâu dài, hiệu ứng
trung chuyển tỷ giá đến giá cao hơn so với ngắn hạn, khoảng 80%. Không có bằng
chứng thống kê thuyết phục nào có thể phá vỡ cấu trúc trong việc truyền tải này, ngoại
trừ trong trường hợp của một số ngành công nghiệp chế tạo.
9



Ito, Sasaki, và Sato (2005) xem xét tác động ERPT đến giá trong nước giữa các
nước Đông Á bằng cách sử dụng phương trình mẫu theo quy ước và phân tích VAR. Họ
xác định những cú sốc về cấu trúc , và kiểm tra mỗi cú sốc đến giá trong nước. Phân tích
cho thấy giá nhập khẩu phản ứng nhiều nhất với sự thay đổi của tỷ giá, tiếp đến là giá cả
sản xuất(PPI), và cuối cùng, chỉ số giá tiêu dùng bị ảnh hưởng ít nhất. Các kết quả vẫn
còn phù hợp với nghiên cứu trước đây như McCarthy (2000) và Hahn (2003) điều tra hệ
số ERPT đến các loại giá khác nhau ở các nước phát triển. Mc Carthy và Hahn cố gắng
để kết hợp cả ba biến giá cả (giá nhập khẩu, giá sản xuất, giá tiêu dùng) trong mô hình
VAR. Tuy nhiên Ito, Sasaki và Sato (2005) chỉ sử dụng một biến giá trong các mô
hình VAR. Năm biến nội sinh trong mô hình VAR bao gồm giá dầu, nguồn cung tiền, tỷ
giá hối đoái danh nghĩa, hố cách sản lượng và giá cả trong nước. Nhìn chung, kết quả của

họ cho thấy rằng mức độ ERPT của tỷ giá đến giá nhập khẩu là khá cao và chỉ số giá tiêu
dùng thì chỉ ở mức thấp.
Gần đây, Ca 'Zorzi, Hahn và Sánchez (2007) kiểm tra mức độ của hiệu ứng truyền
dẫn của tỷ giá đên giá đến giá bằng cách sử dụng mô hình VAR trong 12 thị trường mới
nổi ở châu Á, châu Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Mô hình sử dụng dữ liệu quý từ
năm 1975 đến 2004. Mô hình cơ bản bao gồm sáu biến chỉ số giá dầu, outputgap, tỷ giá
hối đoái, chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá tiêu dùng và lãi suất ngắn hạn. Kết quả chính
của phân tích xung lực là mức độ ERPT có tỷ lệ cao hơn đối với giá nhập khẩu, thấp hơn
so với giá tiêu dùng.
Tại châu Á, hệ số ERPT đến chỉ số giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp sau bốn và
tám quý. Tại Nhật Bản, ERPT đển chỉ số giá tiêu dùng được tìm thấy là rất nhỏ sau
bốn và tám quý.
Đối với Hoa Kỳ, thì ERPT là rất thấp ở cả về giá nhập khẩu và giá tiêu dùng.
Ngoài ra, kết quả chứng minh rằng ERPT vào cả hai giá nhập khẩu và giá tiêu
dùng của các nước thị trường mới nổi lúc nào cũng cao hơn so với các nước phát
triển bằng cách so sánh ERPT qua dự báo trước cho nền kinh tế mới nổi. Nghiên cứu
10



cũng tìm thấy bằng chứng của một mối tương quan dương giữa ERPT và lạm phát. Hầu
hết các nước dường như đều dựa vào giả thuyết của Taylor loại trừ Thổ Nhĩ Kỳ và
Argentina, là hai nước có siêu lạm phát nhưng tỷ lệ ERPT lại rất thấp. Cuối cùng, nghiên
cứu ước tính các mối quan hệ giữa mức độ mở và ERPT. Và nó chỉ tìm thấy bằng chứng
khá yếu của một mối quan hệ dương có ý nghĩa thống kê giữa chúng.
Tóm lại, ta thấy rằng các nghiên cứu trên hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đến giá có
thể được phân chia thành ba loại:
1) Danh mục đầu tiên bao gồm các nghiên cứu tập trung vào kiểm tra ERPT
vào giá nhập khẩu cho các ngành công nghiệp cụ thề (ví dụ, Feimberg, năm 1989 và
Goldberg 1995).

2) Dạng thứ hai bao gồm các nghiên cứu kiểm tra mức độ ERPT vào giá nhập
khẩu tổng hợp (ví dụ như Hooper và Mann- 1989, và Campa và Goldberg – 2002).
3) Loại thứ ba nghiên cứu kiểm tra hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đến giá
nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng ( ví dụ McCarthy, 2000; papell, 1994; Heng, 1999;
Kim, 1998)
Nhìn chung, thông qua những bài trước đó có thể kết luận rằng mức độ ERPT là
khác nhau giữa các nước và các ngành công nghiệp. Hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đến
giá không hoàn toàn vào giá nhập khẩu là phổ biến trong ngắn hạn và nó sẽ cao hơn
và gần bằng một trong dài hạn. ERPT đến giá nhập khẩu thì nhanh hơn nhiều hơn so
với chỉ số giá tiêu dùng. Hơn nữa, có bằng chứng mạnh mẽ thống kê rằng nhiều nước và
các ngành công nghiệp đã nghiên cứu ERPT trong vòng ba thập kỷ qua. Tuy nhiên, hầu
hết các nghiên cứu này chỉ tập trung vào các nước phát triển hoặc nền kinh tế lớn mà rất
hiếm bài nghiên cứu về vấn đề này ở các nước đang phát triển của châu Á.
Riêng với Việt Nam, viêc nghiên cứu hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đến đến các
mức giá cũng rất hiếm, chỉ có một vài bài nghiên cứu vì gặp rất nhiều hạn chế trong
chuỗi số liệu cũng như khó khăn trong việc đưa một vài biến vĩ mô khác vào phương
trình như bài nghiên cứu của Nguyen Thi Cam Nhung (2007), Nguyen Thuy Vinh
11



(2007), VoVan Minh (2009) trong nghiên cứu về tác động ERPT tại Việt Nam với chuỗi
số liệu tháng từ 1/2001 đến 2/2007 cũng chứng minh được việc phá giá đồng Việt Nam
tạo ra tác động không hoàn hảo lên giá nhập khẩu và lạm phát CPI, tuy nhiên, mức độ tác
động không lớn, khoảng 8% thay đổi của tỷ giá được truyền vào giá tiêu dùng trong
khoảng thời gian 1 năm đầu kể từ khi xảy ra cú sốc phá giá. Và đặc biệt là bài nghiên
cứu gần đây của Nguyen Dinh Minh Anh*,Tran Mai Anh** và Vo Tri Thanh(2010) với
kết quả là hệ số ERPT là 0.07 sau 2 tháng kể từ cú sốc đầu tiên đến tỷ giá hối đoái và
cũng cho ta biết được nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao chính là do cung tiền, và phát
hiện ra lãi suất VNĐ là một công cụ hữu ích để kiềm chế lạm phát. Hay bài nghiên cứu

của Nguyễn Phi Lân (2010) với chuỗi số liệu từ 1998 - 2009 về cơ chế truyền tải chính
sách tiền tệ cũng cho thấy tương quan tỷ lệ thuận giữa tỷ giá và lạm phát mặc dù khả
năng giải thích của tỷ giá đối với lạm phát là khá ít, 5% sau 12 tháng và 8% sau 24 tháng.
Và giờ đây, bài viết này cũng sẽ tập trung xem xét xem hiệu ứng truyền dẫn của
tỷ giá đến giá ảnh hưởng đến giá cả như thế nào? Mức độ và thời gian ra sao? Trật tự nào
của các biến là phù hợp? Để từ đó đề ra những biện pháp khắc phục lạm phát tại Việt
Nam
3) Phƣơng pháp nghiên cứu
3.1 Khuôn khổ lý thuyết
3.1.1) Phƣơng trình cơ bản
Trong phần này chúng ta thảo luận một số vấn đề lý thuyết trong mô hình đo
lường mức độ truyền dẫn của tỷ giá hối đoái ( ERPT) và mối quan hệ giữa giá cả trong
nước mà ở đây đại diện là giá nhập khẩu, giá nhà sản xuất và giá tiêu dùng với tỷ giá hối
đoái hiện tại.
Theo các bài nghiên cứu trước đây về mô hình đo lường mức độ truyền dẫn của tỷ
giá hối đoái, phương trình đo lường được xây dựng dựa trên các quan niệm của quy luật
một giá (LOOP) theo giả định của luật một giá, giá nhập khẩu tính bằng nội tệ (
im
t
p
)bằng
12



với giá nhập khẩu tính bằng ngoại tệ (
ex
t
p
) nhân với tỷ giá hối đoái của nước nhập khẩu

đó (E
t
).
im
t
p
= E
t.

ex
t
p
(1)
Giá
ex
t
p
được nhà sản xuất nước ngoài xác định dựa trên chi phí sản xuất và hệ số
dôi so với chi phí biên ( mark- up).được xác định bởi phương trình:
ex
t
p
=
.
t

C
t
*
(2)

Kết hợp phương trình (1) và (2) ta có
im
t
p
= E
t.

.
t

C
t
*
(3)
Trong đó
.
t

là hệ số dôi ( markup). Là phần giá tăng thêm so với chi phí biên của nhà sản
xuất.Hệ số dôi phụ thuộc vào áp lực cầu của nước nhập khẩu. áp lực này có thể được đại
diện bởi GDP thực của nước nhập khẩu.
C
t
*
là chi phí của nhà sản xuất của nhà xuất khẩu
Lấy logarit hai vế phương trình (3) ta được
im
t
p
= α

1
.
t

+ α
2
. C
t
*
+ α
3
.e
t
(4)
Hệ số ERPT được dại diện bởi hệ số α
3.


một phần độ co giản của giá nhập khẩu
đối với tỷ giá hối đoái. Tác động truyền dẫn của tỷ giá hối đoái được gọi là hoàn toàn khi
α
3
=1 và không có ảnh hưởng khi α
3
=0. Trong thực tế mức độ truyền dẫn thì không hoàn
toàn ( 0< α
3
<1). Phương trình (4) được điều chỉnh bằng cách thêm hệ số độ trể và được
ước lương bằng cách sử dụng các phương trình hồi quy đơn giản sẽ được đề cập ở phần
3.4. Bên cạnh ước lượng mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu, bài

nghiên cứu còn ước lượng mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái vào giá tiêu dùng.
13



3.1.2) Độ nhạy cảm của giá cả trong nƣớc đối với cú sốc tỷ giá
Các bài nghiên cứu trước đây về ERPT cho thấy mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá
hối đoái vào giá nhập khẩu thì cao hơn đối với giá tiêu dùng ( theo Edwards (2006) và
Campa & Goldberg ( 2006), cũng tương tự như McCarthy( 2000), Hahn (2003) và Ito
et.al (2005), mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái là cao nhất đối với giá nhập khẩu,
tới trung bình giá sản xuất và cuối cùng là giá tiêu dùng.hiện tượng này có thể giả thích
bằng một số các yếu tố mà tập trung vào vai trò phân phối lợi nhuận và các đầu vào nhập
khẩu đối với độ nhạy cảm của giá trong nước đối với tỷ giá hiện tại. Campa & Goldberg
(2006) cho thấy rằng chi phí sản xuất thì nhạy cảm hơn đối với tỷ giá và giá nhập khẩu
khi họ dựa vào thành phần nhập khẩu, nhà cung cấp trong nước, nhà phân phối của đầu
vào nhập khẩu.chi phí phân phối cao và sự phụ thuộc thấp của đầu vào nhập khẩu gây ra
mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái đến giá tiêu dùng thấp.tuy nhiên, lợi nhuận
phân phối có thể dẫn đến độ nhạy cảm cao hơn trong giá tiêu dùng nếu đầu vào nhập
khẩu được sử dụng trong sản xuất hàng hóa không trao đổi.
Burstein, Eichenbaum & Rebelo ( 2002) phát hiện ra lạm phát trong giá tiêu dùng
thì thấp so với giá sản xuất khi tiền tệ mất giá. Như Campa & Golberg (2006) giải thích
rằng mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái đến CPI thấp do kênh truyền dẫn dài và tỷ
trọng các hàng hóa không nhập khẩu trong gói hàng hóa tính CPI. Bên cạnh đó, một số
mặt hàng không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu chỉ sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước, những
hàng hóa này thay thế cho hàng hóa nhập khẩu. Thứ ba là do trong nước người tiêu dùng
có thể chuyển đổi nhu cầu từ tiêu dùng hàng nhập khẩu sang dùng hàng trong nước trong
thời kỳ khủng hoảng hay tiền tệ mất giá.
3.1.3) Các yếu tố ảnh hƣởng đến ERPT
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ERPT bao gồm cả yếu tố vĩ mô và vi mô. Theo
An ( 2006) các yếu tố vi mô bao gồm: việc thiết lập giá cả thị trường, các yếu tố phân

khúc thị trường như chi phí vận chuyển và phân phối, hàng rào thuế quan và vai trò của
các công ty đa quốc gia, mức độ lợi nhuận đối với quy mô. Các yếu tố vĩ mô bao gồm:
14



lạm phát và tính dai dẵng của biến động tỷ giá hối đoái, môi trường chính sách tiền tệ, độ
mở của nền kinh tế.
Theo Krugman (1987) phân tích hiện tượng thiết lập giá cả thị trường, nhà cung
cấp nước ngoài có nhu cầu để giữ thị phần không đổi, chấp nhận lợi nhuận nhỏ hơn khi
tiền tệ nước nhập khẩu mất giá. Hành vi thiết lập giá cả như vậy ngụ ý rằng mức độ
truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái thấp.
Burstein et al (2001) cho thấy chi phí phân phối địa phương chẳng hạn như bán
buôn và bán lẽ chiếm 40% giá bán lẽ cuối cùng của bất kỳ hàng hóa nào. Khi những chi
phí này ít phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái điều này có thể làm giảm hệ số ERPT.
Yang (1997) và Olivei (2002) nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của quy mô cho thấy
rằng ERPT thì tỷ lệ nghịch với độ co giản của chi phí cận biên liên quan đến đầu ra, nếu
chi phí cận biên giảm , nhu cầu được kích thích cao hơn bởi giá giảm do sự tăng giá nội
tệ đưa đến chi phí thấp hơn và giá giảm, điều này ngụ ý ERPT cao
Các nhà cung cấp nước ngoài có khả năng điều chỉnh giá theo độ co giản của cầu
trong nước nhập khẩu. Độ co giản càng cao các doanh nghiệp càng ít có khả năng điều
chỉnh giá, ERPT thấp.
Taylor (2000) cho rằng môi trường lạm phát và sự dai dẵng của những cú sốc tỷ
giá là yếu tố quyết định ERPT. Chính xác hơn các công ty ít có khả năng điều chỉnh giá
của mình khi tỷ giá hối đoái thay đổi, lạm phát cũng được kỳ vọng biến động, nghiên cứu
này cũng tương đồng với Mann (1986) và McCarthy(2000).
Mối liên quan giữa lạm phát và ERPT cũng ngụ ý rằng chính sách tiền tệ cũng nên
có tác động đến sự truyền tải cú sốc tỷ giá hối đoái đến giá cả trong nước.
Gagnon và Ihrig (2004)cho thấy rằng các nước có chính sách tiền tệ dáng tin cậy và
chống lạm phát thì co ERPT thấp.

15



Độ mở của của nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến ERPT. Theo McCarthy (2000)
một nước nhỏ có ERPT cao hơn một nước lớn.Điều này là do sự sụt giảm lớn của nhu
cầu ở nước lớn trong phản ứng với sự tăng giá trong nước do tiền tệ mất giá.
3.2 Mô hình
Để đánh giá được tác động của tỷ giá đến giá cả trong nước như thế nào, chúng ta
sử dụng một mô hình Var được đề xuất bỡi McCarthy(2000). Hầu hết các nghiên cứu
trước đây sử dụng một phương trình đơn giản của mô hình Var để giải thích các phản ứng
của giá cả trong nước với những sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái( ví dụ, Olivei 2002,
Campa và Goldberg 2005, Campa, Goldberg and Gonzalez-Minguez, 2005, and Otani,
Shirasuka and Shirota, 2005). Mối quan hệ ERPT hầu như được hiểu là mối quan hệ
nhân quả từ tỷ giá đến giá cả trong nước. Tuy nhiên mối quan hệ nhân quả ngược lại từ
giá cả đến tỷ giá cũng không được bỏ qua. Theo đề nghị của mô hình tiền tệ chuẩn, ví dụ
như một sự gia tăng giá cả trong nước có nghĩa là tỷ giá tăng( nội tê mất giá). Vì thế, tốt
hơn chúng ta nên sử dụng mô hình mà trong đó cả tỷ giá hối đoái lẫn giá cả trong nước
đều là biến nội sinh. Đồng thời phương pháp Var này cũng thể hiện được tương tác nội
sinh giữa tỷ giá hối đoái và những biến vĩ mô khác, bao gồm cả giá cả trong nước. Ở
những bài nghiên cứu trước đây của McCarthy ( 2000), Hahn (2003) và Faruqee (2006),
họ đã áp dụng phương pháp Var để tính được mức độ ERPT tại các nước phát triển, đặc
biêt là Euro. Sato và Ito(2006) cũng áp dụng phân tích Var để tính hệ số ERPT ở các
nước Đông Nam Á. Trong khi đó, Belaish (2003) nghiên cứu cho Brazin và Leigh và
Rossi(2002) cho Thổ Nhĩ Kỳ.
Mô hình Var chuẩn có cấu trúc như sau:
Yt = c + A(L)Yt-1 + B(L) Zt +ut
Trong đó:
 Yt đại diện cho biến nội sinh (ΔOIL, GAP, ΔLSCK, ΔM2, ΔNEER, ΔIMP,
ΔCPI) ở thời kỳ t.

16



 Δ đại diện cho sai phân của các biến. Tất cả đều dùng sai phân bậc một,
ngoại trừ gap không lấy sai phân và CPI ở mức sai phân bậc hai.
 C là ma trận hằng số
 A(L) là ma trận hệ số vector tự hồi quy Var của các biến nội sinh trong độ
trễ L.
 B(L) là ma trận hệ số vector tự hồi quy Var của các biến ngoại sinh trong
độ trễ L
 Zt là vector biến ngoại sinh.
Theo mô hình Var của Ito and Sato, 2006 and McCarthy, 2006, trong những bài
nghiên cứu trước thì mô hình Var thường bao gồm những biến như sau:
Y = (ΔOILt, GAPt, Δ M1t, Δ NEERt, Δ IMPt, Δ PPIt, Δ CPIt), nhưng trong bài
này, chúng ta cũng sử dụng thêm biến lãi suất ( theo Hahn 2003), cụ thể là lãi suất chiết
khẩu. Hàm phản ứng của lãi suất ngắn hạn đến các biến khác trong mô hình được sử
dụng tương tự như trong mô hình mà ngân hàng trung ương sử dụng lãi suất ngắn hạn
trong chính sách tiền tệ của mình. Vậy tóm lại, mô hình này bao gồm những biến ΔOILt,
GAPt, ΔLSCKt, ΔM2t, ΔNEERt, ΔIMPt, ΔCPIt.
Trong đó:
 ΔOILt biểu thị giá dầu tính theo Brent Anh.
 Gapt biểu thị outputgap thời kỳ t.
 ΔLSCKt biểu thị lãi suất chiết khẩu thời kỳ t.
 ΔM2t cung tiền rộng M2.
 ΔNEERt tỷ giá hiệu lực danh nghĩa thời kỳ t.
 ΔIMPt chỉ số giá nhập khẩu thời kỳ t.
 ΔCPIt chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t.
Mục đích chính của bài này như đã nói ở trên, là nhằm ước tính tác động của tỷ
giá hối đoái và những cú sốc vĩ mô khác đến giá cả trong nước, và cũng có thể có sự

tương tác giữa chúng. Để tạo ra được những cú sốc về cấu trúc, chúng ta sử dụng một
17



phân hủy Cholesky của ma trận 𝛺 , một ma trận phương sai – hiệp phương sai của số dư
từ phương trình Var. Mối quan hệ giữa các số dư và nhiễu loạn cấu trúc được viết như
sau:
Đặt trong mối quan hệ so sánh với mức độ truyền dẫn cú sốc tỷ giá hối đoái đến
giá tiêu dùng và giá nhập khẩu của các nước công nghiệp ta thấy trong thời 6 thời kỳ đầu
hệ số ERPT đến CPI thì tương đối cao ở Việt Nam, tuy nhiên từ thời kỳ 12 trở đi hệ số
ERPT tương đối gần giống với trung bình các nước công nghiệp ở mức 0.08. Đối với
ERPT đến giá nhập khẩu thì ngược lại, ở những thời kỳ đầu, hệ số ERPT ở Việt Nam
tương đối thấp hơn so với trung bình các nước công nghiệp và từ thời kỳ 12 trở đi ERPT
đến giá nhập khẩu cũng gần với mức của các nước công nghiệp.

Sau khi ta đã lựa chọn mô hình Var thích hợp, ta cũng nên xem thử phương pháp
ước lượng mô hình Var như thế nào? Điều này cũng rất quan trọng, bới khi mô hình chạy
ra không phù hợp, thì ta cần xem xét lại các bước chạy mô hình Var để điều chỉnh thành
mô hình thích hợp. Và sau đây, ta sẽ thấy được những bước chính trong phương pháp ước
lượng mô hình Var:
 Xét tính dừng của các biến trong mô hình. Nếu các biến chưa dừng thì ta
nên tiến hành lấy sai phân để đưa dữ liệu về các chuỗi dừng.
 Lựa chọn độ trễ phù hợp
18



 Xem xét sự phù hợp của mô hình chạy ra( bằng cách kiểm định tính dừng
của phần dư). Nếu phần dư của mô hình chạy ra là dừng thì mô hình phù hợp với chuỗi

số liệu không và ngược lại.
 Lựa chon mô hình phù hợp.
3.3 Mô tả dữ liệu
Giá dầu: giá dầu đại diện cho cú sốc cung của nền kinh tế. Khi đó khi giá dầu biến
động sẽ ảnh hưởng đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng trong nước.Giá dầu được sử dụng
ở đây là giá Brend của Anh với đơn vị tính là usd/ bbl. Số liệu được lấy từ WorldBank
Data. Do chuổi số liệu là không dừng theo kiểm định ADF nên tôi lấy sai phân bậc nhất
logarit của giá dầu đã điều chỉnh theo mùa để thỏa mãn tính dừng của mô hình. Biến số
đưa vào là D(oil).
Lỗ hổng sản lƣợng : lỗ hổng sản lượng được hiểu là sự khác nhau của sản lượng
đầu ra và sản lượng tiềm năng. Lỗ hổng sản lượng dương cho thấy một sự lớn hơn trong
sản lượng đầu ra so với sản lượng tiềm năng, điều này ngụ ý nền kinh tế đang tăng trưởng
và có sự vượt quá cầu trong nền kinh tế. Sản lượng tiềm năng được tính toán dựa trên
phương pháp HP do Hodrick và Presscott đề xuất và được tích hợp trong phần mềm
eview. Theo đó GAP = y
t
– y
p.
trong đó y
t
là sản lượng đầu ra thực tế, Y
p
là sản lượng
tiềm năng được tính theo phương pháp HP. Do hạn chế về số liệu GDP theo tháng nên
bài viết sử dụng số liệu sản lượng công nghiệp để thay thế. Số liệu được điều chỉnh theo
mùa và lấy logarit trước khi tính sản lượng tiềm năng. Biến số đưa vào là Outputgap.
Lãi suất : lãi suất tôi sử dụng ở đây là lãi suất chiết khấu theo tháng, là công cụ
đại diện cho chính sách tiền tệ, số liệu được cập nhật từ nguồn số liệu của IFS.Số liệu
cũng được điều chỉnh theo mùa và lấy logarit. Sau đó lấy sai phân bậc nhất để đảm bảo
tính dừng của chuổi số liệu. Biến số đưa vào là D(lsck).

Cung tiền M2 : Tiền mở rộng M2 bao gồm tiền mặt, tiền gửi của các ngân hàng
thương mại tại ngân hàng trung ương, cộng với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Dữ liệu được
19



lấy từ IFS. Được điều chỉnh theo mùa và lấy logarit và sai phân bậc nhất.Biến đưa vào là
D(m2).
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ( NEER): Tỷ giá hối đoái (NEER): Tỷ giá hiệu dụng
danh nghĩa (NEER) được sử dụng vì phản ánh tốt hơn tỷ giá của Việt Nam với các đối
tác thương mại tương ứng. NEER được biểu thị dưới dạng VND/ngoại tệ. Vì thế, NEER
tăng nghĩa là VND sụt giá, và NEER giảm nghĩa là VND tăng giá. Tất cả dữ liệu tỷ giá
được lấy từ IFS. NEER được chuẩn hóa thành 100 năm 2005. Cách tính NEER theo công
thức sau:
NEER
j
=


N
i
Wi
ji
e
1
,
)(

Trong đó
N là số lượng đối tác thương mại chủ yếu với Việt Nam (gồm 20 nước: Nhật Bản,

Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Thái Lan, Úc, Hồng Kông, Đức, Malaysia,
Pháp, Indonesia, Anh, Hà Lan, Nga, Philippines, Thụy Sĩ, Ý, Bỉ, Ấn Độ).
e
i,j
là tỷ giá giữa VND với đồng tiền của đối tác thương mại i (tỷ giá danh nghĩa
song phương). Vì tỷ giá trực tiếp giữa VND và đối tác thương mại tương ứng không có
sẵn, bài nghiên cứu này sẽ chuyển đổi từ VND/USD và đồng tiền tương ứng/USD. Tất cả
tỷ giá là trung bình theo tháng.
W
i
là tỷ trọng thương mại (xuất khẩu + nhập khẩu) của quốc gia i với Việt Nam (tỷ
trọng của tỷ giá song phương).
j là kỳ thanh toán (tháng).
Sau khi tính toán NEER được lấy sai phân bậc nhất. Biến số đưa vào là D(neer).

20



Chỉ số giá nhập khẩu (IMP):
chỉ số giá nhập khẩu được Tính toán bằng cách biến đổi chỉ số giá nhập khẩu của
những đối tác thương mại với Việt Nam. Công thức tính như sau:

IMP=
wi
k
i
i
EXP


1
)(

Trong đó:
 EXPt là chỉ số giá xuất khẩu của đối tác thứ i.
 Wi là tỷ trọng giao dịch với đối tác thứ i với Việt Nam
Số liệu được lấy từ nguồn WorldBank và đã được điều chỉnh theo mùa. Biến số
đưa vào là D(imp).
Chỉ số giá tiêu dùng ( CPI): số liệu chỉ số giá tiêu dùng được lấy theo tháng từ
WorldBank và điều chỉnh theo mùa. Sau đó lấy sai phân bậc hai để chuổi số liệu đảm bảo
tính dừng. Biến số đưa vào là D(cpi,2).







21



4) Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
4.1 Kết quả kiểm định
4.1.1) Kiểm định tính đừng
Kiểm định nghiệm đơn vị ADF được sử dụng để kiểm tra tính dừng của chuỗi dữ
liệu. Kiểm tra tính dừng rất quan trọng , ví dụ như mô hình có thể sẽ bị hiện tượng ước
lượng giả mạo nếu giả thuyết dưới đây không được kiểm định:
H0 : Chuỗi dữ liệu không có tính dừng.
H1 : Chuỗi dữ liệu có tính dừng.

Như kết quả dưới đây cho ta thấy rằng hầu hết chuỗi dữ liệu của chúng ta đều
dừng ở sai phân bậc I, chỉ ngoại trừ outputgap là dùng ngay ở chuỗi gốc và với CPI thì
dừng tại sai phân bậc 2.

22



Chú thích:
*,**,*** biểu thị mức ý nghĩa 10%,5%,1%.
 Gía trị P- values được biểu thị ở trong ngoặc đơn
 Outputgap được tính từ phương pháp lọc chuỗi Hodrick-Prescott Filter
(HP)
Nguồn: Tính toán của tác giả.
4.1.2) Kiểm định độ trể
Việc lựa chọn độ trễ thích hợp cũng rất quan trọng trong việc hình thành mô hình
Var, vì nó là bước thứ hai không thể thiếu được. Chúng ta sử dụng các một vài kiểm
định như Sequential modified LR test statistic (LR), Final prediction error (FPE), Akaike
information criterion ( AIC), Schwarz information criterion (SC), Hannan-Quinn
information criterion (HQ) để lựa chọn độ trễ phù hợp.
Theo kết quả kiểm định độ trễ dưới đây kết hợp một vài kiểm định độ trễ khác
được trình bày tại phụ lục thì các độ trễ được đề nghị là 0, 1, 4. Thế nhưng, chiều dài độ
trễ được lựa chon là 4, vì một số lý do sau đây.
Thứ nhất, chiều dài độ trễ là 0 thì không hợp lý bởi vì các dữ liệu trong qua khứ
thường có ảnh hưởng nhất định đến giai đoạn tiếp theo và giá trị dự kiến trong tương lai,
nghĩa là việc dự đoán sẽ dựa trên giá trị hiện tại và quá khứ.
Thứ hai, các độ trễ có chiều dài nhỏ hơn thì thường tốt hơn, chất lượng của mô
hình sẽ cao hơn vì khi gia tăng chiều dài độ trễ sẽ làm cho các bậc tự do giảm, làm ảnh
hưởng đến chất lượng của dự toán, mà độ trễ đề nghị là 4 thì cũng tương đối nhỏ, nên ta
có thể chấp nhận được.

Đồng thời, nhìn vào kết quả ta thấy cả hai kiểm định AIC và LR đều đề nghị chiều
dài độ trễ ở mức 4 là phù hợp. Điều này cũng thương thấy trong nhiều nghiên cứu trước
23



đây với việc đề nghị chiều dài độ trễ khoảng 4-6 (ví dụ như 4 cho Taylor, 2000,
IMF (2003) và Lian (2006) Và độ trễ 4 thì cũng là thời gian hợp lý để những tác động
của cú sốc giá dầu, tỷ giá, khoảng cách sản lượng, chính sách tiền tệ có xu hướng tác
động sau 4 tháng

Nguồn: tính toán của tác giả
4.1.3) Kiểm định sự phù hợp của mô hình
Bước này đảm bảo mô hình nhận được là phù hợp với chuỗi dữ liệu. Trong phần
này, có rất nhiều phương pháp kiểm định, dưới đây ta sẽ dùng một vài kiểm dịnh như
nghịch đảo đơn vị gốc của đa thức đặc trung AR (the inverse roots of the characteristic
AR polynominal), kiểm định xem mô hình có hiện tượng phương sai sai số thay đổi bằng
kiểm định White Heterokedasticity, , hay kiểm tra có hiện tượng tự tương quan theo B -
G, và đặc biêt là kiểm định xem phần dư của mô hình có tính dừng. Và dưới đây là kết
quả của các kiểm định
24



Kiểm định nghịch đảo của đơn vị gốc đa thức AR
Bằng cách sử dụng kiểm định nghịch đảo đơn vị gốc của đa thức đặc trưng AR
(the inverse roots of the characteristic AR polynominal) để kiểm tra sự ổn định của mô
hình Var, và thông qua bảng kết quả (Phụ lục) kết hợp với hình dưới đây, ta thấy rằng
không có điểm nào nằm ngoài vòng tròn đơn vị . Như vậy, các sai số chuẩn trong các
phản ứng xung lực có thể tin cậy được.


Nguồn: Tính toán tác giả

-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
-1.5 -1.0 -0.5 0.0 0.5 1.0 1.5
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
25



Kiểm định phần dư mô hình

*** thể hiện mức ý nghiã 1%.
Nguồn: Tính toán tác giả
Sử dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị ADF. Ta thấy số dư của mô hình
dừng ngay ở chuỗi gốc với mức ý nghĩa 1%.
Tóm lại, qua tất cả những kiểm định đã trình bày ở trên, ta có thể kết luận rằng mô
hình đưa ra là khá phù hợp. Tiếp đến, ta sẽ qua bước thứ ba, là chạy mô hình và ghi nhận
kết quả.

×