Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.43 KB, 107 trang )

GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC NGƯỜI
TRƯỞNG THÀNH
TS. TRẦN THỊ THU MAI
Chỉ đạo tổ chức biên soạn giáo trình: TS. Nguyễn Kim Hồng, Hiệu
trưởng Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giáo trình: Số 1267/QĐĐHSPdo Hiệu Trưởng PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 27 tháng 5 năm
2013
Quyết định phê duyệt sử dụng giáo trình: số 1333/QĐ-ĐHSP do Hiệu
Trưởng PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 06 tháng 6 năm 2013
Mã số sách chuẩn quốc tế - ISBN: 978-604-918-049-1

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lí học người trưởng thành là một môn học cung cấp một số hiểu
biết cơ bản về điều kiện phát triển tâm lí và những đặc điểm tâm lí đặc trưng
của người trưởng thành. Từ đó, có cách nhìn đúng về các thuận lợi và khó
khăn của người trưởng thành, và có cách ứng xử phù hợp với họ. Qua môn
học này người học được hình thành những kiến thức: hiểu được các điều kiện
phát triển tâm lí của người trưởng thành, nhận diện và giải thích được sự
phát triển nhận thức, tình cảm, nhân cách… của người trưởng thành; những
kĩ năng: vận dụng những nét tâm lí đặc trưng của người trưởng thành để giải
thích các vấn đề ở lứa tuổi trưởng thành trẻ tuổi, trung niên và người cao
tuổi, tìm được các giải pháp thích hợp giải quyết các hiện tượng đặc trưng


của từng lứa tuối, sử dụng một số trắc nghiệm trong nghiên cứu về người
trưởng thành; và đồng thời hình thành thái độ yêu thích tìm hiểu tâm lí
người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm
lí học khi nghiên cứu, giao tiếp, ứng xử với người trưởng thành.
Quyển giáo trình Tâm lí học người trưởng thành này là sản phẩm kế


thừa các tư liệu của những nhà khoa học nghiên cứu về Tâm lí học người
trưởng thành và nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy, nhằm đáp ứng yêu cầu
giảng dạy, học tập và nghiên cứu cho sinh viên, học viên cao học, nghiên
cứu sinh các trường Đại học đối với môn Tâm lí học người trưởng thành.
Cấu trúc của giáo trình bao gồm 4 chương:
Chương 1: Lí luận chung về Tâm lí học người trưởng thành
Chương 2: Tâm lí học người trưởng thành trẻ tuổi
Chương 3: Tâm lí học người trung niên
Chương 4: Tâm lí học người cao tuổi
Lần đầu tiên, giáo trình Tâm lí học người trưởng thành được biên soạn
theo chương trình và phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ, chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp và chia sẻ của các nhà khoa học, quý đồng nghiệp và bạn đọc
để giáo trình tiếp tục được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn.
Tác giả
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH
1.1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thành
Từ khi Tâm lí học lứa tuổi trở thành một ngành khoa học độc lập vào
cuối thế kỉ thứ XIX, đầu thế kỉ XX đã xuất hiện những quan điểm nghiên cứu


về thanh niên: quan điếm phát sinh sinh học về sự phát triển chú ý chủ yếu
đến những yếu tố quyết định sinh học của sự phát triển, mà từ đó các thuộc
tính tâm lí - xã hội xuất phát hoặc tương hợp (S. Holl, A. Gezell), quan điểm
phát sinh xã hội hướng sự chú ý chủ yếu vào các quá trình xã hội hóa và vào
những nhiệm vụ mà xã hội đặt ra trong một giai đoạn đường đời phù hợp (K.
Levin), quan điểm phát sinh tâm lí lấy sự phát triển của các quá trình và
chức năng tâm lí riêng của học thuyết động thái - tâm lí của Erik Erikson. [2,
26-43]

Các nhà Tâm lí học nghiên cứu người trưởng thành có xu hướng làm
sáng tỏ những đặc điểm tâm lí lứa tuổi trưởng thành và tiến trình phát triển
nhân cách cá nhân qua các giai đoạn của người trưởng thành.
1.1.1. Đối tượng của Tâm lí học người trưởng thành
Đối tượng nghiên cứu của Tâm học người trưởng thành là các hiện
tượng tâm lý (quá trình tâm trạng thái tâm lí, thuộc tính tâm lí – phẩm chất
tâm trong từng giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành. Cụ thể, Tâm lí học
người trưởng thành nghiên cứu:
- Động lực của sự phát triển tâm lí người trưởng thành, làm rõ nguyên
nhân, điều kiện, các nhân tố gây ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự hình
thành và phát triển tâm lí con người trong mỗi giai đoạn của lứa tuổi trưởng
thành, chỉ ra nhân tố nào đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lí. Cụ
thể, đó chính là những điều kiện về thể chất, điều kiện sống và các dạng
hoạt động, những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình sống và hoạt động
của cá nhân trong từng giai đoạn của lứa tuổi trưởng thành.
- Những đặc điểm của các quá trình tâm lí và phẩm chất tâm lí của cá
nhân ở các giai đoạn khác nhau của người trưởng thành. Đây là cơ sở quan
trọng để từ đó, có cách nhìn đúng về các thuận lợi và khó khăn của người
trưởng thành, và có cách ứng xử phù họp với họ.


- Những quy luật hình thành và phát triển của các quá trình tâm lí và
nhân cách người trưởng thành, xem xét sự phát triển tâm lí của người trưởng
thành được phát triển ra sao. Việc tìm ra các quy luật phát triển tâm lí sẽ
giúp chúng ta thấy rõ được quá trình nảy sinh, hình thành và phát trien của
các hiện tượng tâm lí người trưởng thành, từ đó dự đoán trước được sự phát
triển hoặc lí giải được nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau trong từng giai
đoạn của lứa tuổi trưởng thành.
1.1.2. Nhiệm vụ của Tâm lí học người trưởng thành
Nhiệm vụ của Tâm lí học người trưởng thành là nghiên cứu những đối

tượng trên, từ đó rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách
người trưởng thành, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách người
trưởng thành; những biến đổi tâm lí của người trưởng thành dưới ảnh hưởng
của hoạt động học tập, lao động và cuộc sống của chính họ… Từ đó cung cấp
những kết quả nghiên cứu về mặt lí luận và ứng dụng cần thiết, để có sự
quan tâm thích đáng và thái độ phù hợp, tích cực khi nghiên cứu, giao tiếp,
ứng xử với người trưởng thành.
1.1.3. Ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thành
Việc nghiên cứu của Tâm lí học người trưởng thành có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Việc hiểu biết những đặc điểm tâm lí
con người ở từng giai đoạn khác nhau của lứa tuổi trưởng thành giúp chúng
ta biết cách cư xử, có thái độ thích hợp khi giao tiếp với họ. Nắm bắt được
những quy luật phát triển tâm lí sẽ giúp chúng ta theo dõi được sự phát
triển, dự tính trước sự phát triển, đồng thời phát hiện kịp thời những dấu
hiệu bất bình thường ở người trưởng thành, lí giải được nguyên nhân, từ đó
có sự hỗ trợ cần thiết để giúp đỡ họ.
Những kiến thức về Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học Sư phạm cũng sẽ
giúp chúng ta lí giải được những nguyên nhân thành công hay thất bại trong
giao tiếp, ứng xử với người trưởng thành, đặc biệt trong các quá trình dạy
học và giáo dục thanh niên, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục kịp thời,


giúp chúng ta xây dựng được những phương pháp giáo dục hiệu quả, thích
ứng với thanh niên.
Trở thành người lớn (người trưởng thành) là một trong những chuyển
tiếp quan trọng nhất trong các giai đoạn lứa tuổi của đời người, nhưng thật
khó ấn định chính xác sự chuyển tiếp này diễn ra khi nào. Các nghiên cứu về
tuổi trưởng thành sẽ định nghĩa về tuổi trưởng thành và các dấu hiệu của
tuổi trưởng thành.
1.2. Lí luận về tuổi trưởng thành

1.2.1. Khái niệm về tuổi trưởng thành
Khi nào thì một người đạt đến trưởng thành? Tính theo năm tuổi không
giúp ích gì trong trường hợp này, bởi vì một người có thể được xem là trưởng
thành ở tuổi 20 nhưng người khác mãi đến tuổi 40 vẫn không có hi vọng gì
về việc trưởng thành. Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được
xem xét cả trên bình diện Sinh học, Tâm lí học, Xã hội học.
Các nhà nghiên cứu dựa trên khả năng tính dục cho rằng, “nhận” và
“trao” tình yêu một cách đích thực và sâu sắc hoặc biết biểu lộ hành vi âu
yếm hay nhu cầu bản năng tính dục là biểu hiện của sự trưởng thành. Họ
cho rằng những cá nhân trưởng thành phải có ý thức về mục đích cuộc sống
của mình và khả năng duy trì nòi giống. Các nghiên cứu nhấn mạnh yếu tố
xã hội lại cho rằng, kết bạn, bị thu hút bởi người khác hay chăm sóc bản
thân trong mối quan hệ tâm lí là biểu hiện của sự trưởng thành.
Một cách xem xét sự trưởng thành nữa là sự vận dụng khả năng để
đương đầu tốt với những biến cố hay những quyết định mà hầu hết ai cũng
phải đối mặt cụ thế vài lần trong đời. Trong những giai đoạn của thuyết
Erikson, sự trưởng thành ở tuổi vị thành niên phải bao gồm việc hoàn thành
khi giải quyết các khủng hoảng tăng trưởng ở tuổi ấu thơ và thiếu niên, khả
năng tiến tới kết thân với người khác (khả năng tính dục), một vài người thì


lo lắng về vấn đề hướng dẫn con cái hay vấn đề truyền sinh (Whitboume và
Waterman, 1979). [32]
L. Hoffman & Manis (1979) xem xét sự trưởng thành là sự tự nhận
thức. Cái gì khiến con người ta cảm thấy mình trưởng thành? L. Hoffman và
Manis đã khảo sát với hơn 2.000 nam nữ có gia đình về đề tài: Đâu là sự
kiện quan trọng nhất trong đời mà làm họ cảm thấy họ thật sự trưởng thành.
Trở thành cha mẹ và việc nâng đỡ ai đó là dấu hiệu được họ thừa nhận nhiều
nhất cho sự trưởng thành (L. Hoffman và Manis, 1979). [32]
Thật khó khi định nghĩa về tuổi trưởng thành vì nó luôn biến đổi và

phức tạp. Sự trưởng thành cần đến một tiến trình điều chỉnh liên tục những
thay đổi không ngừng nơi ước muốn và tính trách nhiệm. Một người có thể
trưởng thành cho dù họ không lập gia đình, không con cái hoặc không công
việc nghề nghiệp. Người trưởng thành biết họ là ai, họ muốn đi đâu, họ
hướng đến mục đích gì.
Theo nghiên cứu của nhiều nhà Tâm lí học, Xã hội học, khái niệm tuổi
trưởng thành được xác định dựa theo một tổ họp các tiêu chí sau đây (Theo
Vũ Thị Nho, 2000):
- Sự chín muồi, về mặt sinh lí, thể chất nghĩa là sự hội tụ đầy đủ
những điều kiện sinh học để làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ, cũng như
làm một người lao động thực sự trong gia đình và xã hội.
- Có đầy đủ những quyền hạn và nghĩa vụ của một người công dân
như đi bầu cử, ứng cử, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi,
hoạt động của mình.
- Đã kết thúc việc học tập ở những mức độ khác nhau.
- Có nghề nghiệp ổn định.
- Có lao động để nuôi sống bản thân và gia đình.


- Đã xây dựng gia đình riêng (lấy vợ, lấy chồng).
- Có cuộc sống kinh tế độc lập không phụ thuộc vào cha mẹ hoặc
người đỡ đầu [12].
Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả trên
bình diện Sinh học, Tâm lí học, Xã hội học. Những công trình nghiên cứu cho
thấy sự chín muồi sinh học thường đi trước, sớm hơn tuổi chín muồi về tâm lí
và xã hội khá nhiều. Bởi vậy, dưới góc độ Tâm lí học mà xét, tuổi trưởng
thành toàn diện của con người thường đến chậm hơn 2, 3 năm. Không
những thế, khái niệm tuổi trưởng thành cũng còn tùy thuộc vào thời gian
đào tạo và trình độ học vấn. Đó cũng chính là lí do giai đoạn “người trưởng
thành trẻ tuổi” thường được lấy mốc từ 20 tuổi trở lên, chậm hơn chút ít so

với tuổi công dân (18 tuổi).
Dựa vào những tiêu chuẩn trên, những người không học lên Cao đẳng,
Đại học thì độ tuổi trưởng thành của họ thường từ 20 tuổi. Giai đoạn người
trưởng thành trẻ tuổi từ 18-20 đến 40 tuổi. Tóm lại, người trưởng thành là
những người có độ tuổi từ 20 trở lên và hiểu về chính mình một cách tương
đối cũng như xác lập mục tiêu cuộc đời trong một cái nhìn tổng thể.
1.2.2. Một số thuyết về tuổi trưởng thành
1.2.2.1. Thuyết động thái tâm lí của Erik Erikson
Theo Erik Erikson (1982) người trưởng thành trẻ tuổi là quãng đời
tương ứng với giai đoạn thứ 6 trong 8 giai đoạn phát triển của đời người:
Giai đoạn được đặc trưng bằng sự xuất hiện nhu cầu và năng lực gần gũi
thân thiết về mặt tâm lí với người khác, bao gồm cả sự gần gũi tình dục. Đối
lập với nó là tình cảm ẩn dật và thích cô độc (xem bảng 1). Khi người thanh
niên thắng được những đối chọi, thì họ có thể tự mình tiến tới đòi hỏi bản
thân sự hi sinh và chấp nhận. Họ có thể yêu người khác một cách không vị kỉ
nhiều hoặc ít hơn. Nấu mà sự "cô lập" thống trị trong sự tương quan với thân
mật thì mối quan hệ tình cảm sẽ trở nên lãnh đạm và gượng ép, và cũng


chẳng có sự giao lưu tình cảm thực sự nào. Con người ta có thể quan hệ tình
dục không phải với mục đích phát triển sự thân mật, đặc biệt khi anh ta hay
cô ta sợ rằng sợi dây tình cảm sẽ dẫn đến một quan hệ cam kết gò bó. Khi
hình thái quan hệ tình dục buông thả này định hình nên cuộc sống của một
người nào đó thì có lẽ vì họ cảm thấy tự do (Erikson & Hall, 1987).
Erikson cho rằng những khác biệt văn hóa ảnh hưởng đến tiến trình
tăng trưởng trong từng giai đoạn gặp phải. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu
đã tiến hành cuộc điều tra theo cơ cấu chiều dọc về tiến trình trưởng thành
tin rằng kết quả nghiên cứu của Erikson chỉ ảnh hưởng trên những nền văn
hóa nơi mà chủ nghĩa cá nhân được đề cao nhưng trách nhiệm công dân thì
không được xã hội lưu tâm một cách chặt chẽ (Vaillant & Milofsky, 1980).

Bảng 1. Các giai đoạn khủng hoảng của Erỉk Erikson
[Theo Nguyễn Văn Đồng - 4, 172-173]

Khủng hoảng

Kết quả không mong
đợi
thứ Hi vọng. Tin vào môi trường Sợ tương lai. Nghi ngờ.
Tin- và tương lai.

Năm
nhất
không tin
Năm thứ hai
Tự trị - xấu
hỗ, nghi ngờ

Kết quả mong đợi

Mong muốn. Khả năng thực
thi sự lựa chọn như sự tự
kiềm chế, cảm giác tự kiểm
soát và tự trọng dẫn đến
mong muốn tốt và tự hào.

Cảm giác mất tự chủ hoặc
bị người ngoài kiểm soát,
kết quả là xấu hổ và nghi
ngờ việc liệu cá nhân có
thể làm cái mình muốn

hoặc muốn cái mình đã
làm.
Năm thứ ba Nguyên nhân. Khả năng chủ Sợ trừng phạt. Tự hạn chế
đến năm thứ động hành động, chỉ ra hoặc phô trương sự bù trừ
năm
phương hướng và thưởng vượt mức.
Chủ động - thức sự đồng hành
được dẫn dắt
Năm thứ sáu Năng lực. Khả năng liên hệ Cảm giác không tương
đến tuổi dậy với thế giới kĩ năng và kĩ xứng và thấp kém
thì
xảo, thực thi sự khéo léo và


Cần cù - kém
cỏi.
Thanh niên
Nhận dạng lúng túng vai
trò xã hội
của cá nhân
Người trưởng
thành
trẻ
tuổi Gần gũi
- cô đơn
Người trung
niên
Sinh lực ngưng trệ

trí tuệ nhằm làm được việc

và làm tốt
Sự chuẩn xác. Khả năng nhìn Lúng túng về việc mình là
nhận bản thân như một cá ai.
nhân duy nhất và tích hợp để
duy trì tính kiên định.
Tình yêu. Khả năng đem bản Lẩn tránh tình yêu và lẩn
thân và nhận dạng bản thân tránh cống hiến cho tình
cống hiến cho người khác.
yêu. Xa lánh người khác.

Chăm sóc. Mở rộng khái
niệm về những gì do tình
yêu, nhu cầu và tai nạn tạo
ra. Vì con cái, công việc hoặc
lí tưởng.
Người
cao Sự thông thái. Phân tích
tuổi
được nội dung của bản thân
Sự sung mãn cuộc sống, hiểu được ý nghĩa
nỗi tuyệt và chân giá trị của cuộc
vọng
sổng, chấp nhận thực tế là ai
cũng phải chết.

Sống buông thả, buồn tẻ
và kiệt quệ trong quan hệ
liên nhân cách.
Ghê tởm cuộc sống, tuyệt
vọng vì phải chết.


1.2.2.2. Thuyết về những “mùa vụ” của Levinson
Một thuyết khác về các giai đoạn phát triển trưởng thành đã được lập
ra bởi Daniel Levinson (Levinson & cộng sự, 1978). Ông nói rằng thuyết này
miêu tả một cách sống động những “mùa của cuộc sống con người”. Ông
nhấn mạnh thuyết của mình được xây dựng trên thuyết tâm lí của Erikson.
Thuyết Levinson miêu tả sự tăng trưởng của người nam từ khoảng giữa tuổi
17, chú ý tới chuỗi trật tự luân phiên giữa giai đoạn định vị và giai đoạn biến
đổi. Trong những giai đoạn định vị, người nam ít nhiều có thể đạt những đích
điểm (của từng giai đoạn) một cách thanh thản bởi vì quá trình phát triển
thích hợp đã được giải quyết. Giai đoạn biến đổi có thể dẫn đến những thay
đổi chính yếu trong cấu trúc đời sống của họ. Vào những thời điểm này,
người nam đang có những khát vọng đến khuôn mẫu lí tưởng của đời sổng
họ, cũng như khám phá ra những khả năng mới nơi họ. Levinson đặt thuyết


của ông trên nền một chuỗi nghiên cứu sâu kín nơi 40 người nam (người Mĩ
da trắng cũng như người da đen, tầng lớp lao động cũng như tầng lóp trung
lưu).
Levinson thấy rằng lứa tuổi từ 17 đến 22 là giai đoạn của những thay
đổi hướng đến sự trưởng thành ban đầu. Trong tiến trình tăng trưởng, cũng
tựa như sự trưởng thành tính cách của Erikson, người nam không ngừng tiến
tới trong việc phát triển tâm lí độc lập với cha mẹ…Vào tuổi 22, họ độc lập
hoàn toàn và chuyển vào giai đoạn định vị khi họ ra sức đặt mình vào thế
giới tuổi trưởng thành. Cùng lúc này họ quan tâm đến việc thiết lập mối
quan hệ với người khác phái và dần kiến thiết một mái ấm; một gia đình giai đoạn phát triển tương giao thân mật, theo như các giai đoạn của
Erikson. Trong vòng 6 năm sau, lúc họ khoảng 28 tuổi, họ tiến vào một giai
đoạn biến đổi khác. Đây là thời khắc họ thấy được những lỗ hổng trong
khung hình mẫu của đời sống họ và họ tiến hành những chọn lựa mới. Rồi
vào khoảng tuổi 33, họ sẵn sàng yên vị. Có nghề nghiệp vững chắc là mục

đích chính của họ và người đàn ông tập trung vào phát triển những kĩ năng
cũng như đào sâu vốn kinh nghiệm. Đồng thời, họ cũng hoạt động để đạt
đến những ước vọng lớn lao mà họ đã từng đặt ra cho mình hoặc nồ lực đạt
đến một tổ chức liên doanh hay làm chủ một công ti nào đó…
Những cố gắng trong việc áp dụng thuyết của Levinson cho người nữ
cũng thu được những kết quả tương tự. Một vài thực nghiệm chỉ ra rằng
người phụ nữ cũng trải qua những giai đoạn như người nam ở tuổi thiếu
niên, và cũng vào cùng những thời điểm nhưng có một vài khác biệt. Sự
thay đổi của phụ nữ ở tuổi 30 thể hiện hình thức một khẳng định mới, khi họ
có khuynh hướng chuyển sang chú tâm đến việc chăm sóc gia đình (hoặc
ngược lại). Thay vì yên vị, ở tuổi 30 người phụ nữ nỗ lực hòa hợp những
quyết định mới vào guồng máy cuộc sống của họ.
1.2.2.3. Thuyết về “những biến động” của Gould


Roger L. Gould (1975, 1978) với thuyết phát triển ở tuổi trưởng thành
dành cho cả hai giới dựa trên số liệu nghiên cứu từ 524 người đàn ông và
phụ nữ được thực nghiệm thuộc tầng lớp trung lưu, da trắng ở Mĩ. Từ những
câu trả lời của họ trong bảng câu hỏi ở mọi khía cạnh, Gould kết luận rằng
tiến trình tăng trưởng ở tuổi trưởng thành phải trải qua một chuỗi những
biến động. Ở mỗi giai đoạn, con người phải khẳng định ý niệm phản thân,
đối mặt với khủng hoảng ấu thơ và giải quyết những xung đột.
Trong thuyết của Gould, người thành niên trải qua bốn giai đoạn. Ở
giai đoạn thứ nhất, bắt đầu trong khoảng từ lứa tuổi thiếu niên cho đến tuổi
22, con người đang dần hình thành tính cách và dần rời xa vòng tay của bố
mẹ. Với ý chí tự khẳng định, con người bước vào giai đoạn thứ hai, trong
suốt giai đoạn này thường chịu ảnh hưởng để đạt đến những mục đích của
mình. Giữa khoảng tuổi 28 - 34, con người phải trải qua giai đoạn chuyển
mình, trong giai đoạn này chúng gợi lại những mục đích khi xưa và thực hiện
việc lập gia đình. Vào tuổi 35, họ có những mâu thuẫn sâu sắc cùng với nhận

thức ra ngưỡng cửa của tuổi trung niên đang tiến gần họ một cách dữ dội.
Cuộc sống dường như đầy khó khăn, đau khổ và phiêu lưu. Trong suốt giai
đoạn bấp bênh - có khi kéo dài cho đến sau tuổi 40, dường như, có cái gì đó
đã “xé toang” một phần đời sống của họ và buộc họ phải đặt nó vào một lộ
trình mới. Người độc thân có thể lấy vợ, người có gia đình lại muốn li hôn,
người mẹ muốn đến trường hoặc trở lại làm việc, những cặp đôi luống tuổi
quyết định thành thân. Thuyết của Gould tương đương với thuyết “mùa vụ
cuộc đời” của Levinson mà đặc biệt giống nhau khi áp dụng cho người phụ
nữ. Cả hai thuyết đều được triển khai cùng một thời điểm - thập niên 1970 Levinson nghiên cứu về người đàn ông ở vùng Tây Bắc Hoa Kì còn Gould thì
lại nghiên cứu nam nữ ở California [35].
1.2.2.4. Thuyết “nhu cầu làm cha mẹ” của Gutmann


Trong những năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu về sự phát triển đã
đưa ra một số thuyết về sự tăng trưởng ở thanh niên đặt nền trên mối liên
hệ giữa thuyết tiến hóa sinh học và hình thái âu yếm và nuôi nấng con cái.
Phần đông việc làm này tập trung vào ý kiến cho rằng sự sống sót của loài
phụ thuộc vào sự bảo tồn và nuôi nấng thế hệ sau cho tới khi chúng vào tuổi
sinh sản, sự tăng trưởng của con người có lẽ cũng ảnh hưởng theo qui luật
này. Theo thuyết tăng trưởng của David Gutmann (1987), sự tăng trưởng
xét cho cùng cũng xoay quanh nhu cầu làm cha mẹ của con người. Ông ta
cho ràng mọi thế hệ đã tiến hóa sinh ra những trẻ nam nữ với tính cách đảm
bảo được độ hoàn thiện về thể chất và tình cảm nơi con cháu. Trong xã hội
sơ khai, người cha với uy lực, độc đoán, giáo dục con cái mình theo một cách
áp đặt. Với sự chăm sóc, đồng cảm, dịu hiền và thông hiểu khiến cho người
mẹ dễ gần con cái và luôn đạt được độ tin cậy thân tình.
Theo Gutmann, sự tiến triển chỉ thể hiện tiềm năng trong những vai
trò của từng giới. Qua những năm tháng sống trong cộng đồng, người nam
hay người nữ sẽ trở nên tự nhiên với đặc điểm bề ngoài và cảm thấy thú vị
về chính họ. Khi họ trở thành cha mẹ thì những ông bố sẽ có nét gia trưởng

hơn, quan tâm của họ là sự yên ổn cho gia đình (thể chất và kinh tế). Vì một
ông bố ỷ lại, thụ động, nhu nhược sẽ gây khó khăn trong khả năng mang lại
cho gia đình những nhu cầu cần thiết hoặc trong việc nuôi dưỡng con cái,
người đàn ông phải loại trừ mọi nguy cơ dẫn đến sự lệ thuộc và nhu nhược.
Những bà mẹ mới cũng trở nên hiền mẫu đích thực, mối bận tâm của họ là
chăm sóc và nuôi nấng đàn con. Vì một người mẹ dữ dằn, thiếu lòng yêu
thương sẽ gây tổn thương cho con cái hoặc trấn áp chồng mình. Người mẹ
phải ra sức loại bỏ những nguy cơ trở thành một bà mẹ quyết đoán, khắt
khe và nóng nảy cho đến khi con cái họ trở thành thanh niên rời bỏ gia đình
để khẳng định vai trò của mình mà bấy lâu nay vốn bị chôn vùi trong những
quan tâm của cha mẹ.


Mặc dù thuyết của Gutmann có ý dùng cho mọi chế độ xã hội trong
mọi giai đoạn lịch sử, nhưng quả thực nó giới hạn trong xã hội hiện đại nơi
mà vai trò cha mẹ không còn quan trọng nữa. Khi những ông bố bà mẹ chia
sẻ cùng con cái trong việc cung cấp những nâng đỡ vật chất, sự chăm sóc
cũng như sự an toàn tâm lí, tình cảm; tuổi làm cha mẹ có lẽ yêu cầu những
thay đổi lớn trong trách nhiệm và cá nhân ít hơn như theo đề nghị của
thuyết Gutmann.
Các quan điểm của các lí thuyết được nêu ở trên nói lên sự bắt đầu của
tuổi trưởng thành tùy thuộc nhiều vào yếu tố văn hóa và tâm, sinh lí, trong
đó việc tự xác định mình như người lớn dựa vào nhận thức của cá nhân, liệu
cá nhân có đáp ứng các tiêu chuẩn quan trọng liên quan hay không trở
thành một tiêu chí cực kì quan trọng.
1.3. Sự phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành
1.3.1. Các tiêu chí phân chia lứa tuổi người trưởng thành
Các nhà Xã hội học thường phân chia giai đoạn lứa tuổi chủ yếu dựa
trên sự thay đổi vị trí xã hội và hoạt động xã hội của cá nhân, đồng thời chú
ý nhiều vào những thuộc tính (phẩm chất) của từng giai đoạn của lứa tuổi

người trưởng thành với tư cách là một nhóm dân cư - xã hội. Các giai đoạn
lứa tuổi của con người còn chửa đựng sự kế thừa tâm lí xã hội. Sự kế thừa
tâm lí là sự tiếp nhận các kinh nghiệm xã hội, các đặc điểm tâm lí của thể hệ
hiện tại đối với các thế hệ trước đó. Sự kế thừa tâm lí giúp cho cá nhân thích
nghi với các nhóm xã hội tốt hơn và nó cũng chính là biểu hiện của sự điều
chỉnh xã hội.
Các giai đoạn lứa tuổi không những chỉ ra lứa tuổi tính theo thời gian
và mức độ phát triển nhất định của cá thể về mặt sinh lí và tâm lí mà còn chỉ
ra vị thế xã hội nhất định, địa vị và hoạt động xã hội, đặc trưng cho một lóp
lứa tuổi nào đó. Ở đây ta thấy có mối liên hệ ngược. Một mặt, con người ở
lứa tuổi khác nhau (đằng sau đó là trình độ phát triển tương ứng) sẽ khác
nhau về năng lực thực hiện các chức năng xã hội (vai trò). Ví dụ, thời hạn


trưởng thành về mặt sinh học và về mặt xã hội quyết định lứa tuổi kết hôn
theo luật pháp, quyết định tuổi trưởng thành của người công dân… Mặt khác,
các quyền lợi và nghĩa vụ, tính chất của những hoạt động gắn liền với một
giai đoạn lứa tuổi nào đó sẽ quyết định vị trí xã hội thực tế của những người
đang ở giai đoạn lứa tuổi đó, sự tự ý thức của họ và mức độ của những khát
vọng. Việc phân chia cuộc đời người ra từng giai đoạn bao giờ cũng bao gồm
yếu tố định mức - giá trị, việc chỉ ra những nhiệm vụ nào mà cá thể đã đạt
tới một lứa tuổi nào đó phải giải quyết nhàm di chuyển một cách kịp thời và
có kết quả sang một giai đoạn sống tiếp theo và một giai đoạn lứa tuổi tiếp
sau. [2, 9]
Như vậy, dựa vào khái niệm tuổi trưởng thành và các thuyêt tâm lí về
tuổi trưởng thành chúng ta có thể dựa vào các tiêu chí về sự trưởng thành về
mặt sinh lí, tâm lí và xã hội của cá nhân để phân chia lứa tuổi người trưởng
thành theo các giai đoạn lứa tuổi khác nhau.
1.3.2. Các giai đoạn lứa tuồi người trưởng thành
Nghiên cứu lứa tuổi người trưởng thành chúng ta phải xem xét sự phát

triển các hiện tượng tâm lí của người trưởng thành trong mối liên hệ với quá
trình thực tế của đời sống và hoạt động của cá nhân trong những điều kiện
xã hội - lịch sử và những điều kiện khác của sự phát triển cá thể
Dựa vào các tiêu chí trưởng thành về mặt sinh lí, tâm lí và xã hội có
thể phân chia tuổi người trưởng thành theo các giai đoạn sau:
- Người trưởng thành trẻ tuổi - early adulthood (20 - 40 tuổi),
- Người trung niên - middle age (40 - 60 tuổi),
- Người lớn tuổi - later maturiti (60 tuổi + ).
PHẦN TÓM TẮT
Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả trên
bình diện sinh học, Tâm lí học, Xã hội học.


Các quan điểm của các lí thuyết về tuổi trưởng thành nói lên sự bắt
đầu của tuổi trưởng thành tùy thuộc nhiều vào yếu tố văn hóa và tâm, sinh
lí. Trong đó việc tự xác định mình như người lớn, dựa vào nhận thức của cá
nhân, liệu cá nhân có đáp ứng các tiêu chuẩn quan trọng liên quan hay
không.
Dựa vào các tiêu chí trưởng thành về mặt sinh lí, tâm lí và xã hội có
thể phân chia tuổi trưởng thành theo các giai đoạn sau:
1. Người trưởng thành trẻ tuổi - early adulthood (20 - 40 tuổi)
2. Người trung niên - middle age (40 - 60 tuổi)
3. Người cao tuổi - later maturiti (60 tuổi +).
Câu hỏi thảo luận
1. Tại sao nói đối tượng nghiên cứu của Tâm lí học người trưởng thành
là các hiện tượng tâm lí (quá trình tâm lí, trạng thái tâm lí, thuộc tính tâm lí
- phẩm chất tâm lí) trong từng giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành?
2. Phân tích nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lí học người trướng thành
3. Nêu điểm khác nhau cơ bản của các thuyết tâm lí của tuổi trưởng
thành.

4. Dựa vào đâu để phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành.
Bài tập thực hành
Tìm hiểu những quan niệm của sinh viên về tuổi trưởng thành, các tiêu
chí phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành.
Khách thể: Chọn sinh viên trong những lớp mà anh chị đang giảng
dạy, hoặc sinh viên trong các cơ sở Giáo dục Đại học (trên 30 sinh viên).
Yêu cầu: Nêu được những quan niệm của sinh viên lựa chọn về tuổi
trưởng thành, các tiêu chí phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành
Cách thực hiện:


- Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến sinh viên. Có thể sử dụng thêm
các phương pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu
tầm tài liệu….
- Thu thập và xử lí số liệu để viết báo cáo.
- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên
cứu.
Câu hỏi ôn tập
1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lí học người trưởng thành là
gì?
2. Trình bày tóm tắt các lí thuyết về tuổi trưởng thành và chỉ ra những
mặt ưu điểm và hạn chế của các lí thuyết đó.
3. Trình bày quan niệm về tuổi trưởng thành và sự phân chia giai đoạn
lứa tuổi người trưởng thành

CHƯƠNG 2: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI
Bắt đầu tuổi trưởng thành là một thời điểm trong đời khi chúng ta giã
từ thời thơ ấu và khát khao được trở thành người lớn. Đầu tuổi trưởng thành
là đỉnh điểm của quá trình phát triển cơ thể và sức khỏe. Đây cũng là thời
gian đánh dấu đỉnh điểm của một số khả năng nhận thức, và sự tiếp tục

phát triển của những khả năng khác. Người trưởng thành trẻ tuổi bao gồm 2
thời kì:
- Thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi (18 đến 25 tuổi), thời kì này
thanh niên bước vào học nghề ở các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học nên
còn được gọi tên là thời kì thanh niên sinh viên. Đây là thời điểm chúng ta
hoạch định, mơ ước về tương lai và suy nghĩ cuộc sống trong tư cách người
lớn phải là cuộc sống như thế nào.


- Thời kì thứ hai của người trưởng thành trẻ tuổi còn được gọi là thời kì
thành niên (sau 25 tuổi đến 40 tuổi) là thời kì lập thân và lập nghiệp cho
cuộc đời của mỗi người.
2.1. Một số điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của người
trưởng thành trẻ tuổi
2.1.1. Đặc điểm sự phát triển thể chất
Vào thời gian đầu của tuổi trưởng thành, hầu hết mọi người đều đạt
đến đỉnh điểm của sức khỏe, tốc độ và linh hoạt của thể chất. Đàn ông có
khuynh hướng tự hào về thân hình của họ, còn phụ nữ thì không. Khi 300
thanh niên nam nữ tuổi trung học được thăm dò lấy tỉ lệ về thể trạng. Nữ
sinh (không quá gầy) thấy họ lớn hơn chuẩn của bạn trai và càng to hơn so
với thân hình lí tưởng của chính phái đẹp (Fallon and Rozin, 1985). Nam sinh
(những bạn to lớn) thấy họ theo sau cả các bạn nữ lẫn hình thể chuẩn của
phái mạnh. Và cũng như thế đối với vấn đề thu hút giới tính, trong quan
niệm về tiêu chuẩn của giới này đối với giới kia, người nữ lí tưởng của đàn
ông thì béo hơn người nừ bên ngoài và người đàn ông lí tưởng trong mắt
người nữ thì lại gầy hơn người nam bên ngoài.
Lúc người thanh niên đã đạt đến điểm hoàn thiện thể chất ở tuổi
trưởng thành, cũng là lúc nhiều dấu hiệu của lão hóa bắt đầu xuất hiện.
Trong khoảng tuổi 20, người ta đã có ít nhiều những thay đổi ảnh hưởng đến
sự phát triển của cơ thể con người (A.Spence, 1989). Đặc điểm của cơ bắp

và sức khỏe đạt đến điểm hoàn thiện ở độ tuổi 20-30, rồi sau đó giảm xuống
dần. Độ tinh nhạy của tai và mắt cũng bẳt đầu giảm xuống ở độ tuổi 20. Nếp
nhăn đầu tiên xuất hiện ở đuôi mắt và da bị lão hóa, đặc biệt đổi với những
người có nhiều tàn nhang. Tia cực tím tiêu diệt DNA và các tố chất bảo vệ
da, và vì thế chúng làm chậm lại tiến trình phục hồi của da, dẫn tới da bị
mỏng và nhăn nheo (Perlmutter& Hall, 1992).
Những thay đổi cũng xảy ra bên trong cơ thể. Mặc dầu trọng lượng
không thay đổi, nhưng qua cuộc điều tra về tuổi thanh niên cho thấy lượng


tế bào trong cơ bắp bắt đâu giảm. Ngoài ra lượng khí vận chuyển vào phổi
trong mỗi lần hít thở cũng có dấu hiệu giảm sút ở tuổi hai mươi và giảm
trung bình 1% mỗi năm; cũng như thế đổi với tỉ lệ lọc máu của thận (Vestal
& Dawson, 1985). Những dây động mạch cũng bắt đầu già với sự xuất hiện
của các màng mỡ thô, vàng nơi thành động mạch nơi những người có hội
chứng xơ vữa cứng động mạch. Việc kiêng khem ngặt nghèo hoặc thiếu tập
thể dục sẽ thúc đẩy sự phát triển những căn bệnh kinh niên sẽ xuất hiện ở
tuổi trung niên và tuổi già.
Một vài người trẻ lo lắng về những thay đổi này, khi mà có nhiều người
ở tuổi 30 thấy xuất hiện vài sợi tóc bạc. Có lẽ do thiếu quan tâm mà một
phần là vì kém hiểu biết về sự phát triển thể chất của con người đã đạt đến
mức hoàn thiện ở tuổi 25 - 26 (nữ sớm hơn nam khoảng 2 năm) như: Trọng
lượng não đạt mức tối đa, số lượng nơ-ron thần kinh lên tới mức cao nhất
(14 - 16 tỉ), với chất lượng hoàn hảo nhờ quá trình myelin hóa cao độ, số
lượng xi-nap của các tế bào thần kinh đảm bảo cho một sự liên lạc rộng
khắp, chi tiết, tinh tế và linh hoạt giữa vô số kênh làm cho hoạt động của
não bộ trở nên nhanh, nhạy và chính xác đặc biệt so với các lứa tuổi khác.
Những biểu hiện về giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ
xương, cơ bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mĩ ở người thanh niên; Các tổ chất về
thể lực: sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh và

nhìn chung thường kéo dài đến độ tuổi 26. Vì vậy thanh niên thường nổi trội
trong những môn thể thao đòi hỏi phản ứng nhanh, tốc độ và khỏe mạnh,
chẳng hạn như trong môn chơi bóng rổ, đấu võ đài, tennis, trượt tuyết, bóng
chày (Schulz & Cumow, 1988). Sau tuổi 25 - 26, mọi sự phát triển về thể
chất đều dừng lại và khoảng 30 tuổi thì bắt đầu có sự đi xuống, đó là lí do
mà hầu hết các vận động viên chuyên nghiệp bắt đầu cảm thấy có tuổi khi
họ bước vào tuổi 30.


2.1.2. Điều kiện sống, hoạt động và vai trò xã hội của người trưởng
thành trẻ tuổi
Xét về các điều kiện sống và hoạt động của người trưởng thành trẻ
tuổi cho thấy họ đang đứng trước những ngã rẽ của cuộc đời, người thì tiếp
tục đi học, người thì bắt đầu lao động kiếm sống… Đa số họ đều thiết lập dần
dần cuộc sống độc lập. Trong gia đình, họ được xem như là một thành viên
chính thức, được đối xử một cách công bằng như những người lớn thực thụ.
Ngoài xã hội, họ trở thành những thành viên chính thức của xã hội với đầy
đủ quyền hạn và nghĩa vụ công dân trước pháp luật.
Hoạt động chủ yếu ở giai đoạn lứa tuổi này là hoạt động nghề nghiệp.
Nếu chưa phải lao động kiếm sống thì sau khi tốt nghiệp phổ thông (trung
học cơ sở hay trung học phổ thông) họ thường tiếp tục theo học tại các cơ sở
đào tạo hệ Trung cấp, Cao đẳng, hoặc Đại học. Đa số những thanh niên này
chưa thể tự lập hoàn toàn. Đây cũng là một hạn chế nhất định ảnh hưởng
đến sự phát triển tâm lí của họ.
Hoạt động chủ yếu của thanh niên sinh viên là hoạt động học tập
chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai. Thanh niên sinh viên là những người
trưởng thành còn đang theo học ở các trường Đại học và Cao đẳng…, do vậy
điều kiện sống và các dạng hoạt động cơ bản của họ có những đặc trưng rất
riêng.
Trong các trường Đại học và Cao đẳng, họ là đại biêu của một nhóm

xã hội đặc biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức đế
trở thành chuyên gia ở một lĩnh vực nhất định của xã hội; là những người trẻ
tích cực, năng động, nhạy cảm với những thay đối của xã hội và dễ thích
nghi với sự thay đổi đó. Khoảng thời gian sinh viên lĩnh hội nền tri thức xã
hội trong môi trường Đại học - Cao đẳng… là thời điểm diễn ra quá trình xã
hội hóa rất nhanh, mạnh và đa dạng. Đây là thời điểm và là cơ hội để họ
định hình, phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Cần xenm xét


những điều kiện phát triển tâm lý của sinh viên thông qua những hoạt động
mà họ tham gia.
- Hoạt động học tập:
+ Nội dung học tập
Sinh viên phải tải trọng một nội dung học tập rất đáng kể, phong phú.
Khối lượng kiến thức chuyên ngành đa dạng, phức tạp (lĩnh hội hệ thống tri
thức kĩ năng, kĩ xảo chuyên ngành và phát triển những phẩm chất và năng
lực của người làm việc chuyên nghiệp ở tương lai).
Sự đòi hỏi của thực tiễn cho thấy song song với việc chuẩn bị những tri
thức lí thuyết thì việc chuẩn bị những kinh nghiệm thực tiễn và thao tác làm
việc là yêu cầu tối quan trọng. Hơn thế nữa, việc tiếp cận những kiến thức
chuyên ngành vẫn chưa đủ nên việc học hỏi những kiến thức liên ngành và
xuyên ngành để chuẩn bị làm việc thực tế là một cơ hội đáng quí cho độ
tuổi.
+ Phương pháp học tập
Những yêu cầu về học tập ở độ tuổi này đòi hỏi người sinh viên phải
độc lập, tự chủ, có ý thức đầy đủ và sáng tạo.
Ngoài ra, sự học của sinh viên là loại hoạt động trí tuệ đích thực, căng
thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt.
- Hoạt động chính trị xã hội:
Các hoạt động chính trị xã hội ở tuổi này là một điều kiện đặc biệt cho

sự phát triển tâm lí. Việc tham gia vào tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam đem lại những kinh nghiệm thực sự
quí báu để nâng cao tri thức tầm hiểu biết, tích lũy những kinh nghiệm sống
và hoàn thiện dần những kĩ năng cũng như xây dựng lí tưởng nghề nghiệp lí tưởng cuộc sống.


Ngoài ra, việc tham gia các tổ chức khác, các câu lạc bộ đội nhóm xã
hội - kĩ năng cũng là một điều kiện thú vị giúp thanh niên sinh viên thể hiện
mình và phát triển có định hướng hoặc phát triển toàn diện.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học:
Hoạt động nghiên cứu khoa học chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt
động học tập của sinh viên. Hoạt động này nhằm phát huy những tố chất
của một người trí thức lao động chuyên nghiệp với hệ thống quan điểm,
phương pháp luận và những phẩm chất - năng lực của một con người làm
việc có phương pháp và đam mê sáng tạo.
Đối với sinh viên, việc tham gia nghiên cứu khoa học ở nhiều hình thức
khác nhau đem đến những cơ hội mới để nhìn thấy mình và phát triển mình
ở đỉnh cao về nhân cách - nghề nghiệp.
- Hoạt động văn - thể - mĩ:
Việc tham gia các câu lạc bộ văn thơ, hội họa, âm nhạc, khiêu vũ, thể
hình, các cuộc thi… sẽ trở thành một điều kiện để sinh viên tự thể hiện và
điều chỉnh chính mình. Không ít sinh viên đã thực sự phát triển một cách
nhanh chóng bằng những bước tiến dài khi có những thành công ban đầu
trong hoạt động này.
- Hoạt động giao tiếp:
Hoạt động giao tiếp của thanh niên sinh viên đa dạng với nhiều mối
quan hệ đan xen. Trong những mối quan hệ khác nhau, họ trở thành thành
viên của các nhóm xã hội khác nhau. Đây cũng là một môi trường giúp sinh
viên phát triển các phẩm chất, hình thành những kĩ năng sống, kĩ năng mềm
hỗ trợ cho nghề nghiệp và cuộc sống.

Xét về vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi có rất nhiều quan
niệm khác nhau. Có thể đề cập đến một số quan niệm sau đây:


* Robert Havighurst (Mĩ) xác định vai trò xã hội của người trưởng
thành dựa trên các nhiệm vụ trọng tâm mà họ sẽ phải thực hiện. Và như vậy
theo ông, người trưởng thành trẻ tuổi có các vai trò xã hội sau [31]:
- Lựa chọn người bạn đời.
- Học cách sống với người bạn đời.
- Bắt đầu cuộc sống gia đình.
- Nuôi dạy con cái.
- Tổ chức gia đình.
- Bắt đầu một nghề nghiệp.
- Thực hiện trách nhiệm người công dân.
- Tìm nhóm xã hội tâm đầu ý hợp.
* Grace and Richard (2003) xác định vai trò xã hội của người trưởng
thành dựa trên các đặc trưng tâm lí lứa tuổi. Theo tác giả này, vai trò xã hội
của người trưởng thành trẻ tuổi khá phức tạp với những biểu hiện sau:
- Thích nghi với tâm lí sống cách xa cha mẹ.
(Psychological separation from parents)
- Chấp nhận trách nhiệm về thể chất của bản thân.
(Accepting responsibiliti for one’s own body)
- Trở nên quan tâm đến “lịch sử”, kinh nghiệm của bản thân và giới
hạn của thời gian ở bản thân.
(Becoming aware of one’s personal history and time limitation)
- Tích hợp kinh nghiệm tình dục đồng giới hay khác giới.
Integrating sexual experience (homosexual or heterosexual).


- Phát triển khả năng thể hiện tình cảm với vợ, chồng hoặc bạn tình.

(Developing ar capaciti for intimacy with a partner)
- Quyết định có con hay không.
(Deciding whether to have children)
- Có thể hiểu và thông cảm với trẻ con.
(Having and relating to children)
- Thiết lập những mối quan hệ người lớn với cha mẹ.
(Establishing adult relationships with parents)
- Đạt được những kĩ năng thích hợp.
(Acquiring marketable skills)
- Chọn lựa một công việc, nghề nghiệp phù hợp.
(Choosing a career)
- Sử dụng tiền bạc cho mục tiêu tương lai.
(Using money to further development)
- Đảm đương vai trò xã hội.
(Assuming a social role)
- Thích nghi với những giá trị đạo đức và tinh thần trong xã hội
(Adapting ethical and spiritual values) [31].
* Theo “Luật Thanh niên” của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, số 53/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006, vị trí và vai trò
xã hội của thanh niên sinh viên được thể hiện thông qua các điều luật sau:
- Điều 9: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong học tập.


- Điều 10: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong lao động.
- Điều 11: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc.
- Điều 12: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hoạt động khoa
học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Điều 13: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí.
- Điều 14: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong bảo vệ sức khỏe,

hoạt động thể dục, thể thao.
- Điều 15: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hôn nhân và gia
đình.
- Điều 16: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong quản lí nhà nước
và xã hội [Chương II: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, Luật Thanh niên].
Như vậy, có thể thấy vai trò xã hội của thanh niên sinh viên được xem
xét ở những luận điểm sau:
- Người trưởng thành trẻ tuổi là một tầng lớp xã hội quan trọng đối với
mọi thể chế chính trị, đội ngũ trí thức tương lai.
- Người trưởng thành trẻ tuổi là công dân thực thụ.
- Người trưởng thành trẻ tuổi trưởng thành về mặt xã hội một cách
đúng nghĩa về mặt nhận thức, thái độ và hành vi trong Quyền và nghĩa vụ
của mình trên bình diện nghề nghiệp, gia đình và xã hội.
Tóm lại, đặc điểm phát triển thể chất, điều kiện sống và vai trò
xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi ảnh hưởng đến sự ổn định về
sự phát triển tâm khả năng nhận thức, học tập; tự ý thức, định
hướng giả trị và sự lập thân của họ.


2.2. Đặc điểm tâm lí thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi (18 đến 25
tuổi)
2.2.1. Đặc điểm phát triển nhận thức thòi kì đầu người trưởng thành
trẻ tuổi
2.2.1.1.Đặc điểm chung của sự phát triển nhận thức thời kì đầu người
trưởng thành trẻ tuổi
Kết quả thực hiện IQ test cho thấy, khả năng trí tuệ được tăng lên cho
đến 45 - 46 tuổi, sau đó bị giảm (xem bảng 2, Schaie, 1994). Tuổi 20 - 30
có thể tích lũy 2/3 lượng tri thức của cuộc đời.
Việc tiếp tục học tập làm tăng điểm IQ test ở người lớn tuổi. Những
người thường xuyên luyện tập kĩ năng nhận thức thì đạt điểm sổ cao hơn

những người không được luyện tập.
Bảng 2: Khả năng trí tuệ sơ cấp
[TheoRobert V. Kail – 19, 392]
Những so sánh về chiều kích độ tuổi cho thấy có sự khác biệt cơ bản
về tư duy của thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi so với thanh thiếu
niên:
- Thay đổi cách suy nghĩ của mình để tập trung cao độ vào những
hướng đi cụ thể.
- Phải xem xét những tương lai (viễn cảnh) khác nhau của mọi người ở
các lứa tuổi khác nhau hơn là họ đã làm điều này ở tuổi thanh thiếu niên.
- Phải khám phá ra những cách giải quyết những cuộc tranh luận, bất
hòa và giải quyết những xung đột thông qua sự thỏa hiệp, thương lượng,
hoặc điều chỉnh mục đích.
Theo Piaget, giai đoạn cuối của sự phát triển nhận thức là giai
đoạn tư duy thao tác hình thức (formal operational thought), đạt
được ở lứa tuổi thanh thiếu niên nhờ sự phát triển đầy đủ về thể chất


×