Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Chính quyền địa phương trong hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.24 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẠNH THẾ

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẠNH THẾ

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRỊNH THỊ XUYẾN


HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tư liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Nếu có điều gì sai sót,
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Mạnh Thế


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ ........................................................................... 9
1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................................... 9
1.2. Vị trí, nhiệm vụ và vai trò của chính quyền xã trong hệ thống chính trị ở cấp cơ sở 18
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của chính quyền xã trong hệ thống chính trị cấp
cơ sở .......................................................................................................................................... 26
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY ..... 31
2.1. Khái quát về các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ở
Thanh Hóa ................................................................................................................................ 31
2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của chính quyền xã trong hệ thống chính trị cấp
cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay ........................................................................................... 37

2.3. Thực trạng về hoạt động của chính quyền xã trong hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay……………………… ………45

2.4. Đánh giá thực trạng và kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động của chính quyền
xã ............................................................................................................................................... 55
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY .................. 65

3.1. Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
trong hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay……… ............. …65
3. 2.Giải pháp cơ bản nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
trong hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay .................................................. 66
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị

BCHTW

: Ban chấp hành trung ương



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1:Bảng số liệu đại biểu HĐND .......................................................................... 39
Bảng 2.2: bảng số liệu độ tuổi đại biểu HĐND xã ......................................................... 39
Bảng 2.3: Trình độ học vấn đại biểu HĐND xã ............................................................. 40
Bảng 2.4: bảng trình độ chuyên môn đại biểu HĐND xã ............................................... 41
Bảng 2.5: Bảng trình độ lý luận chính trị đại biểu HĐND xã ........................................ 41
Bảng 2.6: Bảng trình độ quản lý nhà nước đại biểu HĐND xã ..................................... 42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cơ sở là nơi gần dân nhất, trực tiếp giải quyết các công việc cụ
thể của dân, là nơi gắn bó giữa chính quyền với người dân. Chính quyền địa phương
gồm có ba cấp: chính quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp huyện và chính quyền cấp
xã. Chính quyền cấp xã gồm có ba loại: xã, phường, thị trấn. Chính quyền xã gồm
có: Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân xã. HĐND xã là cơ quan đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở xã, do nhân dân cấp bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân xã và cơ quan nhà nước cấp trên. UBND xã do
HĐND xã bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND xã và cơ quan nhà nước cấp trên.
Thực tiễn cho thấy ở đâu chính quyền xã hoạt động có hiệu quả thì ở đó mọi chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, ở đâu
chính quyền cấp xã kém thì ở đó đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nhân dân
gặp nhiều khó khăn, trật tự an ninh không được đảm bảo, quyền làm chủ của nhân
dân không được phát huy.
Cấp xã vừa là cấp cuối cùng trong quản lý xét theo cấp độ của HTCT, nhưng
nó là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất, là nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của toàn
bộ HTCT của nước ta. Vì cấp xã là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của

nhân dân, nơi chính quyền gần dân nhất. Nơi tổ chức và triển khai thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mọi đường lối, chủ trương có
được thực hiện tốt hay không phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở,
mà nhất là phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt,
cán bộ đảng viên trong các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở
cơ sở. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTCT ở cơ sở có ảnh hưởng rất lớn đến
tình cảm, thái độ, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều
hành của Nhà nước. Những phản ứng bất bình của người dân, tình trạng khiếu kiện
kéo dài, đông nguời vượt cấp trong thời gian gần đây ở một số địa phương gây nên

1


những điểm nóng chính trị phức tạp và các điểm nóng này nếu không xử lý sẽ có
sức lan tỏa làm mất ổn định chính trị và có thể dẫn đến mất chế độ.
Với tư cách là trung tâm của hệ thống chính trị ở cơ sở, trong suốt quá trình
phát triển chính quyền cơ sở luôn được xây dựng, đổi mới và đã từng bước trưởng
thành, hoàn thiện đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà
nước, góp phần đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên trong thực tiễn tổ
chức và hoạt động của chính quyền cơ sở hiện nay do nhiều nguyên nhân vẫn còn
những tồn tại nhất định, thực chất chưa tương xứng với vị trí, vai trò của nó trong
hệ thống quyền lực nhà nước cũng như với nhiệm vụ mà nhân dân giao phó. Nhiều
nơi hoạt động của HĐND chỉ mang tính hình thức, tính đại diện và khả năng thay
mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương thấp, dẫn đến việc vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân, cản trở quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội.
Vì vậy việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND hiện nay đang được đặt ra hết
sức găy gắt.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định phải:
“Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương,
kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên tắc

tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý HĐND; kiện toàn các cơ quan chuyên môn
của UBND và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn” [17, tr.133].
Tại Hội nghị Trung ương 5 khoá IX, Đảng ta đã ra nghị quyết về “Đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở cấp xã, phường, thị trấn”, Nghị quyết
khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân...
Nghị quyết cũng xác định những điểm căn bản, cần thiết nhất về quan điểm, phương
hướng và giải pháp để đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở.
Trong Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khoá IX trình Đại hội X của Đảng
cũng nhấn mạnh: “nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND trong việc
quyết định và ban hành những chính sách trong phạm vi được phân cấp” nhằm xây

2


dựng và kiện toàn nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Trên tinh thần đó chính quyền địa phương xã tỉnh Thanh Hóa nhìn chung
đã thực hiện tốt đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, trong
những năm gần đây, bộ máy chính quyền cấp cơ sở ở Thanh Hóa liên tục được
đổi mới, tổ chức lại nhiều lần cho phù hợp với sự thay đổi của Hiến pháp, Luật
tổ chức HĐND và UBND và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước, đội ngũ
cán bộ chính quyền địa phương ở cơ sở đã có những chuyển biến kịp thời, bước đầu
đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới; trong thực thi nhiệm vụ đã năng động
sáng tạo hơn; tư tưởng bao cấp, tác phong thụ động từng bước được khắc phục, từ
đó tạo ra sức làm việc mới, đóng vai trò tích cực trong cải cách hành chính của tỉnh
nói chung. Trong đó đáng kể là những tiến bộ về tinh thần, thái độ phục vụ nhân
dân, các thủ tục hành chính, đặc biệt thực thi nhiệm vụ đã dần dần dựa trên cơ sở
pháp luật. Tình trạng chủ quan tuỳ tiện cửa quyền đã giảm. Đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh

Thanh Hóa đã được nâng cao một bước rõ rệt về nhận thức, trình độ học vấn,
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý. Cán bộ chính quyền xã điều hành công
việc nhanh nhạy, có hiệu quả hơn trước; làm việc nhiệt tình, tận tụy, có ý thức trách
nhiệm với công việc được giao. Tuy được nâng cao một bước rõ rệt về nhận thức và
trình độ, nhưng năng lực và nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chính quyền xã còn có
mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới, yêu cầu của cải cách hành chính,
yêu cầu của sự phát triển toàn tỉnh và đất nước. Do đó còn nhiều lúng túng và sơ hở
trong quản lý, nhất là quản lý nhà nước. Trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội vẫn còn
không ít cán bộ chính quyền xử lý giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan, còn
tâm lý nể nang. Cũng còn có những cán bộ mắc sai phạm trong công tác quản lý
phải chịu kỷ luật.
Từ những lý do trên tôi quyết định lựa chọn đề tài “Chính quyền địa
phương trong hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm
luận văn tốt nghiệp Cao học ngành chính trị học.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính quyền địa phương trong HTCT cơ sở là đối tượng nghiên cứu của nhiều
nhiều môn khoa học xã hội như Luật học, Lý luận và lịch sử của nhà nước và pháp
luật, Hành chính học, Chính trị học…Ở Việt Nam hiện nay có nhiều công trình nghiên
cứu đã được công bố, cụ thể:
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ:
Đề tài “Tiếp tục xây dựng chính quyền cấp xã ở Đồng bằng Sông Hồng nước
ta hiện nay” của tác giả Quách Sĩ Hùng làm chủ nhiệm, được công bố năm 2004.
Tác giả đã trình bày vị trí, vai trò của các cơ quan nhà nước ở địa phương và vị trí,
vai trò của chính quyền cơ sở; khái niệm, đặc điểm của chính quyền địa phương và
đặc điểm của chính quyền cấp xã ở Đồng bằng Sông Hồng. Mối quan hệ giữa
HĐND và UBND; đổi mới tổ chức và hoạt động của Thường trực HĐND và nâng

cao vai trò quản lý của UBND đối với các lĩnh vực trên địa bàn xã.
Đề tài “Cơ sở khoa học áp dụng mô hình tự quản ở chính quyền xã” của tác
giả Trần Thị Minh Châu làm chủ nhiệm, công bố năm 2016. Đề tài nhằm làm rõ
một số vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức chính quyền tự quản; phân tích quy định
của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật về chính quyền địa phương,
trong đó có chính quyền cấp xã qua các thời kỳ lịch sử; phân tích những quy định
của pháp luật hiện hành về chính quyền cấp xã, có những đánh giá cụ thể. Mặt khác,
tác giả cũng hệ thống hóa kinh nghiệm tổ chức chính quyền tự quản ở một số quốc
gia trên thế giới, từ kết quả nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã đề xuất mô hình tự
quản của chính quyền xã ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, sách chuyên khảo:
Giáo sư Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Ở đây các tác giả đã đề
cập đến việc thay đổi cơ cấu HĐND, UBND.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Hoàng Công, Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu
hướng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. Trong cuốn sách tác giả
bàn về hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó có đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện

4


HĐND, UBND cấp xã cho phù hợp với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và
việc thi hành quyền làm chủ của nhân dân.
Thạc sĩ Dương Bạch Long (2011), “Chính quyền cấp xã và việc tổ chức điều
hành hoạt động của UBND cấp xã”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả trình
bày khái niệm chính quyền cấp xã, đặc điểm của chính quyền cấp xã, cách thức tổ
chức và điều hành của UBND cấp xã đối với cách lĩnh vực của đời sống xã hội trên
địa bàn xã theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
Thứ ba, luận án, luận văn:
Luận án “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp

xã ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đàm Bích Hiên được công bố năm 2008.
Trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của chính quyền cấp xã từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện về tổ
chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong giai đoạn hiện nay.
Luận án “Đổi mới nhằm nâng cao chất lượng chính quyền cơ sở ở nước ta
hiện nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Thanh được công bố năm 2013. Trong luận
văn, tác giả đã tiến hành nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan
điểm cùng những giải pháp thực hiện đổi mới nhằm nâng cao chất lượng của chính
quyền cơ sở.
Thứ tư, bài báo khoa học:
Th.s Nguyễn Hoàng Anh (2003), “Tổ chức và hoạt động của HĐND cấp cấp
xã trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5/2003. Tác giả đã
khái quát thực trạng hoạt động của HĐND cấp cấp xã thời gian qua, nguyên nhân
và đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã.
Bùi Xuân Đức (2003), “Bàn về tổ chức của HĐND trong điều kiện cải cách bộ
máy nhà nước hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2003. Tác giả đã
phân tích những ưu và mặt hạn chế về tổ chức của HĐND và đưa ra những quan
điểm về thay đổi tổ chức trong điều kiện cải cách bộ máy để phù hợp hơn với chức
năng, nhiệm vụ của HĐND, Thường trực HĐND và từng Ban của HĐND.

5


Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồi (2004), “HĐND và UBND ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí Luật học, số 1/2004. Tác giả nêu khái quát về cách thức tổ chức, những vấn đề
tồn tại trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND và những
nhóm giải pháp để nâng cao vai trò quản lý của HĐND và UBND.
Thạc sỹ Nguyễn Quốc Tuấn (2004), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND và UBND các cấp”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4/2004. Tác giả
phân tích những kết quả đạt được và hạn chế của HĐND và UBND các cấp, đề xuất

các nhóm giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
HĐND và UBND các cấp.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu và tổ chức, hoạt động của
HĐND và UBND các cấp và đặc biệt là ở cấp cơ sở và đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý của HĐND và UBND. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận về tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương trong hệ thống chính trị cơ sở, nhất là
nghiên cứu ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay thì chưa có công trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn khảo sát thực trạng hoạt động của chính
quyền xã ở tỉnh Thanh Hóa, luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới tổ chức
và hoạt động của chính quyền xã ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Để thực hiện mục đính nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
Thứ nhất, hệ thống và phân tích cơ sở lý luận về chính quyền địa phương,
chính quyền xã trong hệ thống chính trị cơ sở;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương trong hệ thống chính trị cơ sở hiện nay, từ thực tế khảo sát ở
tỉnh Thanh Hóa;
Thứ ba, luận chứng những giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương trong hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu về tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương, đặt nó trong mối quan hệ với hệ thống chính trị cơ sở
ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm những giới hạn cụ thể sau:
Thứ nhất, Do điều kiện về thời gian và đối tượng nghiên cứu quá rộng và phức

tạp, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chính quyền xã trong hệ thống chính trị cấp
cơ sở của các huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Thứ hai, thời gian nghiên cứu luận văn trong một nhiệm kỳ 2011 – 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước và quyền
làm chủ của Nhân dân; các tư tưởng, quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng
Nhà nước về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Thứ nhất, phương pháp luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin;
Thứ hai, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ đạo gồm có: Logic lịch sử, phân tích - tổng hợp và quy nạp - diễn dịch; Ngoài ra, sử dụng phương pháp
thống kê, so sánh.
Thứ ba, phương pháp thu thập và xử lý thông tin: luận văn sử dụng phương
pháp nghiên cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND,
UBND xã (từ thực tế tỉnh Thanh Hóa) tác giả đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới tổ
chức và hoạt động của HĐND, UBND xã, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính
trị cơ sở ở nước ta hiện nay.

7


- Luận văn sẽ góp phần nhận thức sâu hơn về chính quyền địa phương cơ sở,
đặc biệt là chính quyền xã.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo việc nghiên cứu, giảng dạy về bộ
môn chính trị học hoặc về nhà nước, pháp luật, về quyền lực nhà nước và các cơ quan
quyền lực nhà nước, về hệ thống chính trị cơ sở ở các trường đào tạo cán bộ, công chức

của Đảng và Nhà nước.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã trong hệ thống chính trị
cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính quyền địa phương trong hệ thống chính trị
cơ sở
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm đổi mới tổ chức và hoạt
động của chính quyền xã trong hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị và hệ thống chính trị ở cấp cơ sở
Khái niệm hệ thống chính trị
Chính trị là một trong những hiện tượng lịch sử, nó có quá trình ra đời, tồn tại
và mất đi, chính trị chỉ tồn tại khi xã hội có giai cấp và nhà nước, nhưng không phải
khi chính trị xuất hiện hệ thống chính trị cũng xuất hiện. Khái niệm hệ thống chính
trị ra đời sau khái niệm chính trị; lịch sử tư tưởng chính trị phương Đông và phương
Tây trước C.Mác - Lênin vẫn chưa sử dụng khái niệm hệ thống chính trị. Tuy nhiên,
nội dung sự hiểu biết về hệ thống chính trị đã được C.Mác - Lênin diễn đạt bằng
một phạm trù liên quan như: hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế chính trị,
cơ cấu chính trị, kết cấu chính trị xã hội hay tư tưởng chính trị và các thiết chế
tương ứng… Sau C.Mác, sớm hơn là ở các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa (đầu
những năm 50 của thế kỷ XX) và ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ (Liên Xô muộn

hơn vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX) mới xuất hiện khái niệm hệ thống chính
trị. Ở Việt Nam, bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3 năm 1989), lần
đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng thuật ngữ hệ thống chính trị thay cho
thuật ngữ chuyên chính vô sản. Trong những Văn kiện, sách báo, tạp chí, công trí,
công trình nghiên cứu chính trị ở nước ta gần đây ngày càng sử dụng rộng rãi khái
niệm hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Khái niệm hệ thống
chính trị ra đời ở thời kỳ hiện đại, nó là sự phản ánh chính trị hiện đại.
Ở các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, quan niệm phổ biến xem hệ
thống chính trị chỉ bao gồm những tổ chức chính trị - xã hội mang bản chất giai cấp
cầm quyền nhằm phục vụ cho quyền lực chính trị của gia cấp đó. Quan điểm này
đồng nhất phạm trù “hệ thống chính trị” với phạm trù “hệ thống chuyên chính của
giai cấp cầm quyền”. Từ đó cho rằng hệ thống chính trị chủ nghĩa tư bản chính là hệ

9


thống chuyên chính tư sản, còn hệ thống chính trị chủ nghĩa xã hội là hệ thống
chuyên chính vô sản. Ở Việt Nam trước đây và một số năm đầu đổi mới, chúng ta
chưa dùng khái niệm hệ thống chính trị mà vẫn dùng một cách phổ biến khái niệm
hệ thống chuyên chính vô sản để chỉ hệ thống và cơ cấu các cơ quan quyền lực lãnh
đạo và quản lý xã hội.
Nhận thức là một quá trình. Trước đây như trên đã nêu về sự đồng nhất hai
phạm trù: hệ thống chính trị và hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền. điều
đó thể hiện sự nhận thức ấy vừa là kết quả của quan điểm quá nhấn mạnh tính giai
cấp trong chính trị mà chưa thấy hết diện mạo của các dân tộc, tính nhân loại trong
chi phối chính trị. Sau này xuất hiện quan niệm về hệ thống chính trị toàn diện hơn,
rộng hơn phải phản ánh rõ hơn bản chất của chính trị. Bao hàm trong hệ thống
chính trị, ngoài hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền - bộ phận cơ bản
nhất, quan trọng nhất, quy định bản chất của toàn bộ hệ thống chính trị trong xã hội
tương ứng, còn có các tổ chức, các thiết chế chính trị hợp pháp khác. Tuy nhiên

quan niệm như vậy cũng mới chỉ nhấn mạnh được về hệ thống tổ chức tức là một bộ
phận cấu thành hệ thống chính trị mà chưa chỉ ra được hệ thống các mối quan hệ
trong hoạt động chính trị theo chức năng, nhiệm vụ, đồng thời còn là hệ thống các
cấp độ nhằm điều chỉnh lẫn nhau và điều chỉnh mọi mối quan hệ giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hội giữa các dân tộc trong cộng đồng xã hội, giữa các yếu tố xã hội, tập
thể và cá nhân, về vấn đề quyền lực, về định hướng, đường lối, chủ trương chính
sách quy định mục tiêu, phương hướng nội dung phát triển xã hội.
Căn cứ việc đáp ứng hai yêu cầu: một là, phục vụ mục đích nhận thức về hệ
thống các tổ chức, thiết chế có vai trò thực tế và được thừa nhận trong việc thực
hiện quyền lực chính trị hoặc tham gia quyền lực chính trị một cách thường xuyên.
Hai là, phải đủ tính khái quát để không chỉ phản ánh hiện thực chính trị ở một hay
một nhóm nước nào đó mà còn phản ánh được hiện thực chính trị ở nhiều quốc gia
khác nhau có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, TS. Vũ Hoàng Công xác định: “hệ
thống chính trị là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ

10


chức, các thiết chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện hoặc
tham gia thực hiện quyền lực chính trị” [6, tr.19].
Tập thể tác giả của Khoa Chính trị học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
đưa ra định nghĩa: “Hệ thống tổ chức quyền lực là hệ thống các tổ chức chính trị xã hội, các đảng chính trị hợp pháp và nhà nước cùng các quan hệ tác động qua lại
giữa các yếu tố đó nhằm tham gia vào quá trình hình thành các chính sách nhà
nước, thực thi các quyền lực chính trị đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã
hội và bảo đảm quyền thống trị hoặc quyền làm chủ của nhân dân lao động (trong
các nước xã hội chủ nghĩa” [20, tr.124].
Tập thể tác giả của Viện Khoa học Chính trị - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh đã đưa ra định nghĩa: “Hệ thống chính trị là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt
mục đích, chức năng trong việc thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính

trị, trong việc đưa ra các quyết định chính trị” [34, tr.289].
Kế thừa nhiều giá trị ở các quan niệm trên, dưới góc nhìn của chính trị học
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể hiểu: Hệ thống chính trị là một
phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ một chỉnh thể hệ thống các tổ
chức, các thiết chế chính trị - xã hội và các mối quan hệ giữa chúng với nhau trong
và giữa các cấp độ tổ chức và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ hợp thành cơ
thể chính trị của một chế độ xã hội nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền lực chính
trị của giai cấp thống trị.
Từ khái niệm vừa đưa ra trên, ta có thể xem xét đến sự tồn tại, vận động, biến
đổi của hệ thống chính trị diễn ra trên thực tế rất đa dạng. Và tính đa dạng của hệ
thống chính trị tùy thuộc vào các nhân tố khách quan và chủ quan tác động tới:
Nhóm nhân tố khách quan: các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chính trị quốc
gia là địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Chính những điều kiện khác
nhau này hình thành nên các quyền và các chuẩn mực xã hội xã hội khác nhau. Các
quyền và các chuẩn mực xã hội đó phân biệt các hệ thống chính trị khác nhau của

11


các nước, các thời đại khác nhau. Trình độ phát triển kinh tế; tương quan giữa các
lực lượng chính trị đang hiện diện; yếu tố lịch sử truyền thống văn hóa.
Hệ thống chính trị tồn tại trong những điều kiện nhất định trong xã hội có giai
cấp và hình thành nhà nước. Kết cấu hệ thống chính trị không phải theo ý muốn chủ
quan của một giai cấp nào, mà do điều kiện kinh tế - xã hội quyết định. Trình độ
phát triển kinh tế quốc gia quy định kết cấu xã hội – giai cấp, quy định thành phần
tham gia hệ thống chính trị theo dòng chảy chủ đạo của nền kinh tế quốc gia, vì
chính trị là sự biểu hiện tập trong của kinh tế. Hơn nữa, sự tồn tại của các giai cấp
với sức mạnh kinh tế của chúng sẽ tạo nên nền tảng xã hội của các lực lượng chính
trị tương ứng.
Sự hiện diện của các lực lượng chính trị và mối quan hệ tương quan lực lượng

giữa chúng. Là yếu tố quyết định trực tiếp đến việc thiết lập hệ thống chính trị theo
mô hình đa đảng hay một đảng trên thực tế. Song mối tương quan lực lượng đó có
thể bị quy định bởi nhiều khía cạnh: các yếu tố bên trong hoặc bên ngoài đất nước,
đặc biệt càng rõ hơn trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay; sức mạnh kinh tế, sức
mạnh quan sự, mức độ ủng hộ của các tầng lớp dân chúng…
Cùng với sự trưởng thành của ý thức công dân thì truyền thống, thói quen, lịch
sử văn hóa chính trị của dân tộc quốc gia là yếu tố khách quan tạo nên diện mạo bản
sắc về hệ thống chính trị của mỗi quốc gia.
Nhóm nhân tố chủ quan:
Sự trưởng thành, năng lực và đạo đức, bản chất và bản lĩnh chính trị của đảng
chính trị cùng với đội ngũ đảng viên của nó. Đây là yếu tố rất quan trọng liên quan
đến sinh mệnh đảng chính trị, nó được xem là thước đo tổng hợp đánh giá mức độ
uy tín đích thực của đảng chính trị trước dân chúng như thế nào.
Sự tương đồng về tư tưởng của các đảng chính trị: nếu việc tìm kiếm và tạo
dựng sự tương đồng về tư tưởng, quan điểm của các đảng chính trị càng lớn thì dễ
dàng chấp nhận nhau, cùng chia sẻ quyền lực chính trị. Ngược lại, nếu các đảng
chính trị đối chọi nhau về hệ tư tưởng chính trị, về lập trường giai cấp thì dễ dẫn
đến xung đột về chính trị, khủng hoảng chính trị có thể diễn ra. Có những đảng

12


chính trị như thế trong tình huống có lợi cho mình, thường sẵn sàng độc chiếm nhà
nước mà không chấp nhận chia sẻ quyền lực và đặt các quyền lực đối lập ngoài
vòng pháp luật.
Có thể nói rằng các nhân tố khách quan và chủ quan thường xuyên tác động
đến quá trình hình thành và biến đổi của hệ thống chính trị trong mỗi thời kỳ, cũng
như quyết định hình thái tồn tại hệ thống chính trị.
Như vậy, có thể thấy hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể bao
gồm Đảng cộng sản, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, ở các cấp

độ và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó theo chức năng nhiệm vụ nhằm đảm
bảo quyền lực của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là hệ
thống các tổ chức chính trị - xã hội mà nhờ đó nhân dân lao động thực thi quyền lực
của mình trong xã hội.
Hệ thống chính trị nước ta hiện nay bao gồm Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội của quần chúng nhân dân tham gia
vào mặt trận với tư cách là những thành viên.
Khái niệm hệ thống chính trị ở cấp cơ sở
Hệ thống chính trị ở nước ta định hình thành theo bốn cấp hành chính: Trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Dựa vào những nét khái quát chung nhất về hệ
thống chính trị như đã nêu trên có thể hiểu Hệ thống chính trị ở cấp cơ sở là toàn
bộ các thể chế chính trị cấp xã, phường, thị trấn (tổ chức Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân của cấp cấp xã và mối quan hệ giữa chúng) được tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc xác định, gắn bó hữu cơ, thống nhất với nhau về
mục đích, chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân cấp cơ sở.
Hệ thống chính trị ở cấp cơ sở là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
Việt Nam, nên vừa mang đặc đặc điểm chung của toàn bộ hệ thống chính trị và hệ
thống chính trị cấp cơ sở có những đặc trưng riêng:
Thứ nhất, hệ thống chính trị ở cấp cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
trị nước ta hiện nay. Đây là đặc điểm xét theo khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính

13


pháp lý của chỉnh thể hệ thống chính trị thống nhất ở nước ta hiện nay. Song không
phải cấp thấp nhất là cấp kém quan trọng nhất. Mà thậm chí, xét theo khía cạnh thực
thi đường lối chính sách của Đảng và nhà nước thì đây lại là cấp quan trọng nhất.
bởi vì đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cuối cùng có thực hiện được hay
không lại là ở cơ sở.

Thứ hai, hệ thống chính trị cấp ở cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ
biên chế được hưởng sinh hoạt phí thấp nhất. Theo các quy định hiện hành thì hệ
thống chính trị cấp cơ sở được biên chế và hưởng sinh hoạt phí không quá 25 người.
Các mối quan hệ ở đây không phải là không phức tạp, tính phức tạp ở đây được quy
định bởi các yếu tố gia tộc, dòng họ, tôn giáo, văn hóa, truyền thống.
Thứ ba, hệ thống chính trị ở cấp cơ sở là cấp có đội ngũ cán bộ biến động
nhất, ít chuyên nghiệp nhất, trình độ học vấn và văn hóa, trình độ lý luận và chuyên
môn thấp nhất. Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cấp cơ sở biến động nhất là
vì do cơ chế họ không được biên chế cố định mà chủ yếu lệ thuộc vào lá phiếu bầu
chọn trong các cuộc bầu cử nên thời gian này làm cán bộ thời gian sau làm dân
thường. phần lớn những người được đào tạo cơ bản cả về lý luận và chuyên môn
nghiệp vụ thì họ tìm cách thoát ly khỏi cơ sở.
Thứ tư, hệ thống chính trị ở cấp cơ sở là cấp trực tiếp nhất chịu sự chi phối
của Nhân dân. Mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước quán triệt, triển
khai đến dân đều qua cơ sở. Vì vậy nó là cấp gần dân nhất và thể hiện tính nhân dân
một cách rõ ràng, trực tiếp nhất. Song đây là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu
cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm chí cả những xung đột nảy
sinh trng đời sống dân cư. Vì vậy tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cấp
cơ sở mang tính tự quản cao.
Thứ năm, hệ thống chính trị ở cấp cơ sở là cấp mà quan hệ dòng họ, văn hóa
làng cấp xã, quan hệ dân tộc, tôn giáo tác động mạnh nhất. Hệ thống chính trị cấp
cơ sở là cấp mà quan hệ dòng họ, văn hóa làng cấp xã có thể tác động mạnh nhất có
ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội bộ trong tổ chức và hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị ở cấp cơ sở. trong quan hệ với dân, cán bộ ở cấp cơ sở có thể bị chi

14


phối, ràng buộc rất lớn bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong
tục, tập quán, lối sống làng cấp xã. Do đó, phải hết sức chú ý khắc phục tư tưởng

dòng họ, bè phái, lợi dụng chức quyền theo kiểu “một người làm quan cả họ được
nhờ” hoặc “chi bộ ta”.
1.1.2. Khái niệm chính quyền địa phương
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về chính quyền địa phương ở nước ta
hiện nay, nhiều văn bản pháp luật, sách báo dùng thuật ngữ chính quyền địa phương
nhưng chưa có văn bản nào giải thích đầy đủ về nội hàm khái niệm chính quyền địa
phương. Trong cuốn từ điển tiếng việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên của Viện
ngôn ngữ học thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, xuất bản
năm 1995 có 38, 410 mục từ, nhưng cũng không có mục từ “chính quyền địa
phương” mà chỉ nhắc tới chính quyền. Trong cuốn sổ tay thuật ngữ pháp lý thông
dụng của nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 1996 do Nguyễn Duy Lãm chủ biên
và trong quyển từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà
Nội do Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc chủ biên xuất bản năm 1999 cũng không
có thuật ngữ “chính quyền địa phương”.
Dưới góc độ pháp luật, chính quyền địa phương được quy định như sau: tại
Điều 111, Hiến Pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 quy định
“Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng Hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thi, hải đảo,
đơn vị hình hính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Chính quyền địa phương hiện nay có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chính quyền địa phương là một bộ phận hợp thành, gắn bó hữu cơ
của chính quyền nhà nước thống nhất, là hình thức pháp lý thông qua đó nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa phương.
Tính quyền lực Nhà nước của chính quyền địa phương không chỉ xác định vị
trí, tính chất pháp lý và vai trò của chính quyền địa phương trong cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước thống nhất của nhân dân, mà còn xác định thẩm quyền và trách

15



nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quyết định các biện pháp nhằm xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nói chung, trong việc bảo đảm thi
hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương nói riêng. Đặc biệt là các giá trị pháp lý
của các văn bản do chính quyền địa phương trong việc kiểm tra, giám sát việc chấp
hành Hiến pháp và pháp luật đối với tất cả cá cơ quan khác, các tổ chức khác, các tổ
chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế và công dân trên địa bàn địa phương.
Thứ hai, không phải mọi cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động ở địa
phương, giải quyết các vấn đề ở địa phương đều nằm trong cơ cấu tổ chức chính
quyền địa phương. Điều này không có nghĩa chỉ trừ cơ quan bảo vệ pháp luật ở địa
phương mà còn bao gồm các cơ quan của các bộ các ngành trung ương đóng trên
địa bàn địa phương.
Thứ ba, các cơ quan chính quyền địa phương về nguyên tắc phải do nhân dân
địa phương bầu ra hoặc được thành lập trên cơ sở của các cơ quan đại diện của nhân
dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, các cơ quan chính quyền địa phương ở nước ta tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chức năng, thẩm quyền theo quy định
của pháp luật, giải quyết các vấn đề phát sinh ở địa phương trên cơ sở nhằm thi
hành Hiến pháp và pháp luật, các văn bản của Nhà nước cấp trên và có sự kết hợp
hài hòa giữa lợi ích nhân dân địa phương và lợi ích chung của cả nước.
Căn cứ vào Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 có thể
hiểu khái niệm chính quyền địa phương như sau:
Chính quyền địa phương ở nước ta là một bộ phận hợp thành chính quyền nhà
nước thống nhất của Nhân dân, bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
do Nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra là Hội đồng nhân dân và cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu ra là Uỷ
ban dân nhân, nhằm quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội của địa phương, trên
cơ kết hợp hài hòa lợi ích của Nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.

16



Như vậy ta có thể hiểu chính quyền địa phương đó là: Chính quyền địa
phương gồm có ba cấp: chính quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp huyện và chính
quyền cấp xã.
1.1.3. Chính quyền cấp xã trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
Thứ nhất, cấp cơ sở hay còn gọi là cấp xã là cấp hành chính cuối cùng trong
hệ thống bốn cấp hành chính của Việt Nam hiện nay. Chính quyền cấp xã là bộ
máy quản lý nhà nước ở cấp cơ sở, gắn nhiều với tính chất tự quản.
Thứ hai, hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm tổ chức của Đảng Cộng sản
Việt Nam, cơ quan nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội chiến binh Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam và Hội nông dân Việt Nam được tổ chức ở cấp cơ sở.
Thứ ba, chính quyền cấp cơ sở bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước và cơ
quan hành chính nhà nước là HĐND cấp xã và UBND cấp xã được tổ chức ở cấp
cơ sở, cụ thể:
HĐND cấp xã gồm các đại biểu HDND do cử tri ở cấp xã bầu ra, là cơ quan
quyền lực nhà nước ở cấp xã, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân cấp xã và cơ quan nhà nước cấp
trên.
UBND cấp xã do HĐND cấp xã bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND cấp
xã, cơ quan hành chính nhà nước ở cấp xã, chịu trách nhiệm trước Nhân dân,
HĐND cấp xã và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm chính quyền cấp xã trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở bao gồm HĐND và UBND cấp xã, là bộ phận cấu thành
hệ thống chính trị cấp cơ sở, là trung tâm của hệ thống chính trị cấp cơ sở, chịu
sự lãnh đạo của Đảng bộ xã và có mối quan hệ tương hỗ với Mặt trận Tổ quốc xã
và các tổ chức thành viên trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ.
Cấp xã : bao gồm Xã, phường, thị trấn. Là cấp hành chính nhỏ nhất. Sở dĩ gọi
chung là cấp xã như vậy là vì số lượng xã ở Việt Nam chiếm đa số và để cho vắn tắt về


17


cách gọi nhưng mục đích là chỉ để phân biệt về cấp hành chính. Cấp xã gồm có xã,
phường, thị trấn, ba tên gọi này khác nhau như sau:
Xã (ở nông thôn) và phường (ở đô thị) là cấp hành chính nhỏ nhất, gọi là cấp cơ sở.
Thị trấn cũng là một cấp tương đương phường, xã, nhưng đó là đơn vị hành chính của
nông thôn có xu hướng đô thị hóa mạnh, thường là thủ phủ của một huyện. Như vậy,
chính quyền cấp xã bao gồm có chính quyền xã, phường, thị trấn tương ứng với các vùng
đô thị và nông thôn trên địa bàn cấp xã.
1.2. Vị trí, nhiệm vụ và vai trò của chính quyền xã trong hệ thống chính
trị cấp cơ sở
1.2.1. Vị trí của chính quyền xã trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
Chính quyền trong hệ thống chính trị cấp cơ sở gồm HĐND và UBND xã, vị trí
được thể hiện cụ thể như sau:
HĐND và UBND xã là bộ phận cấu thành và là trung tâm của hệ thống chính trị
cấp cơ sở, có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác của hệ thống chính trị cấp cơ
sở trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức chính
quyền địa phương và các quy định khác của pháp luật.
Khoản 1, Điều 6, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương quy định: “Hội đồng
Nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên”.
Khoản 1, Điều 8, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương quy định: “Ủy
ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên”.[32]

Chính quyền xã là cấp trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà
nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng cơ sở, là cấu

18


nối trực tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời những yêu cầu
hằng ngày của nhân dân trên địa bàn xã.
Tổ chức chính quyền cơ sở khác với chính quyền cấp hành chính khác. Tổ
chức bộ máy chính quyền xã chỉ bảo gồm cơ quan quyền lực nhà nước là HĐND và
cơ quan quan chấp hành của HĐND là UBND, không có các cơ quan tư pháp như:
Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân.
UBND xã không tổ chức các cơ quan chuyên môn trực thuộc, mà tổ chức 07
chức danh công chức chuyên môn, giúp việc cho UBND, cụ thể: Trưởng Công an;
Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và
môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và
môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch và Công chức Văn
hóa - xã hội.
Các đoàn thể nhân dân ở xã chủ yếu có năm tổ chức là Mặt trận Tổ quốc, Hội
Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh (do ở nông thôn Việt
Nam, rất ít nơi có tổ chức công đoàn).
Đoàn thể nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị ở xã.
Cụ thể các đoàn thể nhân dân có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của
thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của
công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đoàn thể nhân
dân là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào vận động quần chúng tham
gia bảo vệ trật tự trị an, xây dựng nếp sống văn hóa, bảo vệ môi trường, phát triển
kinh tế - xã hội ở cơ sở.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền xã trong hệ thống chính trị
cơ sở

Thứ nhất, HĐND xã có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

19


×