Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện mèo vạc, tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.83 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN QUÝ

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN MÈO VẠC, TỈNH HÀ GIANG

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số

: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Hồ Việt Hạnh

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ
Chính trị học “Hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà
Giang” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng
lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Văn Quý




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ ........................................................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về chính trị, hệ thống chính trị và hệ thống chính trị
cấp cơ sở ............................................................................................................ 7
1.2. Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở nƣớc ta hiện nay ...... 14
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY .. 21
2.1. Đặc điểm tình hình huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang................................ 21
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo
Vạc, tỉnh Hà Giang thời gian qua.................................................................... 23
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở HUYỆN MÈO VẠC,
TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY ..................................................................... 46
3.1. Quan điểm cơ bản nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo
Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay ........................................................................... 46
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở huyện
Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay................................................................... 50
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH

Chủ nghĩa xã hội


DBHB

Diễn biến hòa bình

HTCT

Hệ thống chính trị

HĐND

Hội đồng nhân dân

NĐ-CP

Nghị định Chính phủ

QĐ-TTg

Quyết định Thủ tƣớng

UBMTTQ

Ủy ban mặt trận Tổ quốc

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 2.1: Xếp loại chất lƣợng đảng bộ cơ sở các xã, thị trấn...................................24
Biểu 2.2: Xếp loại chất lƣợng đảng viên của đảng bộ các xã, thị trấn.....................25
Biểu 2.3: Số lƣợng, chất lƣợng cán bộ, công chức xã, thị trấn qua các giai đoạn....32


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ sở xã, phƣờng, thị trấn là nơi nhân dân cƣ trú, sinh sống và diễn ra mọi
hoạt động của đời sống xã hội một cách sinh động. Hệ thống chính trị cơ sở có vị
trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nƣớc ta, là cấp trực tiếp tổ chức,
hƣớng dẫn, vận động nhân dân thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nƣớc, củng cố và tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cƣ.
Thời gian qua, với sự quan tâm, lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc, hệ thống
chính trị cơ sở ở nƣớc ta đã từng bƣớc đƣợc kiện toàn, đạt hiệu quả cao trong tổ chức
và hoạt động. Tuy vậy, hệ thống chính trị cơ sở còn những yếu kém và hạn chế cần
khắc phục nhƣ: Chƣa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ
thống chính trị; nội dung và phƣơng thức hoạt động chƣa đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội; trình độ văn hóa, quản lý và năng lực điều hành công việc thực tiễn của
cán bộ cơ sở còn nhiều hạn chế… Điều này càng bộc lộ rõ hơn trong giai đoạn dân chủ
hóa hiện nay, nhất là từ khi thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn
(1998) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn (2007).
Mèo Vạc là huyện vùng cao biên giới phía Bắc của tỉnh Hà Giang, huyện có
18 xã, thị trấn, trong đó có 17 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Địa bàn huyện cũng
là nơi sinh sống và cƣ trú của 17 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm

trên 90% dân số. Nhìn chung, các dân tộc anh em chung sống hoà thuận, đoàn kết,
giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Đặc thù trên đòi hỏi các cấp ủy đảng và chính quyền của huyện cần đặc biệt
quan tâm đến xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở. Mục tiêu là tăng
cƣờng khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh với đặc thù của từng xã, thị trấn để đƣa
đồng bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bƣớc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng cuộc sống
văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nƣớc.

1


Để thực hiện nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất là cần
phải kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Những
năm qua, dƣới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, việc kiện toàn hệ thống
chính trị cấp cơ sở đã đạt đƣợc nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trị cơ sở đã
đƣợc kiện toàn theo hƣớng gần dân, vì dân hơn; phƣơng pháp công tác và phƣơng thức
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cơ sở có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả đƣợc nâng lên;
cải cách thủ tục hành chính bƣớc đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đƣợc đổi mới về nội dung và phƣơng
thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả hơn. Nội bộ cấp ủy đoàn kết, thống nhất, sự đồng
thuận trong Đảng, chính quyền và nhân dân ngày càng tăng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, hệ thống chính trị cơ sở huyện
Mèo Vạc vẫn đứng trƣớc những khó khăn, thách thức không nhỏ: Tình trạng quan
liêu, cục bộ, mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở một số nơi. Chức năng, nhiệm vụ của các
bộ phận trong hệ thống chính trị cơ sở chƣa đƣợc xác định rành mạch, trách nhiệm
không rõ; nội dung và phƣơng thức hoạt động chậm đổi mới; đội ngũ cán bộ cơ sở ít
đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng… Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện chiến lƣợc “Diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn
giáo, những khó khăn trong đời sống của nhân dân và những hạn chế, yếu kém của

hệ thống chính trị cơ sở để nói xấu Đảng, Nhà nƣớc, hòng làm mất lòng tin của
nhân dân vào chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc.
Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng và giải quyết những vấn đề đặt ra
đối với hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo Vạc hiện nay là rất cần thiết. Với ý
nghĩa đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị
học là “Hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng của hệ thống chính trị, việc nghiên cứu
hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng đã đƣợc nhiều tác
giả quan tâm trên những bình diện khác nhau. Một số ấn phẩm có giá trị ở cả tầm lý
luận và thực tiễn nhƣ:

2


Công trình “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội, nông
thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số” do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (2000), đã phân
tích thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc
thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nƣớc ta. Công trình đã đánh giá các thành
tựu, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phƣơng
hƣớng, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống chính trị của khu vực này.
Bộ sách: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" (2001), "Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (2003), “Thể chế dân chủ
và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” (2005) do TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ
Văn Thông chủ biên. Các công trình này đã làm rõ về nông thôn Việt Nam; làm sáng tỏ
những quan điểm, chủ trƣơng, chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nƣớc ta về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đồng thời, định hình mối quan hệ biện chứng
giữa vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở với quá trình thực hiện Quy chế dân
chủ ở nông thôn Việt Nam.
Công trình “Hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay” do Hoàng

Chí Bảo chủ biên (2004), đã làm rõ lịch sử, lý luận về làng xã và hệ thống chính trị
ở cơ sở nƣớc ta; nêu rõ cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
và đề ra một số phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng hoạt động của hệ thống chính
trị cơ sở nông thôn.
“Đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương trình
135 giai đoạn II” của Giàng Seo Phử (Tạp chí Cộng sản, số 816/2010), bài viết khái
quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng
bào dân tộc và miền núi (giai đoạn 2006 - 2010) trên địa bàn 50 tỉnh của đất nƣớc.
Từ những con số cụ thể, tác giả đã đánh giá sát thực, đồng thời rút ra những bài học
kinh nghiệm quý giá nhằm tiếp tục thực hiện Chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo giai
đoạn II đạt kết quả cao hơn.
“Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các
mục tiêu, kế hoạch đề ra” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí Cộng sản, số 829/2011),
bài viết đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội đất nƣớc, nguyên nhân của những khó

3


khăn, thách thức hiện nay và xu hƣớng phát triển trong thời gian tới. Từ đó, định
hƣớng các giải pháp chủ yếu mà cả hệ thống chính trị phải đồng tâm hiệp lực lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tạo sự chuyển biến thực sự trong việc đổi mới
mô hình tăng trƣởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả, sức cạnh
tranh. Bên cạnh đó, nhấn mạnh định hƣớng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh
lƣơng thực gắn với bảo vệ môi trƣờng sinh thái, bảo đảm an ninh năng lƣợng và giữ
vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Ngoài ra, một số công trình, luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí khoa
học chuyên ngành cũng bàn về vấn đề này dƣới nhiều hình thức và mức độ khác
nhau nhƣ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân” của Văn phòng
Quốc hội (Nghiên cứu lập pháp, số 8/2001); “Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu,
vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết” của Hồ Minh Dức (Dân vận,

số 1 và 2/2002); “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Hiền Oanh (Nxb
Lý luận chính trị, H.2005); “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn ở Đồng Nai hiện nay” của Nguyễn Khánh
Mậu (Khoa học Chính trị, số 2/2007); “Đổi mới hệ thống chính trị để phát huy dân
chủ” của Đoàn Minh Duệ (Triết học, số 9/2007)…
Nhƣ vậy, nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính
trị cơ sở nói riêng từng khu vực cụ thể đã đƣợc rất nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu, song chƣa có một công trình khoa học nào trực tiếp bàn về hệ thống chính trị
cơ sở từ thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, trong khi đối tƣợng nghiên cứu
này đang đặt ra những vấn đề cần đƣợc giải quyết cả ở mặt lý luận và thực tiễn. Vì
vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề trên trong khuôn khổ một Luận văn
Thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học với hy vọng góp phần nhất định vào việc luận
giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới, nâng cao chất lƣợng tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cơ sở huyện Mèo
Vạc, tỉnh Hà Giang nói riêng.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Luận văn làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị cơ sở từ
thực tiễn huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá quan niệm về hệ thống chính trị cơ sở và vai trò của nó đối với
sự phát triển.
- Phân tích thực trạng trong hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn
của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn, nâng cao

hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng hệ thống chính trị ở
nƣớc ta hiện nay, đặc biệt là nghiên cứu thực trạng hệ thống chính trị cơ sở tại
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Luận văn nghiên cứu khái quát hệ thống chính trị cơ sở ở nƣớc
ta, đặc biệt hệ thống chính trị cơ sở (bao gồm: các xã, thị trấn) của huyện Mèo Vạc,
tỉnh Hà Giang.
+ Thời gian: Nghiên cứu, khảo sát giai đoạn từ 2010- 2015.
+ Vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
cơ sở tại huyện Mèo Vạc trong quá trình tham gia vào phát triển địa phƣơng.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang về những vấn đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Quá trình giải quyết những nội dung trong luận
văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp của phép biện chứng duy vật (nhƣ

5


phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô gic, hệ thống và cấu trúc…), các phƣơng pháp
so sánh, điều tra, thống kê, nghiên cứu văn bản…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động HTCT cơ sở trong việc đóng góp vào
sự phát triển chung của huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
- Luận văn đề ra quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn, nâng
cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển
hiện nay.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở cho các cấp lãnh đạo, quản
lý huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang tham khảo, vận dụng trong việc đề ra các chính
sách, phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn trong việc kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu
và học tập về hệ thống chính trị cơ sở ở trung tâm bồi dƣỡng chính trị huyện.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chƣơng, cụ thể nhƣ sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hệ thống chính trị cơ sở.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị cơ sở huyện
Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay.
Chương 3: Quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn hệ thống
chính trị cơ sở ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang hiện nay.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1.1. Những vấn đề lý luận về chính trị, hệ thống chính trị và hệ thống chính
trị cấp cơ sở
1.1.1. Khái niệm về chính trị
Chính trị và hệ thống chính trị - với những quan hệ và hoạt động đặc thù của
chúng - là kết quả của sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, là con đẻ của giai đoạn
lịch sử nhất định trong sự phát triển của nền văn minh loài ngƣời, hay nói chính xác
hơn là thời gian xuất hiện các giai cấp và mâu thuẫn đối kháng giai cấp. Và nhƣ
vậy, từ khi xuất hiện các giai cấp và đối kháng giai cấp cho tới khi nào mức năng
suất lao động của con ngƣời còn chƣa đạt tới ranh giới cho phép xóa bỏ những khác

biệt giai cấp trong việc thừa hƣởng phúc lợi vật chất, chƣa xóa bỏ sự khác biệt giai
cấp thì chính trị, hệ thống chính trị và tổ chức chính trị của xã hội, trƣớc và sau này
cũng vậy, vẫn sẽ là những thuộc tính của đời sống xã hội.
Thuật ngữ “chính trị” có nguồn gốc từ một danh từ tiếng Hy Lạp là “polis”, là
một trong những khái niệm cho đến nay vẫn chƣa đƣợc xác định thống nhất trong
giới khoa học, thậm chí còn gây ra những cuộc tranh luận gay gắt. Đây là điều dễ
hiểu, bởi từ khi xuất hiện cho đến nay, bản thân đời sống chính trị cũng đã tiến hóa
cùng với sự phát triển của đời sống xã hội. Là ngƣời đƣa ra thuật ngữ này, Aristotle
hiểu chính trị là hình thức cộng sinh văn minh, đƣợc sử dụng để đạt tới phúc lợi
chung và cuộc sống hạnh phúc. Kể từ đó, nội dung của thuật ngữ “chính trị” đã
nhận đƣợc cách lý giải khác nhau; tùy thuộc vào hoàn cảnh mà ngƣời ta đặt lên
hàng đầu những thuộc tính này hay những thuộc tính khác của chính trị với tính
cách là một hiện tƣợng xã hội. Tuy nhiên, dù với sự nhận thức và các cách tiếp cận
khác nhau nhƣ thế nào, thì khái niệm chính trị vẫn mang trong bản thân nó những
dấu hiệu đặc trƣng có tính bản chất của nó.
Căn cứ vào các tài liệu hiện có, chúng ta có một số định nghĩa về chính trị nhƣ
sau:

7


Chính trị là hành động hƣớng vào quyền lực: giành lấy nó, giữ lấy và sử dụng
nó. Theo M.Weber thì: chính trị là “khát vọng tham gia vào quyền lực hay là có ảnh
hưởng tới việc phân chia quyền lực, cho dù là giữa các quốc gia, giữa các nhóm
người ở bên trong một quốc gia” [43, tr.19].
Chính trị là “việc tham gia vào công việc của nhà nước, là việc định hướng
nhà nước, là việc xác định các hình thức, các nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước” [43, tr.19].
Nhà chính trị học, N.Machiavelli đã đánh giá chính trị nhƣ là “tổng thể những
phương tiện cần thiết để lên cầm quyền, giữ lấy quyền lực và sử dụng nó một cách

hữu ích” [43, tr.19].
Nhà Chính trị học nổi tiếng ngƣời Pháp, M.Duverger viết: “Lý luận chính trị
dao động giữa hai quan niệm trái ngược về chính trị. Theo một quan niệm chính trị
là xung đột, là đấu tranh trong đó kẻ có quyền lực sẽ bảo đảm cho mình sự giám sát
xã hội và nhận được của cải. Theo quan niệm khác chính trị là ý định thực hiện việc
cai quản trật tự và sự công bằng, là sự bảo đảm tích hợp mọi công dân thành một
cộng đồng” [43, tr.20 ].
Theo ông tổ của xã hội học Mỹ, T.Parsonr, chính trị là tổng thể “các phương
thức tổ chức những thành tố xác định của hệ thống toàn vẹn một cách phù hợp với
một trong các chức năng cơ bản của nó, mà chính là hoạt động tập thể có hiệu quả
nhằm đạt tới các mục đích chung” [43, tr.21].
Còn theo C.Mác chính trị là “tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với
quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề
trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước”[20, tr18].
Những định nghĩa nêu trên về chính trị không bao hàm hết tất cả những định
nghĩa đa dạng về nó, mặc dù cũng phản ánh đƣợc những định nghĩa quan trọng
nhất. Những đặc trƣng khoa học phong phú nhƣ vậy đƣợc giải thích trƣớc hết bởi sự
phức tạp của chính trị, bởi nội dung phong phú, những đặc điểm đa dạng và những
chức năng xã hội phức tạp của nó. Khái quát những định nghĩa khác nhau, chúng ta
có thể định nghĩa nhƣ sau: “Chính trị là hoạt động của các nhóm xã hội và của cá

8


nhân nhằm nhận thức và thể hiện lợi ích tập thể mâu thuẫn của mình, nhằm hoạch
định những quyết định bắt buộc đối với toàn thể xã hội, được thực hiện nhờ quyền
lực nhà nước” [43, tr.22].
. 1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở
Trong mọi xã hội có giai cấp, đối kháng giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm
quyền đƣợc thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.

Đó là hệ thống chính trị (HTCT).
HTCT là khái niệm của khoa học chính trị đƣơng đại - là một trong những
khái niệm phản ánh đặc trƣng của những quan hệ quyền lực chính trị; cũng nhƣ các
bộ phận, các nhân tố tham gia vào các quá trình, quy trình chính trị trong thể chế
chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tƣ bản chủ nghĩa).
Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau:
HTCT là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính thức thừa nhận về
mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó. Hệ thống này bao gồm
nhà nước, các chính đảng, các nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị khác - trong đó
nhà nước là yếu tố cơ bản, trung tâm [44, tr.2].
HTCT là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội [44, tr.2].
HTCT là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành
(hệ thống pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền)
nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó…[44, tr.2].
HTCT là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm nhà nước,
các đảng chính trị, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội hợp
pháp được liên kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội để
củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp với lợi ích của chủ
thể cầm quyền [44, tr.2].
Trên quan điểm hệ thống cấu trúc nhƣ trên có thể xem HTCT là khái niệm
dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm các tổ chức như đảng chính trị, nhà nước, các

9


tổ chức chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa các
nhân tố đó trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi các quyết
sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng cầm quyền,

đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội [44, tr.3].
Nhƣ vậy, HTCT gắn liền với sự phân chia giai cấp trong xã hội, nhƣng giai
cấp không phải là hiện tƣợng vĩnh hằng. Loài ngƣời đã và sẽ trải qua các thời kỳ
khác nhau của xã hội: xã hội chƣa có giai cấp và đối kháng giai cấp; xã hội có giai
cấp và đối kháng giai cấp; và cuối cùng, lại trở về xã hội không có giai cấp và đối
kháng giai cấp, nhƣng ở một trình độ cao hơn. Từ một xã hội này chuyển sang một
xã hội khác phải trải qua những thời kỳ quá độ khác nhau và để chuyển từ một xã
hội có giai cấp và đối kháng giai cấp sang một xã hội không còn giai cấp và đối
kháng giai cấp tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ chính trị lâu dài - thời kỳ
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản, thời kỳ tồn tại hệ thống chính trị của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ở nƣớc ta, mặc dù khái niệm HTCT mới chỉ đƣợc đề cập, sử dụng trong các
văn kiện chính trị và các tài liệu khoa học từ sau đổi mới (1986). Song, trên thực tế,
HTCT nƣớc ta đã đƣợc hình thành và phát triển hơn 70 năm, nhƣ một hệ thống quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ƣơng (khóa
VI), tháng 3 năm 1989, Đảng ta lần đầu tiên đã sử dụng khái niệm HTCT trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thay thế cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô
sản đƣợc sử dụng trƣớc đó. Theo đó, HTCT trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở
nước ta là một chỉnh thể bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, hoạt động theo
một cơ chế nhất định nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi
quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh [14, tr. 2]. Việc sử dụng khái niệm HTCT trong thời
kỳ quá độ đi lên CNXH thay thế cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản vừa
kế thừa tƣ tƣởng của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, vừa phù
hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đồng thời

10



đáp ứng đƣợc nhu cầu đổi mới trên lĩnh vực chính trị của xã hội ta nói riêng, nhu
cầu đổi mới toàn diện đất nƣớc ta nói chung.
Nhƣ vậy, khái niệm HTCT XHCN ở nƣớc ta đƣợc hiểu là một hệ thống tổ
chức bộ máy, hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội, bao gồm: Đảng Cộng sản
Việt Nam (vai trò lãnh đạo); Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân (vai trò quản lý); Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân (Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh), có vai trò tập hợp lực lƣợng, thực hiện chiến lƣợc đại đoàn kết dân
tộc, hiệp thƣơng chính trị, hợp tác và phát triển xã hội. Đây là các tổ chức hợp pháp
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đƣợc nhà nƣớc bảo trợ, hoạt động công khai,
nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Theo chiều dọc, cấu trúc của HTCT không chỉ là hệ thống các tổ chức và các
quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn
theo hai chiều vận động từ dƣới lên và từ trên xuống. Cấp độ của từng tổ chức
(Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận và các đoàn thể) đƣợc quy định theo từng cấp với vị trí,
vai trò, chức trách, thẩm quyền khác nhau, thể hiện mối quan hệ thứ bậc giữa cấp trên và
cấp dƣới trong phạm vi một tổ chức. HTCT ở nƣớc ta đƣợc cấu thành bởi các tổ chức
nêu trên cũng có các cấp độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung
ƣơng với địa phƣơng và cơ sở, phản ánh sự phân cấp về quyền lực trong HTCT.
Theo chiều ngang, HTCT đƣợc biểu hiện thông qua mối quan hệ về vị trí, vai
trò và quyền hạn giữa các tổ chức khác nhau trong tổng thể của hệ thống, bao gồm:
Đảng chính trị, Nhà nƣớc, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Nếu nhƣ ở cấp
trung ƣơng, đảng chính trị giữ vai trò lãnh đạo chung, nhà nƣớc giữ vai trò quản lý
chung thông qua các hoạt động đặc thù, Mặt trận và các tổ chức chính trị giữ vai trò
tập hợp lực lƣợng, tạo lập khối đại đoàn kết, hiệp thƣơng chính trị...; thì, ở cấp địa
phƣơng, mỗi chân rết của các tổ chức nói trên sẽ chịu trách nhiệm chính các nhiệm
vụ tƣơng ứng, song trong một địa bàn và không gian cụ thể.
Hiện nay ở nƣớc ta có 10.925 đơn vị cơ sở xã, phƣờng, thị trấn, trong đó có
9.098 xã, 597 thị trấn và 1.230 phƣờng [7, tr.13]. Đây là địa bàn cƣ trú, làm ăn của

11



nhân dân lao động, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đó vừa là nơi
diễn ra các hoạt động sản xuất - kinh doanh của ngƣời lao động, của các hộ gia
đình, của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; vừa là nơi diễn ra quá
trình trao đổi, lƣu thông hàng hóa, là đầu mối của thị trƣờng, là nơi hình thành các
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất và tiêu dùng. Nói đến cơ sở là nói tới nơi
diễn ra các hoạt động của ngƣời dân và cuộc sống của họ; là nói tới các hình thức tổ
chức hoạt động sống của cộng đồng và các mối quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá
nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Mỗi cơ sở là một cộng đồng xã hội, ở đó có các
hoạt động kinh tế, văn hóa và đồng thời tất yếu hình thành nên cộng đồng chính trị xã hội. Tại đây, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc và hoạt động
của các tổ chức chính trị - xã hội đều hƣớng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và tổ chức đời sống chính trị của công dân. Tổng
hợp của các tổ chức trên, đó chính là HTCT cấp cơ sở.
Nhƣ vậy, HTCT cấp cơ sở là hệ thống chỉnh thể các tổ chức đảng, chính
quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, được tổ chức và hoạt
động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển mọi mặt
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị trên địa bàn [3, tr. 26].
HTCT cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay bao gồm: Đảng bộ hay Chi bộ cơ sở;
chính quyền cơ sở (gồm HĐND và UBND xã); MTTQ Việt Nam, Công đoàn, Hội
nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội LHPN, Hội Cựu chiến
binh ở cơ sở. Mỗi bộ phận hợp thành HTCT cấp cơ sở có vị trí, vai trò và chức năng
khác nhau nhƣng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể:
- Đảng bộ hay Chi bộ cơ sở, mà nòng cốt là Ban Chấp hành Đảng bộ là hạt
nhân chính trị, trực tiếp thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua việc ra các nghị quyết,
chỉ thị định hƣớng cho chính quyền triển khai các hoạt động quản lý, điều hành trên
phạm vi địa bàn; bằng hoạt động của các đảng viên trong bộ máy chính quyền và
các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; bằng việc giới thiệu đảng viên ƣu tú tham gia
giữ các chức vụ chủ chốt trong chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ


12


sở; bằng công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục; bằng sự gƣơng mẫu của đảng
viên; bằng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nƣớc đối với cán bộ và đảng viên.
- Chính quyền là trụ cột của HTCT cấp cơ sở, có vai trò quản lý, điều hành
toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi địa bàn theo Hiến pháp và pháp
luật. Trong chính quyền cơ sở, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở cơ sở, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn, thay mặt nhân dân
quyết định những vấn đề quan trọng trên địa bàn theo quy định của pháp luật. UBND là
cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nƣớc ở cơ sở. UBND thực
hiện những nhiệm vụ theo nghị quyết của HĐND, những nhiệm vụ do cơ quan hành
chính nhà nƣớc cấp trên ủy quyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra việc
thực hiện các nhiệm vụ tự quản của địa phƣơng.
- MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội có chức năng tuyên truyền, vận động
quần chúng nhân dân ở cơ sở thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nƣớc và các chủ trƣơng của chính quyền cơ sở; củng cố và tăng
cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo lợi ích
và bênh vực quyền lợi chính đáng của hội viên, đoàn viên; đồng thời thực hiện chức
năng giám sát đối với hoạt động của chính quyền, đối với cán bộ, công chức, đảng viên
ở cơ sở và tham gia một số công việc quản lý xã hội ở cơ sở và từng thôn xóm.
Bên cạnh đó, ở cấp cơ sở hiện nay còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn do nhân dân
tự nguyện lập ra, hoạt động theo phƣơng thức tự quản và tuân thủ pháp luật, thỏa
mãn nhu cầu giao tiếp, liên kết cộng đồng, cùng nhau tổ chức đời sống trong cộng
đồng, góp phần tạo ra sự đoàn kết, đồng thuận trong xã hội. Những tổ chức này tuy
không phải là bộ phận hợp thành HTCT cơ sở nhƣng có mối quan hệ mật thiết với
hệ thống này. Vì vậy, nếu HTCT cấp cơ sở biết cách tạo điều kiện, phát huy tác
dụng của các tổ chức này thì sức mạnh đoàn kết - hợp tác - sáng tạo của cộng đồng

xã hội ở cơ sở sẽ đƣợc nhân lên gấp bội. Điều đó sẽ làm cho nền tảng xã hội của
Đảng, Nhà nƣớc và của cả chế độ đƣợc củng cố vững mạnh ngay từ cơ sở. Đó chính
là sự kết hợp sức mạnh giữa các thiết chế chính trị quan phƣơng và phi quan

13


phƣơng, giữa tính nhân dân và tính tự quản cộng đồng để tạo nên sự ổn định ở cơ
sở, tạo sức bật cho cơ sở phát triển.
1.2. Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở nƣớc ta hiện nay
1.2.1. Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay
Là một bộ phận của HTCT nói chung, do đó, HTCT cơ sở vừa mang những
đặc điểm chung của HTCT, vừa có những đặc điểm riêng, đặc thù của nó. Cụ thể:
Một là, HTCT cơ sở là cấp thấp nhất trong HTCT ở Việt Nam, song lại là cấp
quan trọng, gần và sát dân nhất.
Theo Điều 118, Hiến pháp 1992, HTCT ở nƣớc ta đƣợc phân ra 4 cấp: cấp
Trung ƣơng; cấp tỉnh (bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ƣơng); cấp
huyện (bao gồm các huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh); cấp xã (bao gồm
các xã, phƣờng và thị trấn). Nhƣ vậy, cấp cơ sở là cấp thấp nhất, là cấp cuối cùng
gần và sát dân nhất.
Mặc dù các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trong
HTCT cơ sở hiện nay đều mở rộng chân rết xuống tận thôn bản, tổ khu phố thông
qua các “cánh tay nối dài’’ là đội ngũ trƣởng thôn bản, song thôn, bản không phải là
một cấp hành chính độc lập; cấp thôn không có ngân sách, con dấu, không có tƣ
cách pháp nhân. Vì vậy, cấp xã vẫn là cấp cuối cùng trong hệ thống quản lý hành
chính nói riêng và trong HTCT Việt Nam nói chung.
Hai là, HTCT cơ sở là thiết chế, phƣơng tiện căn bản nhất để thực hiện dân
chủ, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
HTCT cơ sở có mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân, với cộng đồng dân cƣ, cho
nên nó vừa là phƣơng tiện căn bản nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của

mình, vừa là yếu tố đóng vai trò quyết định quá trình thực thi dân chủ. Điều này
đƣợc quy định bởi:
- Là hệ thống quyền lực của nhân dân, HTCT cơ sở là tổ chức hạt nhân, là
thiết chế tổ chức và thực hiện các quy định, các nguyên tắc theo mục tiêu dân chủ.
Mọi quy chế, chƣơng trình, kế hoạch và hành động do HTCT cơ sở xây dựng và
thực hiện nên đều nhằm cụ thể hóa mục tiêu dân chủ; đồng thời tạo nên những điều

14


kiện thuận tiện và phƣơng thức hoạt động phù hợp để nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình tại cơ sở.
- Đây là nơi trực tiếp giải quyết những vƣớng mắc của nhân dân, củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc. Qua đó, khơi dậy và phát huy ý thức dân chủ
trong nhân dân - nhân tố quan trọng để góp phần hiện thực hóa nền dân chủ XHCN.
Nhờ có HTCT cấp cơ sở mà nhân tài, vật lực ở các địa phƣơng đƣợc huy động
để phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, cải thiện đời sống vật chất và văn
hóa tinh thần của nhân dân, tạo nên những tiền đề cho dân chủ.
Ba là, HTCT cơ sở có bộ máy đơn giản nhất.
Là cấp cuối cùng trong HTCT nƣớc ta, bộ máy của HTCT cơ sở đơn giản hơn
so với HTCT cấp trên, với biên chế hƣởng lƣơng từ ngân sách ít nhất. Theo khoản
1, điều 9, Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 2003, HĐND cấp xã tối đa không quá
35 đại biểu và không có các phòng, ban nhƣ HĐND cấp tỉnh, huyện. UBND cấp cơ
sở cũng chỉ có từ 3 đến 5 thành viên. Số lƣợng thành viên Ban Chấp hành của Đảng
bộ (hay chi bộ) và của các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp cơ sở cũng ít hơn nhiều
so với cấp tỉnh, huyện. Tổng số cán bộ chuyên trách và công chức trong HTCT cấp
cơ sở theo quy định không quá 25 ngƣời/xã.
Bốn là, đây là nơi chịu sự tác động, ảnh hƣởng rất lớn từ các thiết chế xã hội
cổ truyền cũng nhƣ phƣơng thức tự quản của cộng đồng dân cƣ- yếu tố đặc thù của
HTCT cơ sở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

Đây là nét đặc thù do đặc điểm dân tộc và truyền thống lịch sử nƣớc ta. Đặc
biệt ở các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay, các thiết chế xã
hội cổ truyền vẫn còn có những ảnh hƣởng và tác động rất lớn đến đời sống của
cộng đồng dân cƣ nói chung, đến tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở nói riêng.
Nói đến các thiết chế xã hội cổ truyền là nói đến những cộng đồng có tính tự
quản. Tính tự quản ở nông thôn là cộng đồng làng, xã; ở đồng bào dân tộc thiểu số
đƣợc thực hiện thông qua vai trò của các chủ làng, già làng, trƣởng bản và sự tuân
thủ một cách tự giác của các thành viên trong buôn, làng, bản theo hệ thống luật tục,
quy ƣớc, phong tục tập quán.

15


1.2.2. Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay
Trải qua 30 năm đổi mới đất nƣớc, Đảng và nhân dân ta đã đạt đƣợc những
thành tựu có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên,
những kết quả đó không giống nhau giữa các vùng, tỉnh, giữa các dân tộc. Đến nay,
nhiều vùng miền, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn đƣợc coi là vùng chậm
phát triển nhất so với sự phát triển chung của cả nƣớc. Tình trạng trên do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có một phần không nhỏ xuất phát từ
sự yếu kém của HTCT cơ sở. Điều này cho thấy, một mặt, Đảng và Nhà nƣớc cần
tiếp tục quan tâm hơn nữa đến công tác củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở; mặt khác,
cũng cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của HTCT cơ sở hiện nay. Đó là:
Thứ nhất: Đây là cấp trực tiếp đƣa đƣờng lối, chủ trƣơng và chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc đến với nhân dân.
HTCT cơ sở có chức năng, nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền, giải thích đƣờng
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc đến nhân dân trên địa bàn; làm
cho ngƣời dân hiểu rõ chủ trƣơng, đƣờng lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nƣớc và từ đó có ý thức tự giác thực hiện.
Ngoài ra, HTCT cơ sở còn là nơi cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nƣớc thành các chƣơng trình, đề án phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội ở địa phƣơng, đồng thời tổ chức thực hiện thực tế, tạo những chuyển
biến căn bản trong địa bàn về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới và
xây dựng đất nƣớc. Mọi đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nƣớc có trở thành hiện thực hay không đều tùy thuộc vào năng lực tổ chức
và thực hiện của HTCT cơ sở.
Thứ hai: Là cấp trực tiếp lãnh chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc phát triển kinh tế
- xã hội, phát huy mọi nguồn lực, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống
của nhân dân.
HTCT cơ sở chỉ chứng tỏ đƣợc tác dụng và hiệu quả của mình nếu tập hợp
đƣợc sức dân trong cộng đồng để phát triển sản xuất, giúp dân làm kinh tế, mau
chóng xóa đói, giảm nghèo, đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân các dân tộc, để

16


cộng đồng đƣợc ổn định, ai cũng có cuộc sống ấm no, gìn giữ trật tự trị an và sự
bình yên trên địa bàn. Đó chính là an sinh và an ninh cho dân chúng. Đƣợc nhƣ vậy,
nhân dân sẽ củng cố lòng tin vào Đảng, vào chế độ và sẽ đem hết nhiệt tình, khả
năng sáng tạo, sáng kiến của mình vào thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, ích nƣớc lợi nhà.
Do đó, HTCT cơ sở nếu biết dựa vào dân, biết đem tài dân, sức dân để làm lợi
cho dân, để mƣu cầu hành phúc cho dân, thì đó sẽ là HTCT thực sự của dân, làm
đúng sự ủy quyền của dân, nhờ đó thực hiện đƣợc dân chủ, tránh đƣợc quan liêu,
tham nhũng. Đó là gốc rễ bền chặt của sự ổn định và phát triển.
Thứ ba: Là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ nhân dân,
phát huy truyền thống trong xây dựng tình đoàn kết, bình đẳng, tƣơng trợ giúp đỡ
lẫn nhau giữa các dân tộc; tạo khí thế thi đua trong phát triển sản xuất, xây dựng
thôn bản, tổ khu phố và gia đình văn hóa, bài trừ hủ tục lạc hậu, đấu tranh chống âm
mƣu “DBHB” của các thế lực thù địch.

Thứ tư: Đây là cấp trực tiếp tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nƣớc và xã hội.
Dƣới sự lãnh đạo của HTCT cơ sở, việc thực hiện quy chế dân chủ là điều
kiện quan trọng nhất để mỗi thành viên của cộng đồng phát huy đƣợc tính tích cực
xã hội, thực hiện nghĩa vụ của ngƣời công dân trực tiếp và rộng rãi nhất nhằm phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng cuộc sống văn minh, phát huy thuần phong
mỹ tục của cộng đồng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở đƣợc xem là khâu quan trọng nhất trong điều kiện hiện nay, nhằm
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn liền với xây dựng, kiện toàn HTCT trên
phạm vi cả nƣớc nói chung, HTCT cơ sở nói riêng.
Thứ năm: Cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn, phát hiện, kiến nghị với
Đảng và Nhà nƣớc những điều bất hợp lý trong đƣờng lối, cơ chế, chính sách, pháp
luật để kịp thời có những điều chỉnh, bổ sung, mang lại hiệu quả cao hơn.
Hiện thực đời sống nhân dân ở địa phƣơng sẽ là thƣớc đo để đánh giá tính đúng
đắn, mức độ phù hợp của những đƣờng lối, chính sách và pháp luật. Các tiêu chí cụ

17


thể để đánh giá đó là: hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội; mức độ cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Cũng chính từ đây, những gì chƣa hợp
lý, những điều bất cập sẽ bộc lộ và nhiệm vụ của HTCT ở đây là phát hiện và kiến
nghị với cấp trên để kịp thời điều chỉnh, bổ sung làm cho đƣờng lối, cơ chế, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc ta ngày càng hoàn thiện hơn.
Thứ sáu: Đây là môi trƣờng rèn luyện cán bộ, làm cho cán bộ trƣởng thành,
phát huy đƣợc phẩm chất và năng lực trong công tác thực tế, nhờ đó làm tăng uy tín,
ảnh hƣởng của Đảng, Nhà nƣớc trong quần chúng nhân dân. Đồng thời cung cấp
nguồn cán bộ đã đƣợc trải nghiệm qua thực tiễn cho HTCT cấp trên.
HTCT cơ sở là cấp tổ chức và quản lý trực tiếp nhất, là nền tảng xây dựng chế

độ dân chủ của toàn bộ HTCT của nƣớc ta. Thông qua công tác tổ chức thực tiễn,
năng lực của cán bộ sẽ đƣợc lƣợng hóa một cách cụ thể qua hiệu quả phát triển kinh
tế - xã hội của địa phƣơng. Mặc dù công tác tại cơ sở đội ngũ cán bộ sẽ gặp nhiều
khó khăn, thử thách hơn so với cấp tỉnh, cấp huyện, song cũng chính nơi đây lại
giúp cho cán bộ có thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn, dần hoàn thiện năng lực và
kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành. Những kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động, từ
sự góp ý, phản biện của nhân dân sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ ngày càng trƣởng
thành nhanh chóng về mọi mặt.
Thứ bảy, HTCT cơ sở ở các vùng nông thôn, miền núi có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng nông thôn mới.
Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 2020 là chƣơng trình lớn và toàn diện lần đầu tiên đƣợc thực hiện tại nƣớc ta trên
quy mô cả nƣớc. Đây là bƣớc cụ thể hóa Nghị quyết “tam nông” (Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn) của Đảng trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, chính trị
và quốc phòng - an ninh thông qua các chỉ tiêu phát triển cụ thể cho từng lĩnh vực.
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW của Trung ƣơng, phải xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bƣớc hiện đại; cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công

18


nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trƣờng sinh thái đƣợc bảo
vệ; an ninh trật tự đƣợc giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân ngày
càng đƣợc nâng cao; theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục tiêu trên, Thủ tƣớng Chính phủ đã ký Quyết định số
491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bao
gồm 19 tiêu chí, đƣợc chia thành 5 nhóm cụ thể (nhóm tiêu chí về quy hoạch; về hạ
tầng kinh tế - xã hội; về kinh tế và tổ chức sản xuất; về văn hóa - xã hội - môi
trƣờng và về hệ thống chính trị) với 39 chỉ tiêu cụ thể. Hiện nay các tiêu chí đều đã

đƣợc hƣớng dẫn tới tận xã qua Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới để phổ
biến tới từng ngƣời dân. Khi xã đạt đủ 19 tiêu chí đó thì đƣợc công nhận là xã nông
thôn mới.
Kết luận Chƣơng 1
HTCT cấp cơ sở là hệ thống chỉnh thể các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội ở xã, phƣờng, thị trấn, đƣợc tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị trên địa bàn.
HTCT cấp cơ sở ở Việt Nam có 4 đặc điểm cơ bản gồm: HTCT cơ sở là cấp
thấp nhất trong HTCT ở Việt Nam; HTCT cơ sở là thiết chế, phƣơng tiện căn bản
nhất để thực hiện dân chủ, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân; HTCT cơ sở có
bộ máy đơn giản nhất và HTCT cấp cơ sở ở Việt Nam là nơi chịu sự tác động, ảnh
hƣởng rất lớn từ các thiết chế xã hội cổ truyền cũng nhƣ phƣơng thức tự quản của
cộng đồng dân cƣ.
Là cấp cuối cùng trong HTCT của Việt Nam, HTCT cấp cơ sở có vai trò đặc
biệt quan trọng: Đây là cấp trực tiếp đƣa đƣờng lối, chủ trƣơng và chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc đến với nhân dân; Là cấp trực tiếp lãnh chỉ đạo, tổ
chức thực hiện việc phát triển kinh tế - xã hội, phát huy mọi nguồn lực, giải quyết
công ăn việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân; Là nơi trực tiếp giải quyết các

19


mối quan hệ trong nội bộ nhân dân, phát huy truyền thống trong xây dựng tình đoàn
kết, bình đẳng, tƣơng trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc; tạo khí thế thi đua trong
phát triển sản xuất, xây dựng thôn bản, tổ khu phố và gia đình văn hóa, bài trừ hủ
tục lạc hậu, đấu tranh chống âm mƣu “DBHB” của các thế lực thù địch; Đây là cấp
trực tiếp tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện
để nhân dân tham gia quản lý nhà nƣớc và xã hội; Cung cấp những kinh nghiệm

thực tiễn, phát hiện, kiến nghị với Đảng và Nhà nƣớc những điều bất hợp lý trong
đƣờng lối, cơ chế, chính sách, pháp luật để kịp thời có những điều chỉnh, bổ sung,
mang lại hiệu quả cao hơn; Là môi trƣờng rèn luyện cán bộ, làm cho cán bộ trƣởng
thành, phát huy đƣợc phẩm chất và năng lực trong công tác thực tế, nhờ đó làm tăng
uy tín, ảnh hƣởng của Đảng, Nhà nƣớc trong quần chúng nhân dân. Đồng thời cung
cấp nguồn cán bộ đã đƣợc trải nghiệm qua thực tiễn cho HTCT cấp trên; và HTCT
cơ sở ở các vùng nông thôn, miền núi có vai trò quan trọng trong việc xây dựng
nông thôn mới.

20


×