Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh vô thần và ý nghĩa đối với lối sống của sinh viên hà nội hiện nay (Tóm tắt, trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.06 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THANH AN

QUAN NIỆM VỀ TỰ DO TRONG TRIẾT HỌC
HIỆN SINH VÔ THẦN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THANH AN

QUAN NIỆM VỀ TỰ DO TRONG TRIẾT HỌC
HIỆN SINH VÔ THẦN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI LỐI
SỐNG CỦA SINH VIÊN HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 03 01



Giảng viên hướng dẫn

: PGS. TS Nguyễn Anh Tuấn

Chủ tịch hội đồng

Giảng viên hƣớng dẫn

PGS.TS Dƣơng Văn Thịnh

HÀ NỘI – 2016

PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. QUAN NIỆM VỀ TỰ DO TRONG TRIẾT HỌC HIỆN
SINH VÔ THẦN ........................................................................................... 15
1.1. Khái quát về triết học hiện sinh vô thần .............................................. 15
1.1.1. Một số nét về triết học hiện sinh ........................................................... 15
1.1.2. Triết học hiện sinh vô thần .................................................................... 19
1.2. Những điều kiện và tiền đề cho sự ra đời quan niệm về tự do trong
triết học hiện sinh vô thần ............................................................................ 22
1.2.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ........................................ 22
1.2.2. Tiền đề lý luận ....................................................................................... 30
1.3. Nội dung cơ bản của quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh vô
thần ................................................................................................................. 43
1.3.1. Tự do – điểm đặc trưng phân biệt con người với mọi sinh thể khác .... 43

1.3.2.Tính tuyệt đối của tự do con người ........................................................ 48
1.3.3. Tự do với tư cách là lựa chọn giá trị hiện sinh và hành động theo sự
lựa chọn của mỗi cá nhân ............................................................................... 55
1.3.4. Tự do như là nền tảng và cơ sở đánh giá mọi giá trị đạo đức ............. 60
1.3.5. Tự do gắn liền với trách nhiệm ............................................................. 62
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 65
CHƢƠNG 2. Ý NGHĨA CỦA QUAN NIỆM VỀ TỰ DO TRONG TRIẾT
HỌC HIỆN SINH VÔ THẦN ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN
HÀ NỘI HIỆN NAY ..................................................................................... 66
2.1. Lối sống, sinh viên và lối sống sinh viên............................................... 66
2.1.1. Khái niệm lối sống ................................................................................ 66
2.1.2. Khái niệm sinh viên và lối sống sinh viên ............................................. 70
2.2. Lối sống của sinh viên ở Hà Nội hiện nay ............................................ 74
2.2.1. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến lối sống của sinh viên Hà Nội ....... 74


2.2.2. Một số biểu hiện tiêu cực còn tồn tại trong lối sống của sinh viên ở Hà
Nội hiện nay .................................................................................................... 79
2.3. Một số giá trị, hạn chế của quan niệm về tự do trong triết học hiện
sinh vô thần và ý nghĩa của nó đối với lối sống của sinh viên Hà Nội hiện
nay ................................................................................................................... 91
2.3.1. Những giá trị và hạn chế của quan niệm tự do trong triết học hiện sinh
vô thần ............................................................................................................. 91
2.3.2. Ý nghĩa của quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh vô thần đối với
nhận thức của sinh viên................................................................................... 97
2.3.3. Ý nghĩa của quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh vô thần đối với
hành động của sinh viên ................................................................................ 100
Kết luận chƣơng 2 ....................................................................................... 102
KẾT LUẬN .................................................................................................. 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại vô cùng phức tạp, con
người vẫn luôn phải đối mặt với vô vàn những vấn đề nan giải trong đời sống
tinh thần. Việc tìm ra định hướng sống phù hợp với bản chất văn hóa, nhân
văn của mình là một nhiệm vụ thực sự cấp bách của con người hiện nay. Lịch
sử văn minh nhân loại cho chúng ta thấy, phần lớn những thành tựu mà con
người đã đạt được cho tới nay đều dựa trên khoa học, tư duy lý tính vốn chủ
yếu được hình thành vào thời cận đại ở Tây Âu. Tuy nhiện, lối tư duy và lối
sống duy khoa học - kỹ thuật, kỹ trị và việc đề cao thái quá những giá trị vật
chất đã đưa loài người đến những thảm họa của thời hiện đại, mà biểu hiện rõ
nhất là hai cuộc chiến tranh thế giới ở thế kỷ XX. Nguy hiểm hơn, cách tiếp
cận duy lý cực đoan về con người, bản tính người đã đơn giản hóa nhiều vấn
đề của tồn tại người, làm cho con người bị đẩy vào tình trạng bế tắc, khủng
hoảng tinh thần sâu sắc buộc người ta phải tìm hiểu kỹ lưỡng và toàn diện
hơn “thế giới nội tâm”, bản tính người của mình như cơ sở chắc chắn để có
được định hướng giá trị đáng tin cậy. Quan niệm tự do trong triết học hiện
sinh vô thần ra đời trong bối cảnh đó và đã phần nào đáp ứng nhu cầu tinh
thần của con người phương Tây hiện đại.
Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay việc giao lưu, tiếp biến văn hóa toàn
cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ bên cạnh việc tuyên truyền quảng bá văn hóa
trong nước ra thế giới, Viêt Nam đồng thời cũng tiếp xúc và du nhập các trào
lưu văn hóa trên thế giới. Trong quá trình ấy, việc tiếp nhận văn hóa phương
Tây, đặc biệt là quan niệm tự do trong triết học hiện sinh vô thần là một tất
yếu. Bối cảnh văn hóa tinh thần cho sự ra đời của quan niệm tự do trong triết
học hiện sinh vô thần cũng có đôi nét tương đồng tình hình xã hội Việt Nam
hiện nay, cũng như bối cảnh đó vẫn đang tiếp diễn trong hoàn cảnh hậu hiện
đại của thế giới. Vì vậy, tìm hiểu và đi sâu nghiên cứu quan niệm tự do trong

triết học hiện sinh vô thần và ý nghĩa của nó đối với lối sống của sinh viên ở
1


Hà Nội hiện nay có giá trị tích cực để chúng ta nhìn nhận, xây dựng và làm
giàu thêm nét đẹp văn hóa Việt.
Thứ nhất, triết học hiện sinh hiện đại là một trào lưu triết học phi duy lý
ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất tại Đức, sau đó phát triển mạnh mẽ ở
Pháp từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là một sự phá cách, một “độc
đáo” so với triết học duy lý truyền thống. Bao thế kỷ đã trôi qua, từ triết học
của Platon, Aristotle cho đến Descartes, Kant, Hegel, con người chỉ đăm đăm
đi tìm những nét huyền vi của tạo hóa mà quên suy ngẫm về thân phận, định
mệnh của mỗi con người cá nhân trong xã hội, quên việc mỗi người là một
độc đáo không lặp lại ở bất kì một sự vật nào trong vũ trụ. Triết học hiện sinh
ra đời để giải quyết được vấn đề trên.
Thứ hai, triết học duy lý không phải không bàn đến vấn đề tự do của
con người,nhưng tự do theo triết học này là hành động nhờ đó con người được
giải phóng khỏi sự phụ thuộc vào tính tất yếu bên ngoài, song đó không phải
là hành động tùy tiện mà là khả năng nhận thức và hành động theo quy luật
khách quan. Chỉ khi nào và nơi nào con người khai phá tự nhiện một cách chủ
động và hợp quy luật thì con người mới có tự do. Mặt khác, trong triết học
duy lý thì vấn đề tự do gắn liền với mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Ở đó,
tự do của cá nhân bị phụ thuộc vào tự do của xã hội, phải hi sinh cho lợi ích
chung của toàn xã hội. Triết học hiện sinh không quan niệm như vậy, tự do
của mỗi cá nhân được quan tâm hàng đầu. Mỗi con người tồn tại trên thế giới
đều có quyền tự do, tự do lựa chọn, sáng tạo nên chính bản thân mình.
Thứ ba, bước vào xã hội hiện đại với sự phát triển như vũ bão của khoa
học - kĩ thuật và công nghệ, sự hào nhoáng xa hoa của vật chất mà nó mang
lại, con người đang có nguy cơ đánh mất đi bộ mặt của mình, đánh mất đi
những giá trị nhân văn và kéo theo nó là sự phi nhân tính trong quan hệ giữa

các cá nhân với nhau, giữa cá nhân và xã hội. Xã hội hiện đại vẫn đang phải
đối mặt với các vấn nạn như thiếu chỗ ở, bệnh tật hoành hành, tâm lí tự kỉ,
biến thái, suy đồi đạo đức đang ngày càng gia tăng. Con người thường hóa ra
2


không thể chịu được các gánh nặng tâm lý - đạo đức của cuộc sống hiện đại.
Vì vậy, tự do trong triết học hiện sinh không chỉ giúp con người tìm lại nhân
vị, duy trì những giá trị nhân văn mà còn giúp con người tìm ra lối thoát trong
tinh thần, tìm thấy giá trị cuộc sống.
Thứ tư, đối với Việt Nam, quan niệm tự do trong triết học hiện sinh vô
thần là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu. Phần lớn các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam không dành nhiều “thiện cảm” với vấn đề này. Họ
cho rằng đây là thứ triết học phản động, phản văn hóa, đi ngược lại giá trị đạo
đức truyền thống, cổ vũ cho lối sống ích kỷ, tùy tiện, là căn nguyên tạo nên
một xã hội hưởng thụ.Vậy nên, nghiên cứu quan niệm tự do trong triết học
hiện sinh vô thần làm sáng tỏ những mặt tích cực của quan niệm này đồng
thời cung cấp cho độc giả cái nhìn đúng đắn về tự do theo quan niệm hiện
sinh. Quan niệm tự do trong triết học hiện sinh vô thần không chỉ có giá trị
thực tiễn mà ở nghĩa nào đó còn là triết học cuộc sống.
Thứ năm, sinh viên là lực lượng kế tiếp, bổ sung cho đội ngũ trí thức
trong tương lai. Họ là những người có văn hóa cao và có điều kiện tiếp thu
các thông tin về mọi lĩnh vực đời sống. Có thể nói, sinh viên là nguồn nhân
lực quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước. Vì vậy, việc xây dựng và
giáo dục một lối sống lành mạnh có trách nhiệm với bản thân và xã hội cho
sinh viên là một nhiệm vụ cần thiết và quan trọng góp phần xây dựng một
quốc gia hùng mạnh cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa - xã hội. Có nhiều phương
pháp, cách thức để xây dựng lối sống lành mạnh cho sinh viên. Những mặt
tích cực của quan niệm tự do trong triết học hiện sinh vô thần cũng là một gợi
ý, một sự lựa chọn mới mẻ trong hoạt động xây dựng và giáo dục lối sống

lành mạnh của sinh viên ở Hà Nội hiện nay.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn vấn đề Quan niệm về tự do trong
triết học hiện sinh vô thần và ý nghĩa đối với lối sống của sinh viên Hà Nội
hiện nay làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
3


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu về những điều kiện tiền đề cho sự ra đời
của quan niệm tự do trong triết học hiện sinh
Khi nói về điều kiện ra đời của triết học hiện sinh, tác giả Nguyễn Tiến
Dũng (2006) trong cuốn Chủ nghĩa hiện sinh, lịch sử, sự hiện diện của nó ở
Việt Nam [10] và tác giả Nguyễn Thị Thường (2007) trong báo cáo Sự hình
thành, phát triển và đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh in trong cuốn
“Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX” [72] cùng cho rằng, triết học
hiện sinh ra đời từ hai điều kiện cơ bản: một là, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa chạy theo lợi nhuận và sự sùng bái khoa học - kỹ thuật một cách
thái quá đã làm cho xã hội phương Tây sa vào khủng hoảng, suy đồi, bởi vì
nó phi nhân vị hóa con người; hai là, phản ứng trước sự thống trị thái quá của
chủ nghĩa duy lý trong xã hội phương Tây hiện đại. Đứng trước câu hỏi chiến
tranh có phải là nguồn gốc dẫn đến sự ra đời của triết học hiện sinh không?
Các tác giả đều cho rằng hai cuộc chiến tranh không phải là nguồn gốc sâu xa
mà chỉ là điều kiện trực tiếp dẫn đến sự ra đời của triết học hiện sinh.
Cuốn sách Triết học phương Tây hiện đại (phần thứ nhất: cuối thế kỷ
XIX - nửa đầu thế kỷ XX) [37] của tập thể tác giả Đỗ Minh Hợp, Nguyễn
Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (2008) đã phác họa một cách khá toàn diện về triết
học hiện sinh. Trong tác phẩm này, các tác giả đã phân tích làm sáng tỏ các
tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của triết học hiện sinh - đó là tư tưởng triết học
của Dostoevski như nhà tiền khởi của triết học hiện sinh, của S. Kierkegaard
như ông tổ của triết học hiện sinh và của E. Husserl như người đặt nền móng

lý luận cho triết học hiện sinh.
Tác giả Lê Kim Châu (1996) trong luận án Phó tiến sĩ triết học Chủ
nghĩa hiện sinh và một vài ảnh hưởng của nó ở miền Nam Việt Nam [3] đã
nghiên cứu cơ sở hình thành chủ nghĩa hiện sinh ở hai nguồn gốc chính: một
là, nguồn gốc xã hội và nhận thức của chủ nghĩa hiện sinh; hai là, nguồn gốc
tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Khi phân tích về nguồn gốc xã hội của chủ
4


nghĩa hiện sinh, hầu hết các nhà nghiên cứu trước đây đều cho rằng, chủ
nghĩa hiện sinh có nguồn gốc xã hội từ những cuộc khủng hoảng xã hội và
chiến tranh. Tuy nhiên, tác giả trên cho rằng, khủng hoảng xã hội và chiến
tranh chỉ là những nguyên nhân xã hội trực tiếp của chủ nghĩa hiện sinh.
Nguồn gốc đích thực và nguyên nhân sâu xa của nó là những mâu thuẫn
không thể điều hòa được của các xã hội bóc lột và bất công. Khi nói về nguồn
gốc tư tưởng của triết học hiện sinh, tác giả phân tích các quan điểm của các
nhà tư tưởng được cho là đặt nền móng cho triết học hiện sinh như Socrate,
Descartes, Pascal, đặc biệt là Kierkegaard với tư tưởng về “Tư duy hiện sinh”,
Nietzsche mở đầu cho một dòng hiện sinh mới - hiện sinh vô thần, Husserl
với “Phương pháp hiện tượng luận”.
Như vậy, có thể khẳng định, khi nghiên cứu về điều kiện ra đời của triết
học hiện sinh, các công trình nghiên cứu trên thống nhất ở bốn nguyên nhân
cơ bản: thứ nhất, điều kiện kinh tế xã hội; thứ hai, khủng hoảng của triết học
duy lý; thứ ba, chiến tranh là nhân tố thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa hiện
sinh; thứ tư, tiền đề tư tưởng. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu đó,
các tác giả khắc họa chưa thật sâu sắc tính tất yếu khách quan cho sự ra đời
của triết học hiện sinh cũng như những ảnh hưởng, chi phối của các nguyên
nhân trên đến nội dung cơ bản trong trường phái triết học này.
* Các công trình nghiên cứu về quan niệm tự do trong triết học hiện
sinh

Trong công trình Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây [45],
tác giả Phạm Minh Lăng (2003) quan tâm nhiều nhất đến phạm trù tự do.
Theo ông, trở thành tự do là trở về với chính mình. Tự do là cái mọi người
được lựa chọn và thể hiện. Tự do là hư vô. Ông đã diễn tả quan niệm của
Sartre: “hư vô không phải là cái gì khác hơn là giá trị tỏa ra từ một dự định tự
do và xuất hiện như là một ý tưởng làm cho thế giới không hiện diện bởi sự từ
chối của chính ta” [45, tr.390].

5


Tác giả Trần Thái Đỉnh (tái bản 2005), trong cuốn sách Triết học hiện
sinh [18] cũng bàn đến những phạm trù cơ bản trong triết học hiện sinh như
buồn nôn, phóng thể, ưu tư, vươn lên, tự quyết, độc đáo... Tuy nhiên, trong
các phạm trù đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến hai phạm trù tự do và trách
nhiệm, thông qua tư tưởng của một số nhà triết học hiện sinh như Marcel,
Sartre, Jaspers. “Tự do và định mệnh” là “hai đặc điểm làm con người khác
sự vật, và làm cho một người đã vươn tới hiện sinh khác một người sống
trong tình trạng sự vật” [18, tr.281]. Ông cho rằng, nhân cách là cái do con
người cá nhân tạo ra chứ không phải do trời phú cho, vậy nên, tự do mới thực
sự là thước đo giá trị của con người. Con người có tự do lựa chọn nhưng lựa
chọn của con người là không có lý do: “Sự lựa chọn của ta không bao giờ có
lý do. Sự lựa chọn đó bao giờ cũng đi trước lý do.
Tác giả Đỗ Minh Hợp (2005) trong bài Tư tưởng đạo đức của Gi.P.
Xáctơrơ [33] đã chỉ ra nguyên lý đầu tiên của chủ nghĩa hiện sinh là: hiện
sinh là hư vô, là lựa chọn trong tình huống cụ thể. Khái niệm về tự do là đặc
trưng cơ bản, là tính thứ nhất của hiện sinh, là điểm xuất phát khi nghiên cứu
các phạm trù đạo đức khác của Sartre. Tự do cái phân biệt con người với các
sự vật hiện tượng khác. Khi bàn về tự do, tác giả cho rằng có thể đưa ra định
nghĩa duy nhất về tự do là sự tự chủ lựa chọn và tự do không thể tách rời

trách nhiệm. Với các nhà hiện sinh thì, tự do và trách nhiệm là hai hiện sinh
thể quan trọng nhất. Xuất phát từ tự do người ta có thể hiểu được các phạm
trù khác như thiện, ác, lo âu,... Tác giả cũng cho rằng, người có trách nhiệm là
người luôn lo âu trước mỗi lựa chọn của mình. Lo âu được hiểu là trạng thái
tự nhiên của con người đã gánh vác trách nhiệm. Trên cơ sở đó, tác giả khái
quát thành các đặc điểm cơ bản trong quan niệm của Sartre về đạo đức.
Cũng tác giả Đỗ Minh Hợp [2007], trong bài tạp chí Tự do và trách
nhiệm trong đạo đức học hiện sinh [36] cho rằng, tự do và trách nhiệm (đối
với tự do) là hai hiện sinh thể quan trọng nhất. Điều đáng chú ý là, tác giả chỉ
ra tự do là cơ sở để nghiên cứu các phạm trù đạo đức trong triết học hiện sinh.
6


Tất cả những gì có nội dung đạo đức đều được đặt dưới ánh sáng phê phán
của tự do. Không những thế, tác giả cũng khẳng định vai trò, vị trí của trách
nhiệm trong mối liên hệ với tự do. Nếu tự do được coi là nguyên tắc cơ bản
của tồn tại người, là cái phân biệt con người với mọi cái tự nhiên, thì trách
nhiệm là thái độ của con người đối với tự do. Trách nhiệm không phải là sự
sao chép lại tự do, mà là luận điểm cơ bản thứ hai của triết học hiện sinh.
Không chỉ bàn đến các phạm trù như tự do, trách nhiệm, thiện, ác, tác giả bài
viết còn đề cập đến các phạm trù đạo đức khác như lo âu, sợ hãi, thất vọng,
v.v. qua việc làm rõ quan niệm của các nhà triết học hiện sinh tiêu biểu như E.
Husserl, M. Heidegger, K. Jaspers, J.P. Sartre và A. Camus. Từ đó, tác giả
đưa ra những ý kiến đánh giá về đóng góp của triết học hiện sinh trong lĩnh
vực đạo đức học.
Phân tích phạm trù tự do và trách nhiệm như hai phạm trù trung tâm,
nổi bật trong triết học hiện sinh của J.P. Sartre, tác giả Đặng Hữu Toàn (2007)
trong bài viết Về chủ nghĩa hiện sinh vô thần của Gi.P. Xáctơrơ in trong cuốn
Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX [72], cho rằng, J.P. Sartre lấy tự
do của con người làm chủ đề trung tâm trong học thuyết của ông. Ông nhìn

nhận tự do của con người là nét đặc trưng phân biệt con người với mọi thực
thể khác trong vũ trụ. Tự do là bản chất của con người, là cội nguồn của hoạt
động của con người, là khả năng tồn tại duy nhất của con người. Bằng sự lựa
chọn tự do của mình, con người phác họa nên chính mình. Tác giả cho rằng,
lựa chọn hiện sinh là một đặc trưng vinh quang của con người, bởi nó mang
lại phẩm giá cho con người. Điều đáng chú ý là, tác giả Đặng Hữu Toàn cũng
gắn phạm trù trách nhiệm trong mối quan hệ với phạm trù tự do.
Tác giả Hoàng Văn Thắng (2007) trong bài viết Tìm hiểu quan niệm
của Jean Paul Sartre về hiện sinh in trong cuốn Những vấn đề triết học thế kỉ
XX [72], đã phân tích quan niệm của J.P. Sartre về hiện sinh. Trên cơ sở đó
tác giả cũng đưa ra quan điểm của mình về phạm trù tự do. Không phân tích
sâu về phạm trù này, nhưng theo tác giả, con người hiện hữu là khi có tính
7


sáng tạo và tự do. Khi mới sinh ra, con người không là gì cả, còn trong cuộc
sống con người là tổng thể những cái do mình tạo nên. Con người tự tạo nên
số phận của chính bản thân mình, tự mình làm nên bản chất mình. Do đó, con
người phải chịu trách nhiệm và thực hiện những lựa chọn.
Một trong những đóng góp quan trọng vào nghiên cứu về vấn đề đạo
đức trong triết học hiện sinh là công trình Triết học hiện sinh [38] của nhóm
tác giả Đỗ Minh Hợp, Trần Thị Điểu... (2010). Sau khi trình bày có hệ thống
các quan điểm cơ bản của các nhà hiện sinh, các tác giả đã đi sâu phân tích
làm rõ các phạm trù đạo đức cơ bản của các nhà triết học hiện sinh như tự do,
trách nhiệm, lo âu, sợ hãi,... Đặc biệt, sự phân tích đã làm nổi bật phạm trù tự
do và trách nhiệm như một luận điểm chủ yếu trong quan điểm của các triết
gia hiện sinh về đạo đức. Tuy nhiên, việc nghiên cứu phạm trù tự do và trách
nhiệm chỉ dừng lại ở một số triết gia tiêu biểu như A. Camus, J.P. Sartre,...
Sau khi phân tích các quan điểm của Sartre về tự do, tự do là bản tính của con
người, con người buộc phải có tự do, bị quẳng vào tự do,… các tác giả đưa ra

“định nghĩa duy nhất về tự do - là tự chủ lựa chọn” [38, tr.410]. Tự do gắn
với trách nhiệm. Các tác giả cho rằng: “trách nhiệm là tuyệt đối giống như tự
do” [38, tr.411].
Như vậy, trong các công trình trên, các tác giả đều nghiên cứu phạm trù
tự do như là phạm trù trung tâm của triết học hiên sinh. Tự do là tuyệt đối, là
giá trị đạo đức cao nhất và là cơ sở để nghiên cứu và đánh giá các phạm trù
đạo đức học khác. Tự do phải gắn với trách nhiệm. Thêm nữa, tự do cá nhân
được coi là đặc tính cơ bản của tồn tại người, là cái phân biệt con người với
mọi cái tự nhiên, vì vậy, con người phải có trách nhiệm đối với tự do. Con
người chỉ thực sự tự do khi nhận thấy trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, các
tác giả chủ yếu chỉ phân tích phạm trù tự do theo quan niệm của từng triết gia
tiêu biểu chứ chưa khái quát nội dung của phạm trù này thành những luận
điểm chung trên toàn hệ thống và chưa có sự đánh giá khái quát về những giá
trị và hạn chế của tự do hiện sinh đối với đời sống của con người.
8


* Các công trình nghiên cứu ngoài nước về quan niệm tự do trong triết
học hiện sinh
Trong tác phẩm Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học phương
Tây hiện đại [21], tác giả Lưu Phóng Đồng (2004) đã phân tích phạm trù tự
do như là phạm trù trung tâm trong tư tưởng của ba triết gia hiện sinh tiêu
biểu M. Heidegger, K. Jaspers, J.P. Sartre. Ở đây, tác giả đã phân tích sự khác
nhau trong quan niệm tự do của ba triết gia trên. Nếu như Heidegger cho rằng,
tự do là đặc tính tiên thiên của con người, con người sinh ra là đã có tự do, tự
do lựa chọn, trong đó quan trọng nhất là coi tự do là việc con người lựa chọn
tính khả năng, thì tự do của Jaspers lại gắn liền với hiện sinh và siêu việt.
Hiện sinh và tự do là đồng nhất. Jaspers quy tự do của con người về tự do cá
nhân, tức là cá nhân có khả năng tự lựa chọn, sáng tạo quyết định hành động
của mình. Tuy nhiên, tự do của Jaspers không có nghĩa tuyệt đối như của

Sartre mà phải tuân theo đấng sinh thành là Thượng đế. Sự chỉ dẫn của
Thượng đế không phải là sự phục tùng sức mạnh ở bên ngoài mà là tự mình
hiểu lấy. Người nào hiểu được tự do tức là đã vượt qua giới hạn cá nhân mà
hòa hợp với Thượng đế. Cũng nói về tự do nhưng với Sartre, tự do là tuyệt
đối. Tự do của con người có trước bản chất, làm cho con người khác biệt với
vật. Mọi đặc tính của con người không phải sinh ra là có sẵn hay do Thượng
đế ban cho, mà là do con người tự do tạo nên theo nguyện vọng của mình.
Mặt khác, tự do cá nhân gắn liền với trách nhiệm (trách nhiệm về sự lựa chọn
của mình trước chính bản thân mình và trước tất cả mọi người).
Trong cuốn Nhập môn triết học phương Tây [63] các tác giả Samue
Enach Stumpt và Donald C. Abel (2004) đã bàn đến phạm trù tự do như là
phạm trù trung tâm của đạo đức học Sartre. Sartre nhìn tự do như điểm đặc
trưng phân biệt con người với mọi thực thể khác trong vũ trụ. Con người hiện
sinh là tự do, nên con người có thể tạo dựng nên bản thân mình trở thành loại
hữu thể mà mình chọn. Tự do không phải là lựa chọn các giá trị đúng, mà
chính hành vi chọn lựa của chúng ta tạo cho nó giá trị, làm cho nó thành tốt.
9


Nhiệm vụ của mỗi cá nhân chúng ta là nhận thức được tự do của mình và sử
dụng nó để tạo ra chính mình. Theo các tác giả, con người theo quan niệm của
các nhà hiện sinh, là không xác định, đó vì ban đầu nó không là gì cả. Chỉ sau
đó nó mới và sẽ là cái gì, và tự nó sẽ làm nó thành cái gì. Theo các tác giả, tự
do hiện sinh luôn gắn với trách nhiệm của họ. Con người hoàn toàn chịu trách
nhiệm về việc mình là con người nào và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của
mình trước chính bản thân mình và mọi người khác.
Tác phẩm Chủ nghĩa hiện sinh [6] của tác giả Jacques Colette (2011)
bàn về khái niệm hiện sinh, các phạm trù cơ bản trong tư tưởng triết học của
các nhà hiện sinh. Khi nói về phạm trù tự do, tác giả cho rằng, theo các triết
gia hiện sinh thì hiện sinh có trước bản chất, hiện sinh và tự do là một. Tự do

là khả năng hiện hữu, hiện hữu vì chính mình. Tự do thể hiện sự chủ động
sáng tạo của con người luôn đổi mới hướng đến tương lai mà không thể đoán
trước được. Tự do là lựa chọn hiện hữu của con người, chứ không phải là cơ
sở của sự hiện hữu của họ.
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lối sống của sinh
viên
Có nhiều học giả đi trước đã nghiên cứu đến vấn đề đạo đức lối sống,
cách ứng xử, định hướng nghề nghiệp của sinh viên Việt Nam. Có thể kể đến
một vài công trình tiêu biểu sau đây.
Nghiên cứu về thực trạng đạo đức, lối sống của thanh niên hiện nay có
các công trình của các tác giả như: Cao Xuân Thạo (2008), Định hướng giá
trị của thanh niên sinh viên hiện nay [65]; Trung ương hội sinh viên Việt
Nam (2008), Tổng quan tình hình sinh viên, công tác Hội và phong trào sinh
viên nhiệm kỳ VII 2003 – 2008 [71]; Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và
lối sống của thanh niên Viêt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế
[73].
Trong các công trình khoa học trên, các tác giả đã phân tích, đánh giá
thực trạng biểu hiện của đạo đức, lối sống của thanh niên. Những biểu hiện đó
10


được xem xét, phân tích qua định hướng giá trị sống của họ, qua việc họ tham
gia các hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, qua thái độ của sinh
viên đối với vấn đề hoạt động lao động nghề nghiệp, các hoạt động học tập ở
trường và hoạt động tự học, hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí… Khi phân
tích các biểu hiện, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những mặt tích cực và tiêu
cực của đao đức, lối sống; đồng thời so sánh diễn biến của chúng ở các mốc
thời gian khác nhau.
Các tác giả thuộc nhóm này cũng phân tích những bối cảnh kinh tế xã
hội có tác động đến đao đức lối sống của thanh niên. Theo các nhà nghiên cứu

này, xu hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta vừa là động lực, vừa là
đòi hỏi của sự phát triển của khoa học công nghệ và văn hóa – giáo dục… là
cơ hội thuân lợi cho sự phát triển của sinh viên. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó,
thanh niên sinh viên cũng chịu những khó khăn thách thức không nhỏ. Các
thách thức khó khăn đó là: sự bùng nổ dân số làm tăng sức cạnh tranh trong
giáo dục; kinh tế thị trường dẫn đến nguy cơ thất nghiệp cao, phân hóa giàu
nghèo rõ rệt hơn; việc thục hiện công nghiệp hóa, hiện đai hóa làm thay đổi
nhip sống, phong cách sống của cá nhân, con người bị hút vào công việc, các
hoạt động xã hội. Điều đó có thể ảnh hưởng đến các mối quan hệ trong gia
đình, làm giảm sự quan tâm của bố mẹ đối với việc chăm sóc, giáo duc con
cái làm ảnh hưởng đến lối sống của sinh viên.
Ngoài ra, chúng ta phải kể tới công trình nghiên cứu về Định hướng giá
trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay [1] của Ban thanh niên trường học
(2007). Nghiên cứu này đã phát hiện những biểu hiện và xu hướng biến đổi
định hướng giá trị của sinh viên trên ba nội dung: Một là, định hướng giá trị
về nhận thức mục đích sống; hai là, định hướng giá trị trong hoạt động hoc
tập và nghiên cứu khoa học; ba là, định hướng giá trị về mối quan hệ giữa
con người với con người. Đề tài cũng đề cập và phân tích vai trò quan trọng
của Đoàn Thanh niên và các tổ chức đoàn thể sinh viên trong xây dưng

11


phương hướng, hệ chuẩn mực giá trị nhằm phát huy sức mạnh về tri thức của
giới trẻ, đặc biệt là sinh viên vốn là nguồn lực, là tương lai của đất nước.
Bên cạnh đó còn có luận án tiến sĩ xã hội học của Phạm Tất Thắng
(2009) về Định hướng giá trị sinh viên [66] có giá trị tham khảo nhất định cho
luận văn. Nghiên cứu cũng phản ánh thực trạng của định hướng giá trị của
sinh viên của 11 đơn vị đào tạo trên địa bàn Hà Nội ở các khía cạnh của cuộc
sống như: định hướng giá trị của sinh viên về tình yêu, tình bạn hay định

hướng trong lựa chọn bạn đời. Tác giả đánh giá định hướng giá trị như một hệ
thống chuẩn mực điều chỉnh hành vi của sinh viên trong các mặt của đời
sống.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn (1998) cùng với các cộng sự, đã phân tích
các số liệu thực tế và chỉ ra các mặt ưu khuyết trong lối sống của sinh viên sư
phạm trong đề tài khoa học Xây dựng đạo đức lối sống mới cho sinh viên Đại
học Sư phạm phục vụ công nghiêp, hóa hiện đại hóa đất nước [75]. Công
trình đã nêu cụ thể những biểu hiện của lối sống và đạo đức của sinh viên sư
phạm trong học tập, trong quan hệ giao tiếp ứng xử, trong hoạt động tập thể
và cá nhân, trong việc sử dụng thời gian rảnh rỗi. Qua đó đề xuất những
phương hướng và biện pháp giáo dục lối sống lành mạnh cho sinh viên..
Tác giả Mạc Văn Trang (1995) trong công trình khoa học cấp bộ Đặc
điểm lối sống của sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo
dục lối sống cho sinh viên [69], đã xác định khái niệm lối sống sinh viên và
nêu ra một hệ thống những đặc điểm của lối sống sinh viên được biểu hiện
qua một loạt những hoạt động. Đặc biệt, công trình đã đưa ra và phân tích
nhiều số liệu thống kê để đưa ra những nhận định về những mặt tích cực và
tiêu cực của lối sống sinh viên và đề xuất những biện pháp giáo dục sinh viên
có lối sống lành mạnh. Trong công trình này, tác giả hạn chế đề cập đến lý
thuyết về lối sống sinh viên mà đi vào phân tích thực tế những biểu hiện của
lối sống sinh viên qua điều tra xã hội học.

12


Nhìn chung các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị
đã góp phần tích cực cho sự phát triển lý thuyết và góp phần to lớn giải quyết
các vấn đề thực tiễn của cuộc sống và xã hội. Hầu hết, các nghiên cứu đều chỉ
ra sư quan trọng của hệ giá trị và tính cấp thiết của định hướng giá trị. Việc
nghiên cứu đã tiến đến hoàn thiện hơn về lý luận, phương pháp cũng như

nhận diện những đăc trưng về hệ thống giá trị của con người Việt Nam cũng
như xu hướng vận động của nó theo từng giai đoạn. Tuy nhiên, mỗi nghiên
cứu đều xuất phát từ những góc độ khác nhau, mục đích nghiên cứu khác
nhau và trong những giai đoạn khác nhau nên chắc chắn sẽ có nhiều vấn đề
chưa được đề cập đến kịp thời. Chính vì vậy, luận văn Quan niệm về tự do
trong triết học hiên sinh vô thần và ý nghĩa đối với lối sống của sinh viên Hà
Nội hiện nay được thực hiện nhằm làm sáng tỏ hơn những ý nghĩa tích cực
của quan niệm tự do trong triết học hiện sinh vô thần đối với hình thành lối
sống của sinh viên Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Luận văn làm sáng tỏ quan niệm của triết học hiện sinh vô
thần về tự do, những biểu hiện của nó và chỉ ra ý nghĩa của nó đối với việc
định hướng lối sống lành mạnh cho sinh viên ở Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ: Thứ nhất, phân tích những điều kiện và tiền đề cho sự ra
đời của quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh vô thần.
Thứ hai, làm rõ những nội dung chủ yếu của quan niệm về tự do trong
triết học hiện sinh vô thần.
Thứ ba, xây dựng khái niệm lối sống sinh viên và chỉ ra một số đặc
điểm của sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Hà Nội hiện nay nói
riêng.
Thứ tư, chỉ ra những hạn chế cần khắc phục trong lối sống của sinh
viên Hà Nội hiện nay và nêu một số ý nghĩa nhận thức và thực tiễn của quan
niệm về tự do trong triết học hiện sinh vô thần đối với lối sống của sinh viên ở
Hà Nội hiện nay.
13


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh
vô thần và ý nghĩa của nó đối với lối sống của sinh viên ở Hà Nội hiện nay.

* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ quan niệm nêu trên
thông qua tư tưởng của hai nhà hiện sinh tiêu biểu là M. Heidegger và J.P.
Sartre và ý nghĩa của quan niệm này đối với lối sống của sinh viên Hà Nội
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: - Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm triết
học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, về sự
thống nhất lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tư tưởng triết học.
- Luận văn cũng dựa trên quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam về việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại nhằm góp phần
làm phong phú hơn đời sống tinh thần của nhân dân ta trong thời kỳ mới.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng như: thống nhất lịch sử - logic; phân
tích và tổng hợp; đối chiếu so sánh tài liệu; phương pháp hệ thống - cấu trúc…
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ quan niệm về tự do và những biểu hiện của
nó trong triết học hiện sinh vô thần, thông qua hai đại diện tiêu biểu là Sartre
và Heidegger và chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt.
Luận văn khảo sát sự ảnh hưởng của quan niệm này đối với lối sống
của sinh viên ở Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần cung cấp một cách tiếp cận khác đến quan niệm về
tự do trong triết học hiện sinh vô thần mà tập trung chủ yếu vào quan điểm
của Sartre và Heidegger, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu triết học hiện sinh của sinh viên, học viên cao học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
14




×