Tải bản đầy đủ (.doc) (195 trang)

Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của học viên ở đại học quân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 195 trang )

5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Hoạt động NCKH và hoạt động đào tạo ở ĐHQS luôn có quan hệ mật
thiết và thâm nhập vào nhau trong quá trình thực hiện sứ mệnh của trường
đại học. Trong quá trình đào tạo, hoạt động NCKH của sinh viên, học viên là
con đường trọng yếu để nâng cao nhận thức, phát triển tư duy và năng lực
sáng tạo của người học, vì vậy nó được coi là kết quả, đồng thời là điều kiện
của dạy học tích cực trong nhà trường.
Các học viện, trường sĩ quan quân đội có nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh
đạo, chỉ huy các đơn vị có phẩm chất chính trị, có trình độ chuyên môn sâu,
học vấn cao; có năng lực lãnh đạo, chỉ huy và khả năng vận động, thuyết
phục cấp dưới thuộc quyền. Vì vậy ở ĐHQS thường xuyên coi trọng nâng
cao chất lượng dạy học và tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV
của học viên. Tác giả công trình nghiên cứu “Quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học XH&NV của học viên ở đại học quân sự” mong muốn sẽ luận giải
được cơ sở khoa học để tổ chức, chỉ đạo, điều hành có kết quả hoạt động đó,
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội.
Để đạt được mong muốn nêu trên, luận án tập trung làm rõ các khái
niệm: NCKH, nghiên cứu khoa học XH&NV, quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS; tổ chức nghiên cứu thực tiễn
nhằm đi sâu phân tích tình hình, thực trạng hoạt động nghiên cứu và quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên. Trên cơ sở đó để đề
xuất phương hướng, biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
XH&NV của học viên ở ĐHQS.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 18 tháng 6 năm


6


2012 xác định mục tiêu đào tạo trình độ đại học là: “để sinh viên có kiến
thức chuyên môn toàn diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội,
có kỹ năng thực hành cơ bản, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải
quyết những vấn đề thuộc ngành được đào tạo” [64]. Chính vì vậy, dạy học ở
đại học phải được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo và năng lực tự học của người học. Theo đó, NCKH trở thành
một trong những nhiệm vụ quan trọng mà sinh viên, học viên phải thực hiện
trong quá trình đào tạo. “Quy định về hoạt động NCKH của sinh viên trong
các cơ sở giáo dục đại học” ban hành kèm theo Thông tư số 19/2012/TTBGDĐT ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã chỉ rõ:
“Trách nhiệm của sinh viên, học viên ở các trường đại học phải thực hiện
nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ
vào thực tiễn theo kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ của trường đại
học” [13, tr.15]. Để quy định này được thực hiện nghiêm túc đòi hỏi các chủ
thể quản lý giáo dục ở trường đại học phải coi trọng quản lý hoạt động
NCKH của sinh viên.
Các học viện, trường sĩ quan quân đội là những cơ sở đào tạo đội ngũ
cán bộ có trình độ đại học, sau đại học và chức danh lãnh đạo, chỉ huy, có tri
thức chuyên sâu theo ngành đào tạo trong lĩnh vực quân sự, đồng thời có khả
năng tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, góp phần bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng. Vì vậy, học viên ở ĐHQS không chỉ được trang bị kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp và năng lực chuyên môn quân sự, mà còn được giáo
dục có hệ thống về khoa học XH&NV, nhất là về lý luận chính trị và khoa
học xây dựng Đảng. Điều đó đòi hỏi học viên ở ĐHQS phải tham gia nghiên
cứu khoa học XH&NV.
Chiến lược phát triển GD&ĐT trong quân đội giai đoạn 2011- 2020
xác định: “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa


7

GD&ĐT với nghiên cứu khoa học… Quan tâm và đầu tư thích đáng cho hoạt
động nghiên cứu khoa học của học viên ở tất cả các cấp, nhất là học viên đào
tạo cấp phân đội trình độ đại học. Tổ chức và duy trì có hiệu quả Phong trào
Tuổi trẻ sáng tạo ở các học viện, trường” [16, tr.48 - 49]. Thực hiện chiến
lược đó, các nhà trường ĐHQS đã đẩy mạnh việc kết hợp giữa dạy học và
định hướng, bồi dưỡng cho học viên nghiên cứu khoa học. Nhiều học viên ở
ĐHQS đã có những công trình, đề tài khoa học, sáng kiến kinh nghiệm tham
gia giải thưởng “Tuổi trẻ sáng tạo” trong quân đội và giải thưởng khoa học
trẻ Vifotex... Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học
viên ở ĐHQS thời gian vừa qua còn có những hạn chế cần khắc phục đó là:
số lượng đề tài, chuyên đề tuy tăng lên nhưng chất lượng chưa cao, cá biệt
còn có biểu hiện trùng lặp, sao chép và ít được ứng dụng triển khai trong
thực tiễn. Một trong những nguyên nhân của những hạn chế trên là do công
tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS
còn bất cập.
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hoạt
động nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, trong
đó có một số công trình bàn về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
XH&NV trong quân đội, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS.
Xuất phát từ những lý do trên đây, NCS lựa chọn vấn đề: “Quản lý hoạt
động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở đại học quân sự” làm đề
tài luận án của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất phương hướng, biện pháp
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo ở ĐHQS hiện nay.



8
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
XH&NV của học viên ở ĐHQS.
- Khảo sát, phân tích đặc điểm, thực trạng, nguyên nhân của quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS.
- Xác định phương hướng và đề xuất biện pháp quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS.
- Tổ chức khảo nghiệm và thử nghiệm kiểm chứng biện pháp đã đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
4.1. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý giáo dục, đào tạo ở đại học quân sự.
* Đối tượng nghiên cứu:
Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS.
4.2. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung làm rõ những vấn đề quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên các ngành đào tạo đại
học ở ĐHQS dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục.
Phạm vi về khách thể khảo sát: Địa bàn khảo sát tập trung ở Học viện Chính
trị, Học viện Hậu cần, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1.
Phạm vi về thời gian: Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu từ năm 2011 đến nay.
4.3. Giả thuyết khoa học
Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ của học viên ở
ĐHQS, được tiến hành trong quá trình dạy học nhằm nâng cao nhận thức,
phát triển trí tuệ, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ lao động khoa học
nghiêm túc cho người học. Nếu hiệu trưởng (giám đốc) trường ĐHQS chỉ
đạo bộ máy quản lý của nhà trường tiến hành tốt việc giáo dục nhận thức,



9
trách nhiệm của các lực lượng sư phạm; kế hoạch hóa hoạt động nghiên cứu
khoa học XH&NV của học viên; hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy trình
triển khai nghiên cứu; phát triển các nguồn lực về thông tin, tư liệu, cơ sở vật
chất - kỹ thuật và tài chính; ban hành các quy định khuyến khích học viên
nghiên cứu khoa học; tăng cường kiểm tra, đánh giá, phổ biến và ứng dụng
kết quả nghiên cứu thì sẽ quản lý chặt chẽ được hoạt động nghiên cứu khoa
học XH&NV của học viên ở ĐHQS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở tiếp cận từ thực tiễn hoạt động
nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ,
đồng thời vận dụng các quan điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgic và thực
tiễn trong xem xét, giải quyết vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
XH&NV của học viên.
Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục, giáo
dục học, tâm lý học về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của
học viên, sinh viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
* Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các văn bản quản lý giáo dục, quản
lý khoa học và các công trình khoa học về quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học của học viên, sinh viên.
Để đạt được mục đích nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ của đề tài,
chúng tôi tập trung nghiên cứu các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết,... của Đảng,



10
Nhà nước; của Bộ GD&ĐT, Bộ Khoa học, Công nghệ về các nội dung có
liên quan đến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Sử dụng các mẫu phiếu điều tra, khảo sát 460 cán bộ, giảng viên, học
viên tại Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Học viện
Hậu cần, Học viện Quân y về thực trạng, nguyên nhân và biện pháp quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội.
+ Phương pháp tọa đàm, trao đổi
Tọa đàm, trao đổi với lãnh đạo, chỉ huy nhà trường và cán bộ quản lý các
phòng Khoa học quân sự của Học viện Chính trị, Học viện Hậu cần, Học
viện Quân y, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1 để tìm
hiểu về kế hoạch, quy trình triển khai, hoạt động kiểm tra, đánh giá tiến trình,
kết quả, chất lượng nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu các công trình khoa học XH&NV của học viên ĐHQS tham
gia giải thưởng “Tuổi trẻ sáng tạo” trong quân đội và giải thưởng khoa học
trẻ Vifotex; xem xét nội dung của 130 đề tài, 99 chuyên đề khoa học mà học
viên đã thực hiện, gần 100 bài tiểu luận, thu hoạch, các bài hội thảo khoa học
của học viên từ năm 2010 đến nay; cũng như các báo cáo của Cục Khoa học
và Công nghệ Bộ Quốc phòng, của Ban Thanh niên quân đội về tổng hợp kết
quả hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên; các bản tổng kết
công tác khoa học, các kế hoạch triển khai nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
của nhà trường, các khoa, các đơn vị học viên; các biên bản thẩm định,
nghiệm thu các đề tài, chuyên đề và các sản phẩm nghiên cứu khoa học
XH&NV của học viên tại Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị,

Trường Sĩ quan Lục quân 1.


11
+ Phương pháp quan sát sư phạm
Tiến hành quan sát tại Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị,
Trường Sĩ quan Lục quân 1 về các hoạt động chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đánh
giá, xếp loại các công trình khoa học XH&NV của học viên, cũng như các hình
thức sinh hoạt khoa học của học viên về các chủ đề khoa học XH&NV.
+ Phương pháp phân tích nhận định độc lập
Phân tích, tổng hợp các nhận định từ nhiều nguồn tài liệu, chủ yếu là
nhận định của Cục Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng và của Ban Thanh
niên quân đội, Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan
Lục quân 1 về các vấn đề có liên quan đến công tác quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ĐHQS.
+ Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
- Xin ý kiến của các cán bộ quản lý, nhà khoa học và và giảng viên Học viện
Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị nhằm xác định tính khả thi của các biện pháp
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS.
+ Phương pháp thử nghiệm
Tổ chức thử nghiệm có đối chứng về một số biện pháp cơ bản mà luận
án đã đề xuất tại Trường Sĩ quan Chính trị với sự tham gia của 92 học viên
(45 học viên thử nghiệm, 47 học viên đối chứng).
* Phương pháp thống kê toán học
Trong quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê toán học để
xử lý số liệu làm minh chứng cho những nhận định, đánh giá của đề tài và
thử nghiệm các giải pháp được đề xuất.
6. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ khái niệm quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS.

- Luận án đã khái quát được đặc điểm hoạt động nghiên cứu khoa học
XH&NV của học viên, làm rõ thực trạng và nguyên nhân quản lý hoạt động
này ở ĐHQS.


12
- Luận án đã góp phần đề xuất hệ thống biện pháp quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS hiện nay có tính khả thi cao.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án được nghiên cứu thành công sẽ góp phần bổ sung, phát triển lý
luận về quản lý hoạt động khoa học nói chung, quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS nói riêng. Trên cơ sở đó góp phần
tạo sự chuyển biến về mặt nhận thức và tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa
học XH&NV ở ĐHQS hiện nay.
Luận án sẽ là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học
của các học viện, NTQĐ, đồng thời còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
XH&NV của học viên, sinh viên trong các trường đại học.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể vận dụng vào lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS trong
bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 4 chương với
10 tiết, kết luận và kiến nghị, danh mục công trình khoa học đã công bố,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


13
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


Quản lý hoạt động NCKH nói chung, hoạt động NCKH của sinh viên
các trường đại học nói riêng là vấn đề được các nhà giáo, nhà khoa học,
chuyên gia quản lý giáo dục quan tâm nghiên cứu với những phương pháp
tiếp cận khác nhau. Điều đó có thể nhận thấy qua tổng quan về vấn đề nghiên
cứu được nêu dưới đây.
1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Hướng nghiên cứu về quan hệ giữa hoạt động dạy học và hoạt động
nghiên cứu khoa học trong quá trình đào tạo
Trong buổi sơ khai của xã hội loài người, những khái niệm về khoa học,
NCKH còn khá xa lạ. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại,
nhu cầu tìm hiểu, khám phá thế giới của con người xuất hiện và không
ngừng tăng lên. Nếu như khởi thuỷ, khoa học chỉ là mối quan tâm mang tính
cá nhân của những thiên tài, NCKH chỉ là công việc của số ít những nhà
thông thái, có tài năng thiên bẩm thì ngày nay khoa học đã trở thành một lĩnh
vực hoạt động được xã hội hoá cao, với sự tham gia của rất nhiều người, trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có cả những NCKH trong các nhà trường.
Ngay từ thế kỷ thứ XVII, nhà giáo dục người Tiệp Khắc J. A.
Kômenxki (1592 - 1670) đã nêu ra vấn đề “Ban giám hiệu và thanh tra nhà
trường có thể kích thích lòng ham học của học sinh bằng cách trực tiếp
tham gia vào các hoạt động chung của lớp, chẳng hạn các buổi thảo luận
chuyên đề... một hình thức nữa là tăng cường khen thưởng” [22, tr.89].
Các nhà giáo dục khác thế kỷ XVIII - XIX như: Pétxtalôdi (Thuỵ sĩ 1746 1827), Đixtécvéc (Đức, 1790 - 1866), Usinxki (Nga, 1824 - 1870 cũng đã
nhấn mạnh sự cần thiết phải khuyến khích và tạo điều kiện để người học
chiếm lĩnh tri thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi nghiên cứu.
Như vậy, các nhà giáo dục nêu trên rất coi trọng dạy học tích cực, dạy
học mang tính chất NCKH.


14
Bàn về mối quan hệ giữa giáo viên và sinh viên trong dạy học tích cực

và NCKH, Rojia Roi Sinh - nhà giáo dục học người Ấn Độ cho rằng: “Giáo
viên là người cán bộ tri thức, người học suốt đời trong việc hoàn thiện quá
trình dạy học, người dạy và người học là những người bạn cùng làm việc,
cùng nhau tìm hiểu và khám phá” [76, tr.115, 116], vì thế, nhà giáo đồng
thời phải là nhà khoa học, nhà quản lý, có kỹ năng NCKH và biết hướng dẫn
sinh viên NCKH.
Có nhiều nhà khoa học ở Mỹ và Châu Âu, tiêu biểu là các nhà giáo dục học
như: Các Rôgơ (Mỹ), Uôntơ (Cộng hoà Dân chủ Đức), Zinôviép (Liên xô cũ)... đã
đề cập đến vấn đề NCKH của người học ở bậc học đại học. Uôntơ cho rằng:
“Chúng ta có thể nâng cao khả năng NCKH nếu chúng ta được đào tạo một cuộc
sống khoa học rất phong phú thông qua những cuộc trao đổi kinh nghiệm rất rộng
rãi và những cuộc tranh luận trao đổi ý kiến, tổ chức các hội nghị khoa học ngay
cả trong các khoa của các trường đại học. Để nâng cao hiệu suất NCKH, tăng
cường cộng tác tập thể và giải quyết các vấn đề một cách toàn bộ, mỗi vấn đề là
một phạm vi nghiên cứu quan trọng, liên quan đến việc thu hút sinh viên vào trong
công tác nghiên cứu và nhiệm vụ gắn liền với công tác đó nhằm phát triển khả
năng sáng tạo của sinh viên” [14, tr.58].
Công trình nghiên cứu “Foundations of American higher education”
của nhiều tác giả Hoa Kỳ, bàn về nền giáo dục đại học và việc tổ chức
nghiên cứu khoa học trong các trường đại học đã cho rằng: Trong các trường
đại học ở Hoa Kỳ, nghiên cứu khoa học là một hình thức học tập tích cực,
góp phần hình thành nên tư duy phê phán và kỹ năng giải quyết vấn đề; có
tác dụng rèn luyện cho sinh viên kỹ năng làm việc theo nhóm. Hơn thế nữa,
nghiên cứu khoa học còn làm phong phú và tạo ra bối cảnh cho việc phát
triển nội dung dạy học. Một môn học được dạy học dựa trên sự tìm tòi,
nghiên cứu sẽ giúp cho sinh viên lĩnh hội một cách có kết quả hơn các tri
thức và kỹ năng cần thiết.


15

Trong công trình vừa nêu, các tác giả cho rằng, ở các trường đại học Hoa
Kỳ giảng dạy và NCKH được tiến hành đồng thời. Để thiết lập và tăng cường
mối liên hệ NCKH và đào tạo, phần lớn các đề tài nghiên cứu của trường đại
học được tài trợ về kinh phí nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp cho giảng viên
hướng dẫn sinh viên giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, hỗ trợ sinh viên,
nghiên cứu sinh tiến hành các thí nghiệm. Tổ chức hệ thống NCKH ở Hoa Kỳ
rất rộng, từ các tổ chức của chính phủ, của liên bang, các bang, của các ngành
công nghiệp đến các tổ chức phi lợi nhuận và các trường đại học. Trong số đó,
các trường đại học luôn được ưu tiên đầu tư kinh phí cho các nghiên cứu cơ bản
chất lượng cao (High - Quality basic researchs).
Ở Việt Nam cũng có khá nhiều tác giả đề cập tới vấn đề quan hệ giữa
hoạt động dạy học và hoạt động NCKH, trong đó có thể kể đến các nhà khoa
học như Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường... Trong
cuốn sách "Quá trình dạy tự học” các tác giả đã bàn về mối quan hệ giữa
truyền thụ kiến thức và bồi dưỡng cho người học phương pháp, kỹ năng
nghiên cứu trong quá trình lĩnh hội [87]. Tác giả Lê Khánh Bằng khẳng định:
“Để tạo ra sự chuyển biến từ lối học tập thụ động sang tự học chủ động, cần
làm cho sinh viên có ý thức chủ động học tập; cần phải bồi dưỡng cho họ
năng lực chủ động học tập bằng cách rèn luyện 4 kỹ năng cơ bản: Kỹ năng
định hướng trong học tập; kỹ năng thiết kế kế hoạch học tập; kỹ năng thực
hiện kế hoạch đã vạch ra; kỹ năng tự kiểm tra quá trình học tập của bản
thân…” [87, tr.115]. Các giáo trình “Phương pháp luận về nghiên cứu khoa
học” của các tác giả Thái Duy Tuyên (1997), Lưu Xuân Mới (2000), Phạm
Viết Vượng (2012)..., trên cơ sở cung cấp những tri thức về phương pháp
luận nghiên cứu khoa học đã chỉ ra cho người học yêu cầu và cách thức tự tổ
chức, rèn luyện, thực hành tập dượt nghiên cứu khoa học có hiệu quả. Trong
bài viết “Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên” tác giả Nguyễn
Thạc cho rằng: công tác NCKH của sinh viên là phương pháp có hiệu quả



16
nhất trong việc đào tạo những người chuyên gia có chất lượng ở đại học. Tác
giả Phan Huy Lê, trong bài “Việc bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa
học cho sinh viên đại học” đã đề xuất cách bồi dưỡng phương pháp nghiên
cứu cho sinh viên bằng kết hợp giảng kiến thức với chỉ dẫn phương pháp
tìm tòi, phát hiện các vấn đề lý luận, thực tiễn, thông qua đó rèn luyện tư
duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên.
Cùng với những nghiên cứu trên còn có một số công trình và bài viết
bàn về nâng cao chất lượng đào tạo bằng đẩy mạnh NCKH của sinh viên,
trong đó có thể kể đến các công trình như: Bài viết “Tăng cường sự kết hợp
giữa NCKH và hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Đồng Tháp”
của tác giả Trương Tấn Đạt [35], bài viết “NCKH góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy ở các học viện trường đại học công an nhân dân” của tác giả
Vương Thị Ngọc Huệ [54], bài viết “Hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên nhân tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo người học ở trường
đại học” của tác giả Ngô Thị Bích Thảo [84], bài viết “Các biện pháp phát
huy tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội” của tác giả Đặng Thị Vân [99]...
Tác giả Ngô Thị Bích Thảo trong bài viết “Hoạt động nghiên cứu
khoa học của sinh viên nhân tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo người
học ở trường đại học” đã cho rằng, hoạt động NCKH của sinh viên là nhân
tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Tác giả đã chỉ
ra các đặc trưng của NCKH là: tính mới mẻ và sự kế thừa; tính khách quan,
tin cậy về nguồn gốc, được thu thập, xử lí bằng phương pháp phù hợp; tính
mạnh dạn, mạo hiểm; sứ mệnh nhận thức và cải tạo thế giới; tính độc đáo cá
nhân và sự trung thực của người nghiên cứu... Tác giả cũng xác định một số
biện pháp tăng cường hoạt động NCKH của sinh viên các trường đại học bao
gồm: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà trường; đội ngũ



17
giảng viên tâm huyết; sự phối hợp giữa các phòng, khoa; làm tốt công tác
bảo đảm; trang bị phương pháp NCKH cho sinh viên [84, tr.34-35].
Theo lý luận giáo dục hiện đại, nghiên cứu khoa học của người học là
cách học sáng tạo ở bậc đại học, là con đường rèn luyện tư duy, tính độc lập
suy nghĩ của người học, góp phần chuyển hóa quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo. Nghiên cứu khoa học của người học là bước đầu vận dụng
một cách tổng hợp những tri thức đã lĩnh hội để tiến hành hoạt động nhận
thức có tính chất nghiên cứu, góp phần giải quyết những vấn đề khoa học do
đời sống thực tiễn đặt ra.
* Hướng nghiên cứu về vấn đề nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt
động nghiên cứu khoa học của sinh viên
- Về vấn đề nghiên cứu khoa học của sinh viên đại học
Đề cập tới các hình thức NCKH của sinh viên, tác giả Zinôviev trong
tác phẩm: Quá trình dạy học ở trường đại học Xôviết, đã viết: “Khoá luận tốt
nghiệp là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập, độc đáo của sinh
viên”. Cũng theo tác giả khi thực hiện niên luận, khoá luận thì mức độ độc
lập và tập dượt NCKH của sinh viên được nâng dần lên qua đó giúp họ có
những quan điểm, thái độ đối với những tác phẩm khoa học và những phẩm
chất, năng lực của người NCKH cũng được hình thành. Mặt khác để sinh
viên thành công trong NCKH, tác giả cũng quan tâm đến các vấn đề giúp họ
giải quyết khó khăn khi chọn đề tài, xây dựng cấu trúc của công trình nghiên
cứu. Ngoài ra tác giả còn đề cập tới phương pháp quản lý, hướng dẫn sinh
viên trong việc NCKH có hiệu quả, đó là, phải tổ chức, tạo mọi điều kiện cần
thiết để sinh viên thể hiện tính tích cực, độc lập ở mức độ cao nhất. Giảng
viên chỉ giữ vai trò định hướng, tổ chức, theo dõi và giám sát sinh viên
NCKH, qua đó giúp họ đạt tới mục đích, yêu cầu đã đặt ra [102, tr. 86].
Trong công trình nghiên cứu “The managetment of astudent research
profect - Singapo” các tác giả Rieth Howard và John A. Sharp đã nghiên cứu



18
về hoạt động và NCKH của sinh viên đại học ở Singapo. Trong nghiên cứu
của mình các ông đã khái quát việc dạy học và NCKH của sinh viên các
trường đại học ở Singapo và cho rằng: Việc dạy học ở Singapo được tổ chức
dựa trên cơ sở chủ động học tập - tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Giảng
viên giảng dạy có tính chất gợi ý, hướng dẫn tài liệu để sinh viên tự đọc, tự
nghiên cứu, tổ chức xêmina và viết thu hoạch theo từng chuyên đề. Điều
kiện đảm bảo cho học tập - nghiên cứu được cung cấp đầy đủ và phong phú.
Thư viện có đầy đủ sách giáo khoa, sách tra cứu, thư viện điện tử, máy
photocopy, mở cửa phục vụ giảng viên và sinh viên từ sáng đến 10 giờ đêm.
Giảng đường, phòng học có đầy đủ trang thiết bị dạy học hiện đại. Trong
công trình này các tác giả cũng cho rằng: giảng viên phải có trình độ và học
vị cao, thành công trong nghiên cứu khoa học thì mới có thể giảng dạy tốt.
Nói một cách khác, chất lượng NCKH và chất lượng giảng dạy của giảng
viên có liên quan mật thiết với nhau. Trong công trình nghiên cứu của mình
các ông cũng biên soạn hệ thống tài liệu nhằm giúp các sinh viên đại học biết
cách quản lý kế hoạch nghiên cứu, trên cơ sở đó làm chủ được tiến độ nghiên
cứu của mình. Các tác giả cũng đã trình bày những vấn đề về việc lựa chọn
đề tài, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, tập hợp phân tích, xứ lí và đánh giá
kết quả hoạt động NCKH của sinh viên.
Ở Việt Nam hoạt động NCKH của sinh viên đại học đã thu hút được
sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà giáo, các nhà quản
lý giáo dục. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được biên soạn thành giáo
trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo phục vụ cho quá trình GD&ĐT
trong các trường đại học. Tiêu biểu là các tác phẩm: “Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học” của tác giả Thái Duy Tuyên; “Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học” của tác giả Vũ Cao Đàm [25]; “Phương pháp luận
và các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục dành cho học viên cao
học” của hai tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức [51]; “khoa học luận



19
và phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục” của tác giả Trần Khánh
Đức [38]; “Đại cương về khoa học quản lý và quản lý giáo dục” của hai
tác giả Trần Kiểm và Nguyễn Xuân Thức [57]...
Trong cuốn “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của Vũ Cao
Đàm được NXB Giáo dục ấn hành năm 2010, tác giả đã mang đến cho người
đọc những hiểu biết về những vấn đề cơ bản như: “Khoa học là gì”, trình tự
lôgíc trong NCKH, các phương pháp thu thập và xử lí thông tin, những cơ sở
của đạo đức khoa học. Theo tác giả, trong NCKH bất kể là nghiên cứu khoa
học tự nhiên hay KH XH&NV, khoa học công nghệ thì đều phải tuân thủ
theo một trật tự lôgíc xác định, bao gồm các bước đó là:
1. Lựa chọn chủ đề (topic) nghiên cứu và đặt tên của đề tài
2. Xác định mục tiêu (Obijective) nghiên cứu
3. Đặt câu hỏi (Question) nghiên cứu
4. Đưa luận điểm, giả thuyết (Hypothesis)
5. Nêu các luận cứ (evedence) để chứng minh giả thuyết
6. Lựa chọn các phương pháp (methods) chứng minh giả
thuyết [25, tr.47].
Cùng với việc giúp người học, người nghiên cứu xây dựng trình tự lôgíc
của NCKH tác giả đã hướng dẫn cách xử lí thông tin; cách trình bày các luận
điểm khoa học, phương pháp tổ chức thực hiện đề tài. Đặc biệt tác giả đã
quan tâm tới vấn đề đạo đức khoa học, ông cho rằng, dù bất cứ lĩnh vực hoạt
động nào trong xã hội cũng cần có những chuẩn mực đạo đức, người làm
khoa học càng phải đề cao những chuẩn mực đạo đức, đó là: tính cộng đồng,
tính phổ biến, tính không vi lợi, tính độc đáo, tính hoài nghi. Các chuẩn mực
này được viết tắt là CUDOS, đã trở thành tên gọi chung cho chuẩn mực đạo
đức khoa học của cộng đồng khoa học trên thế giới [25, tr.135].
Tác giả Lê Thạc Cán cùng các cộng sự ở Viện Nghiên cứu Đại học và

giáo dục chuyên nghiệp đã nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số


20
60A “Tổ chức và quản lý nghiên cứu triển khai trong các trường đại học phục
vụ sản xuất, đời sống và quốc phòng”. Trong công trình này, tác giả đã đánh giá
hiện trạng về tổ chức, quản lý, khai thác năng lực nghiên cứu - triển khai của
các trường đại học Việt Nam; hệ thống hoá những kinh nghiệm tổ chức khai
thác tiềm lực nghiên cứu của các trường đại học nước ngoài. Trên cơ sở đó, tác
giả đề xuất tăng cường mối quan hệ giữa các viện nghiên cứu, các trường đại
học, cơ sở sản xuất nhằm hợp tác giải quyết những chương trình nghiên cứu và
cùng nhau khai thác các kết quả nghiên cứu đạt được [17, tr.86].
Đề tài trọng điểm cấp Bộ với mã số B2001-52-TĐ-19 “Đánh giá hiệu
quả hoạt động NCKH trong các trường đại học giai đoạn 1996 - 2000”, do
tác giả Vũ Cao Đàm làm chủ nhiệm, đã làm rõ cơ sở lí luận của việc đánh
giá kết quả và hiệu quả nghiên cứu khoa học và nguyên tắc nghiên cứu các
yếu tố đầu vào, đầu ra của NCKH. Theo tác giả, đánh giá các yếu tố đầu vào
cần dựa vào tiêu chí về các nguồn lực và năng lực thực hiện các hoạt động
khoa học công nghệ. Đánh giá kết quả đầu ra cần dựa trên các yếu tố như:
thông tin kết quả nghiên cứu, số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học, số
lượng và chất lượng vật mẫu, cũng như giá trị mà công trình đạt được.
Những giá trị này bao gồm: Giá trị bên trong (thông tin chung, về nhận thức,
về hành động); giá trị bên ngoài được đánh giá sau khi áp dụng kết quả
nghiên cứu (giá trị kinh tế, giá trị môi trường, giá trị văn hoá, giá trị xã hội,
giá trị tri thức... ) [26, tr.67]
Tác giả Vương Thị Ngọc Huệ với bài viết “NCKH góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy ở các học viện trường đại học công an nhân dân” đã
đánh giá cao vai trò của NCKH trên các phương diện như: nâng cao chất
lượng giảng dạy; làm phong phú nội dung giảng dạy; góp phần đổi mới
phương pháp giảng dạy; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Tác giả đã

đề xuất một số biện pháp tăng cường NCKH của giảng viên, bao gồm: Nâng
cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên về NCKH; Các hoạt động nghiên cứu


21
khoa học phải bám sát nhiệm vụ giáo dục đào tạo và NCKH của các học viện,
trường đại học công an nhân dân; Xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ
chuyên môn giỏi, có kiến thức về NCKH và say mê nghiên cứu khoa học;
Tăng cường công tác lưu trữ, thông tin khoa học và áp dụng kết quả NCKH
vào trong giảng dạy [54, tr.49-50].
Đề tài “Phát triển năng lực NCKH cho sinh viên Học viện quản lý giáo
dục” của tác giả Ngô Viết Sơn đã khẳng định: NCKH là một hình thức tổ
chức dạy học bắt buộc ở bậc đại học, với hình thức nghiên cứu khoa học sinh
viên bước đầu nhận thức những vấn đề mà xã hội đặt ra, đòi hỏi phải được
giải quyết, thông qua đó sinh viên rèn luyện được khả năng tư duy sáng tạo,
từng bước hình thành những tố chất của người lao động tri thức [78, tr.22].
Theo tác giả, thời gian qua Học viện Quản lý giáo dục đã quan tâm bồi
dưỡng năng lực NCKH cho sinh viên, tuy nhiên kết quả thu lại chưa được
như mong đợi. Điều đó thể hiện ở chỗ: một bộ phận lớn sinh viên còn bỡ ngỡ
và thờ ơ với các đề tài nghiên cứu; các khoa chưa sát sao, quan tâm đến hoạt
động NCKH của sinh viên; các môn học trong nhà trường nhiều nhưng môn
học thuộc lĩnh vực nghiên cứu lại ít và thời lượng không đủ cho sinh viên rèn
luyện hoàn thiện kỹ năng... Từ đó tác giả đề xuất hệ thống biện pháp nâng
cao năng lực NCKH cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục hiện nay.
- Về vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Trong công trình nghiên cứu: “Quản lý công tác nghiên cứu khoa học”
(năm 1983), K.Bexle, E.deisen, Xlasinxki, do Nguyễn Lân dịch từ bản tiếng
Nga, Nguyễn Xuân Khoa hiệu đính, đã chỉ ra rằng: Trong trường đại học,
hoạt động NCKH của sinh viên cần nhận được sự quan tâm sâu sắc của các
cấp quản lý từ cấp vĩ mô đến cấp vi mô trên các nội dung chủ yếu như sau:

Mục đích NCKH của sinh viên là nâng cao chất lượng GD&ĐT chuyên
gia có trình độ cao, có khả năng vận dụng vào hoạt động thực tiễn các thành
tựu mới nhất của tiến bộ khoa học - kĩ thuật và văn hoá.


22
Các nhiệm vụ cơ bản của công tác NCKH của sinh viên là đào tạo cho
họ phương pháp, cách thức giải quyết độc lập các nhiệm vụ khoa học và kĩ
thuật, các kỹ năng làm việc trong tập thể khoa học.
Tổ chức công tác NCKH của sinh viên là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch để sinh viên tìm tòi, sáng tạo nhằm củng cố, mở rộng tri
thức đã lĩnh hội và tham gia giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn phù hợp
với nhiệm vụ học tập. Chịu trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động
NCKH cho sinh viên là đội ngũ cán bộ bộ môn, khoa; các giáo sư, giảng
viên đại học; cũng có thể mời các cộng tác viên - cán bộ các cơ quan NCKH
và các nghiên cứu sinh tham gia hướng dẫn NCKH của sinh viên. Hiệu
trưởng, chủ nhiệm khoa, chủ nhiệm bộ môn, Hội đồng nhà trường chịu trách
nhiệm thiết lập và tổ chức NCKH cho sinh viên.
Đảm bảo điều kiện vật lực cho công tác NCKH của sinh viên được thực
hiện theo phương thức: Các chi phí vật chất cần thiết về thiết bị, năng lượng,
hoá chất, vật liệu... được tính vào kinh phí ngân sách nhà nước hoặc do đối
tác đặt hàng theo hợp đồng bảo đảm.
Khen thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học: sinh viên đạt giải trong
các cuộc thi sáng tạo và thi sản phẩm khoa học có thể nhận được bằng khen,
bằng chứng nhận danh dự cùng với tiền mặt; sinh viên có năng lực rõ rệt về
NCKH và thành tích học tốt được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh, ngoài ra
công trình đoạt giải còn được thay thế cho một số môn thi...
Ở mảng vấn đề này có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học Việt Nam, trong đó trước hết phải kể đến các tác phẩm như: Đề tài
nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp cải tiến công tác quản lý hoạt động

nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường đại học” của tác giả Trần Thị
Ninh Giang [40]; Đề tài “Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh
viên Học viện quản lý giáo dục” của tác giả Ngô Viết Sơn [78]; Đề tài
“Nghiên cứu những biện pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động


23
khoa học và công nghệ, lao động trong nhà trường” của tác giả Vũ Tiến
Thành; Đề tài cấp Bộ “Điều tra đánh giá hiện trạng, tiềm lực khoa học và
công nghệ của các trường đại học và cao đẳng Việt Nam” của tác giả Thân
Đức Hiền...
Trong cuốn “Đại cương về khoa học quản lý và quản lý giáo dục”, tác
giả Trần Kiểm và Nguyễn Xuân Thức đã khẳng định “Quản lý là một khoa
học”. Với quan niệm như vây, các tác giả đã khái quát những vấn đề chung
về quản lý; quản lý giáo dục và chỉ rõ các chức năng quản lý bao gồm:
- Chức năng kế hoạch hoá;
- Chức năng tổ chức;
- Chức năng chỉ đạo thực hiện;
- Chức năng kiểm tra trong quản lý giáo dục.
Bên cạnh đó, các tác giả đã xác định hệ thống nguyên tắc quản lý giáo
dục như: nhóm những nguyên tắc chính trị xã hội; nhóm những nguyên tắc
về hoạt động quản lý giáo dục; nhóm những nguyên tắc về hoạt động quản lý
giáo dục [57, tr.58].
Trong cuốn sách “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ
XXI” xuất bản năm 2014, tác giả Trần Khánh Đức đã dành một chương (hơn
100 trang) để viết về hoạt động NCKH và quản lý hoạt động này. Tác giả đã
chỉ ra các đặc trưng của hoạt động NCKH và công nghệ, các phương pháp
NCKH giáo dục; đánh giá trong NCKH; kinh nghiệm quốc tế về hoạt động
nghiên cứu triển khai. Đồng thời tác giả cũng đã có những chỉ dẫn cần thiết
về xây dựng đề cương NCKH giáo dục. Trong công trình nghiên cứu này,

tác giả đã tổng kết kinh nghiệm đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động
(hoặc đề tài) NCKH theo quan điểm quản lý chất lượng tổng thể, bao gồm:
Chất lượng đầu vào (input); chất lượng quá trình (Prosection); chất lượng
đầu ra (Output); chất lượng hiệu quả (effect).


24
Việc đánh giá, nghiệm thu các công trình NCKH chủ yếu là đánh giá hiệu
quả nghiên cứu theo các mặt: Hiệu quả kinh tế; hiệu quả xã hội; hiệu quả khoa
học công nghệ; hiệu quả thông tin; hiệu quả đào tạo [37, tr.698]. Cùng với việc
xác định các nội dung đánh giá, tác giả đã xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá cụ
thể, được lượng hoá thành điểm số và mức độ đánh giá, giúp cho đội ngũ cán bộ
quản lý và các cơ quan quản lý khoa học dễ dàng sử dụng trong quản lý đánh giá
hiệu quả NCKH của nhà trường, cơ quan, đơn vị mình.
Nghiên cứu khoa học và quản lý NCKH là vấn đề được nhiều học viên
cao học và nghiên cứu sinh quan tâm nghiên cứu. Những công trình của các
đối tượng kể trên cũng khá đa dạng, điều đó có thể nhận thấy qua các luận
văn, luận án đã bảo vệ thành công như: Luận án “Mô hình quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học trong đại học đa ngành đa lĩnh vực” của tác giả Lê
Yên Dung [23]; Luận án “Quản lý nghiên cứu khoa học ở các trường đại
học sư phạm” của tác giả Hoàng Thị Nhị Hà [42]; Luận án “Biện pháp nâng
cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên đại học sư
phạm” của tác giả Lê Thanh Chung [20].
Tác giả Lê Yên Dung năm 2010 đã bảo vệ thành công luận án “Mô
hình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong đại học đa ngành đa lĩnh
vực” tại Đại học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội. Với quan điểm tiếp
cận hệ thống, tiếp cận phát triển và tiếp cận mục tiêu... luận án đã tập trung
nghiên cứu để tìm ra phương thức tổ chức, cơ chế vận hành, giải pháp tác
động, cho mô hình quản lý NCKH ở các trường đại học đa ngành, đa lĩnh
vực ở Việt Nam. Cơ sở lí luận của luận án được xây dựng theo cách tiếp cận

quản lý chất lượng tổng thể, đó là xây dựng mô hình cấu trúc chức năng
quản lý hoạt động NCKH ở đại học đa ngành đa lĩnh vực. Trên cơ sở nghiên
cứu đánh giá thực trạng mô hình và quy trình quản lý NCKH, qui trình quản
lý đề tài, quản lý nguồn nhân lực... tác giả đề xuất mô hình quản lý và 4
nhóm giải pháp theo các mặt: tổ chức, chính sách, tăng cường quản lý chất


25
lượng và phát triển nguồn nhân lực quản lý. Kết quả nghiên cứu của tác giả
cho thấy việc vận dụng mô hình quản lý hoạt động NCKH ở đại học đa
ngành, đa lĩnh vực theo quan điểm quản lý chất lượng tổng thể là phù hợp
[23, tr.68].
Đề tài“Thực trạng và giải pháp cải tiến công tác quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường đại học” của Viện Chiến lược
và Chương trình giáo dục, với mã số B2003-52-31 được hoàn thành năm
2006, do tác giả Trần Thị Ninh Giang làm chủ nhiệm. Các tác giả của đề tài
đã tập hợp kinh nghiệm quốc tế về quản lý hoạt động NCKH trong các nhà
trường đại học gồm: Kinh nghiệm của các nước thuộc Liên Xô (cũ); Mông
Cổ; Cộng hoà Dân chủ Đức; Cu Ba; Trung Quốc; Nhật Bản... Trên cơ sở
kinh nghiệm đó, các tác giả đã xây dựng hệ thống lí thuyết; đánh giá thực
trạng, đề xuất hệ thống biện pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh viên
các trường đại học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay [40, tr.31].
Ngoài các công trình khoa học nêu trên còn có một số tác giả và công
trình trong nước nghiên cứu và khẳng định vai trò của hoạt động NCKH và
quản lý hoạt động NCKH như: Đề tài “Một số biện pháp cải tiến công tác
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Cao đẳng Sư
phạm Nghệ An” (2006) của Trần Văn Phước; “Một số biện pháp quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm
Điện Biên”(2007) của Lê Thị Tuyết; “Một số biện pháp quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Cao đẳng Sơn La” (2009) của

Nguyễn Văn Nho. Các đề tài trên đã góp phát triển lý luận quản lý giáo dục
và giải quyết một cách thiết thực các vấn đề về quản lý hoạt động NCKH ở
các cơ sở đào tạo cụ thể.
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết, năm 2007 đã hoàn thành luận án “Cơ sở lí
luận và thực tiễn quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại
học Việt Nam theo định hướng bình đẳng giới” tại Đại học Quốc gia Hà Nội


26
[98]. Từ góc độ bình đẳng giới, luận án đã tập trung nghiên cứu vai trò và vị
thế của cán bộ nữ trong hoạt động NCKH ở một số trường đại học Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích các vấn đề về lí luận quản lý, về giới và về hoạt động
nghiên cứu khoa học, luận án đã xây dựng luận cứ khoa học để nghiên cứu
về quản lý hoạt động NCKH theo hướng bình đẳng giới, đánh giá thực trạng
về quản lý hoạt động NCKH ở các trường đại học theo hướng tiếp cận bình
đẳng giới. Luận án đã xác định được những nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng
và các điều kiện tăng cường tham gia NCKH của cán bộ nữ. Luận án dự báo
được các yếu tố cá nhân có ảnh hưởng đến hoạt động NCKH, tác giả đã chỉ
ra các yếu tố về giới, tuổi và đặc biệt là yếu tố về trình độ, học vị là những
yếu tố tác động, ảnh hưởng to lớn đến việc tham gia NCKH của cán bộ nữ.
Luận án đã đề xuất ba nhóm giải pháp quản lý nhằm tăng cường bình đẳng
giới trong quản lý hoạt động NCKH ở các trường đại học Việt Nam đó là:
Nhóm giải pháp tác động vào chính sách và cơ chế thực hiện; Nhóm giải
pháp tác động vào chiến lược của các trường đại học và Nhóm giải pháp tác
động vào việc tham gia và hỗ trợ tham gia NCKH. Trong đó nhóm giải pháp
tác động vào chiến lược của các trường đại học được coi là nhóm giải pháp
mang tính đột phá. Kết quả thu được của luận án có thể giúp cho các nhà
quản lý, hoạch định chính sách của ngành, các trường đại học có một hình
dung toàn cảnh về bức tranh NCKH của cán bộ nữ và hướng giải quyết nhằm
nâng cao vai trò vị thế của cán bộ nữ trong hoạt động này.

Trong những năm gần đây, Tạp chí Giáo dục đã công bố kết quả
nghiên cứu của khá nhiều tác giả về hoạt động nghiên cứu khoa học và
quản lý hoạt động NCKH với các góc độ tiếp cận khác nhau như: Bài viết
“Thực trạng và biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của
giảng viên trường cao đẳng nghề du lịch - thương mại Nghệ An” của tác
giả Đậu Chính Nghĩa [71], bài viết “Bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu khoa
học cho cán bộ trẻ trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của tác giả Cao


27
Tuấn Anh [1], bài viết “Tăng cường biện pháp quản lý đẩy mạnh hoạt
động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các trường đại học” của
tác giả Nguyễn Quang Giao [41]; bài viết “Hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của tác giả Nguyễn
Thị Tâm [81], bài viết “Phân tích dữ liệu bước quan trọng trong nghiên
cứu khao học” của tác giả Ngô Viết Sơn [79], bài viết “Một số giải pháp
nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn của GV các
trường đại học hiện nay” của tác giả Mai Văn Hoá [49], bài viết “Phát
triển kỹ năng NCKH của sinh viên trường Đại học Hồng Đức” của tác giả
Dương Thị Thoan [86]...
Trong bài viết “Tăng cường biện pháp quản lý đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các trường đại học” tác giả Nguyễn
Quang Giao đánh giá: Công tác NCKH của sinh viên thời gian qua ở các
trường đại học đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên so với yêu cầu
đặt ra vẫn còn nhiều bất cập như: Các công trình nghiên cứu còn hạn chế về số
và chất lượng, một số sinh viên thực hiện đề tài còn chiếu lệ, chưa nắm chắc
phương pháp luận NCKH, còn lúng túng khi vận dụng các phương pháp vào
thực tiễn nghiên cứu... Để khắc phục những hạn chế đó, tác giả đề xuất áp dụng
một số biện pháp như: Nâng cao nhận thức của sinh viên về vai trò quan trọng
của hoạt động nghiên cứu khoa học; Xây dựng kế hoạch NCKH toàn khoá cho

sinh viên; Cải tiến tổ chức triển khai hoạt động NCKH của sinh viên theo
hướng tăng cường tính chủ động cho sinh viên; Tăng cường công tác kiểm tra
đánh giá khen thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học [41, tr. 57-59].
Trong bài viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu
khoa học xã hội nhân văn của giảng viên các trường đại học hiện nay” tác
giả Mai Văn Hoá đã có nhận định đánh giá khái quát về chất lượng nghiên
cứu khoa học XH&NV của giảng viên các trường đại học, trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học XH&NV bao


28
gồm: Tạo bước chuyển cơ bản trong nhận thức của giảng viên về hoạt động
nghiên cứu khoa học XH&NV; Đa dạng hoá các hình thức bồi dưỡng năng
lực NCKH xã hội nhân văn cho đội ngũ giảng viên; Tiếp tục đổi mới cơ chế
quản lý, tổ chức và điều hành hoạt động NCKH của giảng viên; Đưa yếu tố
khoa học thâm nhập sâu vào hoạt động giảng dạy; Tăng cường các chính sách
đãi ngộ tạo động lực cho giảng viên NCKH [49, tr. 11-12].
Bài viết “Bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu khoa học cho cán bộ trẻ
trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của tác giả Cao Tuấn Anh, hướng tới đối
tượng cán bộ dưới 35 tuổi, được tuyển chọn kĩ về phẩm chất, năng lực, đặc
biệt là năng lực NCKH. Tác giả cho rằng, nguyên nhân ảnh hưởng đến mức
độ thành thạo các kỹ năng cơ bản trong NCKH của đội ngũ cán bộ trẻ do: ý
thức tu dưỡng của cán bộ trẻ, các hoạt động bồi dưỡng nâng cao kỹ năng
NCKH còn ít; cơ hội tham gia các đề tài khoa học chưa nhiều; khen thưởng,
kỉ luật trong hoạt động NCKH còn chưa hợp lí; sự quan tâm của các cấp
quản lý chưa đúng mức... Để nâng cao chất lượng bồi dưỡng kỹ năng NCKH
cho đội ngũ cán bộ trẻ, theo tác giả: các cấp quản lý cần phải chỉ đạo sát sao
hoạt động NCKH; thường xuyên tổ chức các hoạt động bồi dưỡng; tạo điều
kiện cho đội ngũ cán bộ trẻ tham gia vào các đề tài; tăng cường giao lưu trao
đổi, toạ đàm [1, tr. 57-59].

* Hướng nghiên cứu về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn ở đại học quân sự
Trong lĩnh vực quân sự đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến tổ
chức hoạt động NCKH của học viên như là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của đổi mới phương pháp dạy học ở các học viện, NTQĐ. Bởi vì, tổ
chức hoạt động NCKH cho học viên là điều kiện cần thiết để nâng cao kỹ
năng nghề nghiệp trong quá trình đào tạo, đồng thời là một trong những hình
thức tổ chức dạy học có hiệu quả về phát triển tư duy sáng tạo, tính độc lập
suy nghĩ và chủ động học tập, nghiên cứu của người học. Nhận thức được


29
vai trò to lớn của NCKH trong đào tạo ở ĐHQS, nhiều nhà khoa học đã dành
sự quan tâm đến vấn đề tổ chức, quản lý hoạt động này của học viên, tiêu
biểu là các tác giả: Lê Minh Vụ với công trình “Tổ chức quá trình dạy học
các môn KH XH&NV các trường ĐHQS” [100], Trương Thành Trung với
công trình “Nâng cao hiệu quả ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn quân sự hiện nay” [92], Phạm Văn Nhuận với công trình
“Nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn trong Quân đội
nhân dân Việt Nam” [72], Vũ Quang Lộc với công trình “Mối quan hệ giữa
nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học XH&NV ở ĐHQS”
[61], Vũ Quang Đạo với công trình “Các giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện
Chính trị quân sự hiện nay” [33], Nguyễn Thanh Bình với công trình “Nâng
cao chất lượng nghiên cứu khoa học của học viên ở Học viện Chính trị hiện
nay” [9], Nguyễn Phương Đông với công trình “Xây dựng đội ngũ cán bộ
khoa học ở Học viện Chính trị hiện nay” [36]...
Tác giả Lê Minh Vụ với công trình“Tổ chức quá trình dạy học các môn
KH XH&NV ở đại học quân sự” đã đề cập những vấn đề cơ bản về lý luận,
thực tiễn tổ chức quá trình dạy - học các môn khoa học xã hội nhân văn ở

ĐHQS như: Đổi mới phương pháp dạy - học các môn khoa học XH&NV;
kết hợp phương pháp truyền thống và hiện đại; tổ chức bài giảng theo chủ đề
và chuyên đề ...
Đề tài cấp ngành: “Nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội nhân
văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam” do ông Phạm Văn Nhuận làm chủ
nhiệm đã đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn nâng cao
hiệu quả quản lý hoạt động khoa học xã hội nhân văn trong quân đội hiện
nay. Các tác giả đã tập trung làm rõ tiêu chí đánh giá hiệu quả nghiên cứu
khoa học xã hội nhân văn, đồng thời tập trung phân tích những yếu tố đảm
bảo chất lượng, hiệu quả của các công trình nghiên cứu về lĩnh vực khoa học


×