Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tranh Thờ Trong Đời Sống Tín Ngưỡng Của Người Dao Ở Huyện Lục Yên Tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 105 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI DAO VÀ TRANH THỜ CỦA
NGƯỜI DAO ................................................................................................. 10
1.1. Về người Dao và quá trình di cư tới Việt Nam........................................ 10
1.2. Người Dao ở Yên Bái và huyện Lục Yên ................................................ 13
1.3. Vài nét về tranh thờ của người Dao ......................................................... 20
CHƯƠNG 2 VIỆC SỬ DỤNG TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở
HUYỆN LỤC YÊN ....................................................................................... 26
2.1. Cách sử dụng tranh thờ trong các nghi lễ ................................................ 27
2.2. Tranh thờ trong ngày thường ................................................................... 47
CHƯƠNG 3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI TRANH THỜ CỦA
NGƯỜI DAO Ở HUYỆN LỤC YÊN HIỆN NAY ..................................... 49
3.1. Vấn đề bảo tồn và gìn giữ tranh thờ ......................................................... 49
3.2. Về phát huy các giá trị của tranh thờ ....................................................... 53
3.3. Một số kiến nghị, giải pháp bảo tồn tranh thờ ......................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 69
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Dao là một trong 54 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Theo Tổng
điều tra Dân số và Nhà ở toàn quốc năm 2009, người Dao ở Việt Nam có
751.067 người, trong đó 377.185 nam, 373.882 nữ, đông thứ hai trong các
dân tộc nói ngôn ngữ Hmông - Dao và thứ 9 trong 54 dân tộc ở Việt Nam. Tại
tỉnh Yên Bái, dân tộc Dao có 74.847 người, dân số đông thứ ba trong 33 dân
tộc trong tỉnh (sau hai dân tộc Kinh và Tày). Tại huyện Lục Yên, tỉnh Yên
Bái, dân tộc Dao có 16.216 người, dân số đông thứ ba trong 18 dân tộc trong
huyện (sau hai dân tộc Kinh và Tày).


Xét về nguồn gốc lịch sử, người Dao là tộc người di cư từ Nam Trung
Quốc vào Việt Nam từ lâu đời. Tại Việt Nam, trải qua nhiều đời sinh sống,
người Dao đã cùng hòa hợp với các dân tộc anh em, tiếp tục duy trì đời sống
kinh tế, xã hội và bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của mình. Do những lý
do và đặc điểm riêng dân tộc Dao được biết đến như là dân tộc cho đến nay
còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng cho văn hóa nhóm
Hmông- Dao, có nguồn gốc từ Nam Trung Quốc.
Bên cạnh các giá trị văn hóa vật thể như trang phục, trang sức, nhà cửa, bố
trí làng bản, đồ gia dụng, ẩm thực, các giá trị văn hóa phi vật thể như tín ngưỡng
vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Bàn Vương, nghi lễ cấp sắc..., nghệ thuật dân
gian cũng là một thực hành văn hóa có giá trị tiêu biểu của người Dao. Trong
nghệ thuật dân gian, tranh thờ chứa đựng các giá trị văn hóa dân gian đặc sắc của
người Dao, cần được quan tâm nghiên cứu để kế thừa và phát huy.
Nghiên cứu tranh thờ trong đời sống tín ngưỡng của người Dao có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc trong bối cảnh hiện nay. Về ý nghĩa khoa
học, nghiên cứu tranh thờ trong tín ngưỡng của người Dao sẽ góp phần làm
sáng tỏ và tăng nhận thức của chúng ta về các vấn đề như nguồn gốc ra đời,
1


lịch sử phát triển, cách thức sử dụng, ứng xử đối với tranh thờ cũng như vai
trò và ý nghĩa của nó trong đời sống người dân. Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên
cứu tranh thờ sẽ cho thấy một bức tranh văn hóa truyền thống đa dạng, phong
phú của người Dao, từ đó, góp phần vào việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khóa 8 của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đạm đà
bản sắc dân tộc và Nghị quyết và Nghị quyết Trung ương 9, khóa 11 năm
2014 của Đảng về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam trong sự nghiệp
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong khi các thực hành văn hóa truyền thống khác của người Dao như
lễ cấp sắc, nhà cửa, trang phục, dòng họ, hôn nhân, gia đình, tang ma, nghi lễ

vòng đời và tín ngưỡng đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu,
văn hóa nghệ thuật dân gian, bao gồm không chỉ tranh thờ mà còn dân ca, dân
nhạc, dân vũ của người Dao còn chưa hoặc ít được tìm hiểu.
Là một người con của dân tộc Dao, đang theo học tại khoa văn hóa học
và đặc biệt quan tâm tới mảng nghệ thuật dân gian, học viên mạnh dạn đề
xuất nghiên cứu: “Tranh thờ trong đời sống tín ngưỡng của người Dao ở
huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nói đến lịch sử nghiên cứu về văn hóa ở Việt Nam thì đây là một vấn
đề khá rộng và đã được quan tâm từ rất sớm. Khi thực dân Pháp xâm lược
Việt Nam, người Pháp đã có nhiều ghi chép về văn hóa Việt Nam nói chung
và của các dân tộc thiểu số nói riêng. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XX thì văn
hóa Việt và đặc biệt là văn hóa các dân tộc thiểu số mới thực sự lôi cuốn các
nhà khoa học vào cuộc và văn hóa dân tộc Dao cũng không nằm ngoài sự
quan tâm đó. Nghiên cứu về dân tộc Dao đã có rất nhiều tác giả thực hiện và
công bố trên các tạp chí khác nhau như Dân Tộc học, Nghiên cứu lịch sử và
một vài tạp chí chuyên ngành khác.
2


Về tên gọi, lịch sử thành phần tộc người, quá trình di cư, các thực hành tín
ngưỡng tôn giáo và các luận bàn về đặc điểm tộc người ở quá khứ và tương lai có
thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu như: Người Dao ở Việt Nam do các tác
giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nam Tiến biên soạn
(1971); Người Dao đỏ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam do Đỗ Quang Tụ và
Nguyễn Liễn làm chủ biên (1971); và cuốn Sự phát triển Văn hoá – Xã hội
của người Dao Hiện tại và tương lai do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn Quốc gia biên soạn (1998)...vv.
Một số công trình nghiên cứu khác lại đi sâu phân tích các đặc điểm
cảnh quan, môi trường sinh thái và những sinh hoạt văn hóa vật chất, tinh

thần của người Dao như: về tín ngưỡng, nhà ở, các phong tục, tập quán, lễ hội
và trò chơi dân gian, đó là: Hồ sơ khoa học Văn hoá dân tộc Dao đỏ, bản
Động Ỉnh xã Tân Lĩnh , huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Đây là một nhánh của
đề tài Thực trạng và giải pháp bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội và du lịch
do tác giả Đổng Thị Hồng Hạnh (2008) thực hiện; Đề tài luận văn thạc sỹ Văn
hoá học Phong tục cưới xin của người Dao đỏ ở huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái
do học viên Triệu Thị Bình, niên khoá 2000- 2003 thực hiện; Đề tài luận văn
thạc sỹ Văn hoá học Lễ hội cầu mùa của người Dao đỏ xã Phúc Lợi, huyện
Lục Yên, tỉnh Yên Bái, do học viên Đào Đức Toàn, niên khoá 2000 – 2003
thực hiện ...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về người Dao chủ yếu đề cập
đến các vấn đề mang tính khái quát về đặc điểm tộc người hoặc thực hành văn
hoá tín ngưỡng và nguồn gốc di cư của tộc người Dao. Trong các công trình
này đề cập tương đối đầy đủ các khía cạnh của đời sống văn hoá tinh thần hay
các không gian văn hoá phi vật thể của người Dao. Tuy nhiên, do người Dao
là một dân tộc có dân số khá đông và phân bố rải rác ở nhiều vùng với nhiều
dòng họ khác nhau; có những phong tục giống nhau cùng tồn tại song song
3


bên cạnh những khác biệt, do vậy, các thông tin về người Dao được đề cập
trong những công trình nghiên cứu này có thể không đúng với tất cả tộc người
Dao ở Việt Nam; người Dao ở địa phương này có thể có những đặc điểm khác
biệt với người Dao ở các địa phương khác.
Ngoài những công trình nghiên cứu như đã nêu ở trên, riêng về mảng
tranh thờ, đã được một số tác giả đi sâu nghiên cứu. Có thể kể đến một số
cuốn sách tiêu biểu như:
Cuốn Tranh thờ đạo giáo ở Bắc Việt Nam của tác giả Phan Ngọc Khuê
(2001) do Nhà xuất bản Mỹ Thuật công bố. Tác giả là một họa sĩ. Ông là một
cán bộ làm công tác nghiên cứu mỹ thuật lâu năm. Đặc biệt là mỹ thuật cổ

truyền của các dân tộc ít người. Tác giả Phan Ngọc Khuê từng có nhiều năm
sinh sống và nghiên cứu về mỹ thuật của các dân tộc vùng núi phía Bắc.
Tranh Đạo Giáo là một vấn đề khá rộng và hấp dẫn đối với ông. Trong cuốn
sách này tác giả đã trình bày tóm lược những nét cơ bản về nghệ thuật của
tranh Đạo giáo nói chung ở phía Bắc Việt Nam. Trên cơ sở của các tư liệu đã
sưu tầm, tác giả trình bày vấn đề rất đơn giản nhưng mạch lạc, giúp cho người
đọc dễ dàng nắm bắt nội dung. Tác giả đưa vào trong cuốn sách từng bức
tranh của các dân tộc khác nhau, trình bày chi tiết tiểu sử của nhân vật trong
bức tranh đó nhằm giúp người xem hiểu rõ hơn về ý nghĩa của việc thờ các
nhân vật trong tranh.
Ngoài tác phẩm tiêu biểu nêu trên, tác giả Phan Ngọc Khuê còn có một
bài viết trình bày chi tiết về tranh thờ của người Dao, đăng trong cuốn kỷ yếu
Hội thảo quốc tế: Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai, do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm
1998. Bài viết của tác giả có tiêu đề Tranh thờ của người Dao ở Bắc Bộ Việt
Nam. Trong bài viết này, tác giả Phan Ngọc Khuê đã trình bày rất cụ thể, chi
tiết về tranh thờ; ông đặt tranh thờ của người Dao trong sự so sánh với các
4


dân tộc khác như Tày và Cao Lan, phân biệt rõ đặc điểm tiêu biểu của tranh
thờ của dân tộc Dao. Ở phần khảo tả về phân loại tranh thờ, tác giả đã trình
bày chi tiết về bức tranh, gắn với truyền thuyết lịch sử của tộc người và nhóm
gộp các tranh thờ dành cho cúng gia tiên trong gia đình, gia tộc để phân biệt
với tranh dùng trong nghi lễ cấp sắc/phong sắc của người Dao. Trong phần
viết so sánh, ông chỉ ra những loại tranh nào xuất hiện ở cả dân tộc Dao và
các dân tộc khác (Tày, Nùng, Cao Lan, Kinh). Tác giả cũng trình bày chi tiết
nội dung bức tranh về các thần linh trong cõi Thượng Nguyên (Tam Thanh
cung, Ngọc Hoàng thượng đế, Trương Thiên Sư và Lý Thiên Sư, Tứ Đại
Nguyên Súy, Bắc Đẩu Tinh Quân), tranh về các vị thần ở cõi Trung Nguyên

(tranh Đương kim Hoàng đế trong tranh này lại phân loại ra Kiếm Khảnh và
Sần Tào mỗi tranh có 4 bức), tranh về các thần linh ở cõi Hạ Nguyên (Địa
Tạng Vương, Thập Điện Linh Vương), tranh vẽ chung các vị thần linh ở các
cõi Thượng – Trung - Hạ Nguyên (gồm có bộ tranh có 2 bức vẽ Thiên Phủ
(Thiên Khố) - Địa Phủ (Địa Khố) và Nhạc Phủ (Dương Phủ) - Thoải Phủ
(Thủy Khố). Theo tác giả Phan Ngọc Khuê, bộ tranh vẽ chung các vị thần linh
ở ba cõi Thượng – Trung - Hạ nguyên (tức Thiên Phủ - Địa Phủ và Dương
Phủ - Thủy Phủ) rất hiếm, khó có thể sưu tầm được, ngay cả với dân tộc Dao,
đây là bức tranh thâu tóm toàn bộ quan niệm của Đạo giáo về ba cõi Thượng Trung - Hạ Nguyên; từ bộ tranh này người ta có thể hình dung thứ tự, lớp
lang của các thần được vẽ trên bộ tranh. Trong bài viết này tác giả cũng đề
cập đến vấn đề về xuất xứ, niên đại và tác giả, tác phẩm và những giá trị nghệ
thuật của tranh.
Tiếp theo, bên cạnh các nghiên cứu của tác giả Phan Ngọc Khuê,
Frederick Harris - Chủ tịch quỹ Đông Sơn ngày nay đã xuất bản cuốn Tranh
thờ các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam (người dịch: Phạm Hoài Nam,
nhà xuất bản Lao động-Xã hội, năm 2006). Đây có thể coi là “một bộ sưu tập
5


đồ sộ” với hơn 2000 bức tranh và các loại mặt nạ của người Dao, Tày, Nùng,
Cao Lan và Sán Dìu, trong đó đặc biệt chú ý đến văn hóa tín ngưỡng của
người Dao. Theo như tác giả Frederick Farris nhận xét thì: “Sự sùng bái thần
linh và sức sống mãnh liệt của linh hồn tạo ra nhu cầu cho những suy nghĩ,
bùa chú và các bức tranh thiêng liêng. Theo thần thoại Hy Lạp, không phải
con người sinh ra để đại diện cho các Thánh thần mà chính con người mới là
nguyên mẫu cho họ. Sự tồn tại song song của vật chất và ý thức, linh hồn và
thể xác, suy nghĩ và thực tại chính là nhân tố để người dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc vẽ lên những bức tranh mang tính nghi lễ của Đạo giáo” [04,
tr.11]. Khoảng 300 bức tranh tiêu biểu nhất của cuốn sách đã được lựa chọn
và đưa ra triển lãm.

Cũng đề cập về chủ đề tranh thờ, tác giả Chu Xuân Giao (2016) gần
đây có bài viết Hệ thống thờ Tứ Phủ trong tín ngưỡng của người Dao đăng
trên Tạp chí Văn hóa dân gian. Bài viết mặc dù không đi quá sâu phân tích
tranh thờ, tác giả cũng đã chỉ ra một đặc điểm của Tứ Phủ của người Dao thể
hiện trong kinh sách, trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng của họ và so sánh
với việc thờ Tứ Phủ ở nhóm người Kinh.
Tóm lại, nghiên cứu về văn hóa người Dao nói chung và tranh thờ nói
riêng, mặc dù đã có nhiều tác giả đã tìm hiểu, nghiên cứu song chưa có công
trình chuyên sâu nào giới thiệu về thực trạng tranh thờ trong bối cảnh thực
hành đời sống của người Dao; cách thờ tranh hiện nay được quan tâm và sử
dụng như thế nào? các ứng xử và thực hành liên quan đến nó hiện nay ra sao
và có những vấn đề nào đang đặt ra đối với tranh thờ.... dường như vẫn còn là
một khoảng trống, chưa được giới nghiên cứu đề cập một cách tương xứng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

6


Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm giới thiệu một bức tranh
tổng quan về việc sử dụng tranh thờ trong đời sống của người Dao hiện nay ở
huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái và Việt Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và trả lời cho các câu hỏi: tranh thờ hiện đang “sống” như
thế nào trong cộng đồng người Dao ở huyện Lục Yên? sự tham gia của tranh
thờ trong một số thực hành văn hóa cụ thể và thường ngày ở đây ra sao?.
- Trên cơ sở thực trạng, chúng tôi sẽ đưa ra một số luận bàn xung
quanh việc sử dụng tranh thờ của người Dao ở huyện Lục Yên trong bối cảnh

hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tranh thờ và việc sử dụng tranh trong
đời sống tín ngưỡng của người Dao. Tranh thờ là một trong những loại hình
nghệ thuật dân gian độc đáo, được sử dụng trong các nghi lễ cấp sắc, đám tang
và nhảy lửa của gia đình và cộng đồng.
Đề tài được thực hiện chủ yếu trong phạm vi cộng đồng người Dao ở
huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái. Tại đây, chúng tôi tập trung nghiên cứu ở các
xã có đông người Dao cư trú, còn lưu giữ được nhiều thực hành văn hóa
truyền thống liên quan đến tranh thờ như: Tân Phượng, Phúc Lợi, Khai
Trung, Tân Lĩnh và An Lạc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn này sẽ được chúng tôi tiếp cận từ quan điểm của Văn hóa học
và Nhân học Văn hóa trong đó nhấn mạnh tiếng nói của người trong cuộc những người Dao ở huyện Lục Yên - chủ nhân của tranh thờ.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài này là nghiên
cứu định tính. Cụ thể, chúng tôi coi việc đi điền dã, thâm nhập vào thực tế cộng
đồng để lấy tư liệu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chúng tôi đã tiến hành nhiều
7


đợt nghiên cứu điền dã tại huyện Lục Yên. Chúng tôi quan sát, phỏng vấn và ghi
chép lại những lời kể của thầy tào và người dân ở huyện Lục Yên và Văn Yên (chỉ
phỏng vấn 1 họa công ở Văn Yên bởi vì họa công này được người dân ở Lục Yên
rất tin tưởng và đặt vẽ tranh). Quá trình thâm nhập thực địa, tiếp xúc và trò chuyện
với người dân địa phương đã giúp chúng tôi có được nguồn tư liệu phong phú, tạo
cơ sở quan trọng để hoàn thiện luận văn.
Bên cạnh đó, để có cái nhìn bao quát đối với chủ đề nghiên cứu, chúng
tôi còn tiến hành tổng thuật các tài liệu có liên quan đã công bố, bao gồm:
sách/báo/tạp chí và các đề tài luận văn, luận án. Các hiện vật ở bảo tàng trung
ương và địa phương cũng được chúng tôi quan tâm tìm hiểu.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1.

Ý nghĩa lý luận

Đề tài luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về Tranh thờ trong
đời sống của người Dao ở huyện Lục Yên. Thông qua nội dung nghiên cứu,
luận văn cho chúng ta biết được thực trạng và cách thức sử dụng tranh thờ
hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là nguồn tư liệu giúp
người đọc có được một hiểu biết đầy đủ và sâu sắc hơn về tranh thờ của người
Dao tại huyện Lục Yên và Việt Nam nói chung.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo dành cho các nhà quản lý
văn hóa và những ai quan tâm tới chủ đề tranh thờ của người Dao; góp phần
vào công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ và phát huy những giá trị của tranh thờ
gắn với một tộc người cụ thể.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài luận
văn được bố cục thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về người Dao và tranh thờ của người Dao
8


Chương 2: Việc sử dụng tranh thờ của người Dao ở huyện Lục Yên
Chương 3: Những vấn đề đặt ra đối với tranh thờ của người Dao ở
huyện Lục Yên hiện nay


9


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI DAO VÀ TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO
1.1. Vài nét về người Dao và quá trình di cư tới Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có số lượng người Dao đông thứ 2 trên thế giới,
chỉ sau Trung Quốc. Hiện nay ở Trung Quốc người Dao có khoảng 2,5 triệu
người; họ sinh sống tại 31 tỉnh, đông nhất là Quảng Tây và sau đó là một số
tỉnh như: Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu và Hồ Nam. Ở Việt Nam, dân số
của người Dao là 751.067 người; họ cư trú xen kẽ với các tộc người H’mông,
Tày, Nùng,Thái, Mường và Việt. Phạm vi cư trú của người Dao ở Việt Nam
phủ khắp các tỉnh biên giới (Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn và Lai Châu) và trung du ven biển Bắc Bộ, dọc
theo biên giới Việt Lào đến miền núi Nghệ An và Hà Tĩnh. Tại Châu Á,
người Dao tập trung chủ yếu ở miền Nam Trung Quốc và khu vực Đông Nam
Á (Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện). Ngoài ra, người Dao cũng đã nhập
cư vào một số nước như: Mĩ, Pháp, Canada, và một số nước Âu Mĩ khác
(Hoàng Quý Quyền 2003: 1; Hà Hồng Nhất/He Hong-yi 2007: 4-7).
Người Dao có tên dùng trong giới nghiên cứu dân tộc học quốc tế là
Yao hay Iu Mien. Họ tự gọi dân tộc mình là Dìu Miền; viết và đọc theo tiếng
Hán là Dao Nhân, tức là người Dao. Hoặc, tự xưng là Kiềm Miền hay Kiềm
Mùn, viết và đọc phiên âm theo chữ Hán là sơn nhân, có nghĩa người ở rừng/núi.
Ở nước ta, người Dao được chia thành nhiều nhóm với những nét riêng về phong
tục tập quán và thể hiện rõ nhất qua trang phục. Đó là: Dao Đỏ (Đại Bản), Dao
Tiền (Tiểu Bản), Dao Quần chẹt, Dao Lô Gang và Dao Áo Dài.
Trong quá trình di cư và sinh sống, do cư trú riêng theo bản làng độc
lập hoặc sống xen kẽ với một hoặc nhiều tộc người khác, người Dao hiện nay
có nhiều nhóm ở địa phương và giữa họ không hiểu tiếng nói của nhau, phải
dùng đến ngôn ngữ tiếng Kinh để giao tiếp.

10


Câu chuyện lịch sử viết bằng thơ Đặng Hành và Đại Bàn Hồ, về quá
trình di cư của người Dao tới Việt Nam kể rằng: tổ tiên của họ sinh sống lâu
đời ở đất Quảng Đông (phía Nam Trung Quốc), khoảng cuối thế kỷ II trước
Công Nguyên. Theo tác giả Phan Ngọc Khuê, Tranh thờ đạo giáo ở Bắc Việt
Nam (2001) viết: “Có trường hợp chỉ rõ là khu vực Động Đình Hồ (tỉnh Hồ
Nam). Cứ liệu khảo cổ học cho hay nơi đây và khu vực láng giềng, thời đồ
đồng, đồ đá, đã phát hiện một nền nông nghiệp dùng cuốc với rìu có vai, khác
với nền văn hóa Ngưỡng Thiều (R.F.Ito. 1960). Chủ nhân là những bộ lạc gọi
chung là Tam Miêu hay Miêu Dân. Về sau họ ly tán xuống Quảng Tây, Quảng
Đông. Đến thời Tần – Hán (thế kỷ II – II trước Công Nguyên) trong thư tịch
không còn thấy xuất hiện tên gọi Tam Miêu nữa, mà xuất hiện nhiều tộc danh
mới như Man, Di, Việt...kế đó là Man Dao, Man Mieu”.
Còn theo ông Trương Hữu Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Dân
Tộc Học, Học Viện Dân Tộc Quảng Tây, Phó chủ tịch Hội người Dao Trung
Quốc, trong một tranh luận tại Hội nghị quốc tế về người Dao, họp tại Thái
Nguyên, tháng 12 – 1995 cho rằng: Thời kỳ Đường Tống, người Dao sống
chủ yếu ở tỉnh Hồ Nam có một bộ phận sống ở miền Bắc Lưỡng Quảng. Thời
Nguyên (1280 – 1369) trung tâm cư trú của người Dao bắt đầu di chuyển về
phía nam, thời Minh (1836 – 1662) Quảng Tây mới trở thành nơi cư trú chủ
yếu của người Dao.
Từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XX, người Dao di cư vào Việt Nam theo ba
con đường. Đó là:
- Con đường đất liền: từ vùng Phòng Thành, Thượng Tứ tỉnh Quảng
Tây vào Quảng Yên, Quảng Ninh của Việt Nam.
- Từ Quảng Tây (Ninh Minh) đi vào vùng Lạng Sơn và Quảng Ninh của
Việt Nam.


11


- Một con đường nữa theo phía Tây của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc)
qua biên giới Việt Trung vào các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng của Việt
Nam và các nước Mianma, Thái Lan, Lào.
Người Dao ở nước ta là một trong những tộc người có nhiều nhóm địa
phương. Nếu dựa theo tên tự gọi của cộng đồng người Dao, tên phiếm xưng
và những tên mà dân tộc khác đặt cho thì có thể có tới 30 nhóm Dao khác
nhau. Song, theo sự phân loại của nhiều nhà dân tộc học, căn cứ vào một số
đặc điểm văn hóa, người Dao ở nước ta có 7 nhóm. Đó là: Dao Đỏ, Dao Tiền,
Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Phán (Dao Lô Gang), Dao Quần Trắng (Dao Họ),
Dao Thanh Y (Dao Chàm), Dao Áo Dài (Dao Làn Tuyển). Nếu dựa theo
phương ngữ thì có 2 ngành là: Ngành nói phương ngữ thứ nhất, gồm các
nhóm Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Chẹt và Dao Thanh Phán; ngành nói
phương ngữ thứ hai là Dao Quần Trắng, Dao Áo Dài và Dao Thanh Y. Riêng
Dao Tiền, có đặc điểm là người phụ nữ mặc váy in hoa văn xanh lơ, mặc áo
dài nhuộm chàm, đặc biệt cổ áo, phía sau gáy có treo 7 hoặc 9 đồng tiền xu
kim loại và dây thắt lưng; cũng bởi nét đặc trưng này họ có tên gọi là Dao
Tiền. Ở nước ta, Dao Tiền phân bố ở hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Phía
Tây Bắc, người Dao cư trú ở các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ và Sơn La. Phía
Đông Bắc người Dao cư trú ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang và
Hà Giang. Tỉnh Bắc Kạn có 4 huyện có Dao Tiền sinh sống và đông nhất là 2
huyện Ba Bể và Ngân Sơn.
Trước đây, người dao ở nước ta sinh sống chủ yếu bằng phương thức
canh tác nương rẫy và thường du cư từ nơi này tới nơi khác. Ngày nay, người
Dao đã kết hợp làm ruộng, trồng rừng, trồng cây ăn quả và chăn nuôi; chỉ có một
số ít còn làm nương rẫy. Đa số làng của người Dao nay đã định cư, có kinh tế
khá ổn định, đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được cải thiện.


12


Người Dao có nền văn hóa lâu đời và phong phú. Đó là các hình thức
sinh hoạt ca hát, các loại truyện cổ, những điệu múa dân gian trong dịp tết
Nguyên đán và lễ cấp sắc, các loại hoa văn trang trí thêu thùa, kho tàng tri
thức dân gian về thời tiết, chữa bệnh,... Tuy sống phân tán, nhưng người Dao
rất trân trọng giá trị văn hóa cổ truyền, luôn quan tâm truyền dạy và tạo điều
kiện kế thừa, phát huy những đặc trưng văn hóa của mình. Một trong những
điều kiện quan trọng đồng bào trao truyền và bảo lưu những giá trị văn hóa từ
thế hệ này sang thế hệ khác là việc duy trì các nghi lễ vòng đời, các nghi lễ
sinh đẻ, cấp sắc, cưới xin, và tang ma là những nghi lễ chủ yếu, bởi vì ai cũng
phải trải qua một lần. Nhờ vậy, trong điều kiện hiện nay là đoàn kết, bình
đẳng và giao lưu với các dân tộc anh em, nền văn hóa của người Dao vốn đa
dạng và phong phú lại càng trở nên đa dạng, phong phú hơn.
Trải qua hàng ngàn năm ly tán trong không gian rộng lớn người Dao đã
xây dựng nên một tục lệ chung của dân tộc Dao là thờ Bàn Vương - thủy tổ
của dân tộc, mang tinh thần tôn giáo nghiêm ngặt nhằm củng cố và mở rộng
huyết thống của cộng đồng người Dao.
1.2. Người Dao ở Yên Bái và huyện Lục Yên
1.2.1. Người Dao ở Yên Bái
Yên Bái là một tỉnh miền núi có dân số 1.000.234 người (tính đến năm
2015), bao gồm 30 dân tộc cùng sinh sống trong đó người Dao là dân tộc có
số dân đông thứ 3, chiếm 10,31%.
Theo các tư liệu lịch sử, Yên Bái là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ;
nơi đây các nhà khoa học đã tìm thấy được xương cốt động vật hóa thạch, có
niên đại cách đây hơn 10 vạn năm ở Hang Hùm (Lục Yên) và hang Thẩm
Thoong (Văn Chấn) cùng với nhiều công cụ bằng đá, đồng thau khác nằm rải
rác trên toàn bộ địa bàn tỉnh.


13


Thạp Đào Thịnh (Trấn Yên), cao 81cm, đường kính 70cm và nặng
60kg cùng với trống đồng Ngọc Lũ là những di vật được tìm thấy nguyên vẹn
và lớn nhất ở Việt Nam từ trước đến nay. Chúng được chế tác ở thời đại đồng
thau tại Việt Nam, tức khoảng vài trăm năm trước công nguyên. Trên di vật
này, có nhiều chạm khắc hoa văn trang trí đẹp mắt. Đặc biệt, trên nắp thạp
đồng Đào thịnh trang trí 4 đôi nam nữ đang ở tư thế giao cấu, biểu hiện cho
mong muốn sinh sôi nảy nở của con người; Đây có thể coi là một tác phẩm
nghệ thuật vô giá của thời cổ.
Người Dao ở Yên Bái thường cư trú chủ yếu trên các rẻo giữa, tức khu
vực tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Họ sinh sống tập trung nhất là ở
các huyện Văn Yên, Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên. Tại đây,
người Dao có 4 nhóm chính đó là: Dao Đỏ (Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt
(Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng, Dao Làn Tuyển (Dao
Tuyển). Họ có thể dễ dàng phân biệt qua trang phục. Người Dao Đỏ lấy màu
đỏ làm màu chủ đạo của trang phục và trang trí với nhiều tua và núm bông đỏ.
Trong đám cưới, phụ nữ Dao Đỏ đội mũ to, có khung gỗ hay nan tre nứa bẻ
thành góc nhọn nhô ra phía trước mặt. Bên ngoài phủ vải đỏ và khăn thêu.
Dao Quần Chẹt mặc quần ống bó sát vào chân. trước đây phụ nữ của nhóm
Dao này có tục chải tóc bằng sáp ong nên gọi là Dao Sơn Đầu. Đặc điểm
trang phục của Dao quần trắng là ở chiếc yếm, sử dụng để che kín cả phần
ngực và bụng. Người Dao Quần Trắng mặc quần màu trắng trong lễ cưới.
Cuối cùng, Dao Làn Tuyển mặc áo dài, đội mũ nhỏ như cái đấu gỗ.
Giữa các nhóm Dao ở đây cũng có sự khác biệt tương đối về tiếng nói,
do đặc điểm cư trú đưa lại. Tuy nhiên họ đều thuộc nhóm ngôn ngữ H’mông –
Dao (ngôn ngữ Nam Á) và có chung tục thờ Bàn Vương. Ngày nay, trong
cộng đồng người Dao vẫn lưu truyền phổ biến câu chuyện về Bàn Hồ.


14


Chuyện kể rằng xưa có hai vị Cao Vương và Bình Vương cầm đầu hai
nước đánh nhau không phân thắng bại. Một lần Cao Vương uy hiếp thành
công Bình Vương. Bình Vương rất lo sợ liền tuyến bố sẽ gả công chúa cho ai
có thể đánh thắng được giặc. Không một viên tướng nào dám nhận. Sau đó,
bỗng nhiên xuất hiện một người tự xưng là Bàn Hồ đến xin đánh mà không
cần dùng quân lính. Cực chẳng đã, Bình Vương buộc phải bằng lòng. Bàn Hồ
đi tới thành của Cao Vương, biến thành con chó, canh một tới chân thành,
canh hai vào thành tới chỗ Cao Vương. Thấy chó quý đến, Cao Vương cho
rằng có điềm lành, bèn giữ lại, luôn cho theo bên mình. Một hôm, Cao Vương
quá chén, rượu say bất tỉnh, Bàn Hồ bèn chém đầu và đưa về dâng cho Bình
Vương. Thắng trận, Bình Vương mặc dù không muốn gả con gái cho Bàn Hồ
song, vì đã chót hứa nên đành phải giữ lời. Đôi vợ chồng Bàn Hồ trở về núi
Nam Sơn và sinh sống ở trong động. Sau ba năm, vợ chồng Bàn Hồ sinh được
6 người con trai, 6 người con gái, kết hôn với nhau và thành thủy tổ 12 dòng
họ của người Dao hiện nay. Vợ chồng Bàn Hồ cùng con cái sau đó trở về
thăm bố vợ. Thương các cháu, Bình Vương ban cho các cháu áo, quần (váy),
sặc sỡ. Tuy nhiên, vợ chồng và con cái của Bàn Hồ không quen ở đất bằng,
họ xin trở về núi sinh sống. Nhà vua phong cho làm Bàn Vương, cấp cho Bình
Hoàng khoán điệp mà người Dao gọi là “Quỷ son poong” làm chủ tất cả khu
vực rừng núi phía Nam.
Trong các câu chuyện kể về nguồn gốc của người Dao, chuyện Bàn
Vương là phổ biến. Câu chuyện này hiện có nhiều phiên bản khác nhau, do
ảnh hưởng qua lại với các tộc người khác... Một số nhóm không thuộc người
Dao cũng phổ biến câu chuyện Bàn Hồ. Dù câu truyện được truyền miệng và
kể với mô típ nào chăng nữa thì cũng cho thấy một đặc điểm rất rõ là nguồn
gốc của nười Dao là kết quả của sự giao lưu văn hóa. Nếu câu truyện Bàn Hồ
liên kết toàn bộ cộng đồng người Dao, thì một số tín ngưỡng và thực hành

15


hành tôn giáo nhuốm màu sắc Đạo giáo cũng góp phần củng cố thêm ý thức
tự giác tộc người của người Dao và từng nhóm bộ phận.
Hình thái kinh tế của người Dao ở Yên Bái trước đây chủ yếu sản xuất
nông nghiệp, trồng lúa nương và lúa nước. Trong đó lúa nước chiếm tỷ lệ ít
hơn. Ngày nay, người Dao ở đây chủ yếu trồng lúa nước do họ đã sống định
cư và canh tác lúa nương không còn được chính quyền sở tại khuyến khích.
Ngoài cây lúa, người Dao còn trồng thêm một số cây hoa màu khác như ngô,
khoai, sắn,... Rau của người Dao có các loại bầu, bí, mướp đắng, cây họ đậu,
củ từ, dưa gang. Đặc biệt, người Dao ở Yên Bái hiện đang phát triển hai loại
cây công nghiệp đó là quế và cây chè. Cây quế là cây trồng truyền thống của
người Dao ở huyện Văn Yên, khi sinh con gái bố mẹ lại trồng thêm quế để
làm của hồi môn, khi sinh con trai cũng trồng thêm quế để dành cho con.
Người Dao ở Yên Bái cũng chú ý tổ chức chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà,..vv.
1.2.2. Người Dao ở Lục Yên
- Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của huyện Lục Yên
Lục Yên là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Yên
Bái, cách thành phố 93km. Phía Đông của huyện giáp với Hàm Yên (Tuyên
Quang), phía Tây giáp Văn Yên (Yên Bái), phía Nam giáp Yên Bình (Yên
Bái) và phía Bắc giáp Quang Bình (Hà Giang) và Bảo Yên (Lào Cai). Huyện
Lục Yên có diện tích tự nhiên là 808,7 km2 bằng 11% diện tích tự nhiên của
tỉnh Yên Bái, sếp thứ 4/9 so với 9 huyện của tỉnh về quy mô đất đai. Toàn
huyện có 23 xã và 1 thị trấn. Đây là cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Yên Bái, nối
cửa khẩu Lào Cai với Yên Bái, Hà Nội với cả nước.
Về địa hình, huyện Lục Yên thuộc khu vực miền núi, bị chia cắt bởi 2
dãy núi chính chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, tạo ra các thung
lũng, bồn địa bằng phẳng là nơi tập chung sản xuất và sinh sống lâu đời của


16


nhân dân các dân tộc trong huyện. Nơi đây có đất đai phì nhiêu khá thuận lợi
cho sản xuất nông nghiệp.
Lục Yên nằm trong tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm hai
mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng
4 năm sau. Nhiệt độ trung bình từ 22oC đến 24oC, nhiệt độ cao nhất 39oC –
41oC thấp nhất 1 - 2oC. Lượng mưa trung bình trong năm tương đối lớn từ
1500 – 2500mm tập chung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10.
Thời tiết khí hậu huyện Lục Yên chỉ thích ứng với việc phát triển nông
lâm nghiệp. Ở đây người dân trồng rừng phòng hộ, rừng sản xuất, trồng cây
công nghiệp (chè), cây ăn quả (cam, quýt, hồng không hạt) và các loại cây
đem lại lợi ích kinh tế khác như măng Mai. Sản phẩm măng khô của Lục Yên
đã được bán ở khắp các vùng miền trong cả nước …
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
huyện Lục Yên đã được đầu tư xây dựng nhiều hạng mục cơ sở hạ tầng:
100% các xã trong huyện đều đã có trạm xá, điện thắp sáng, đường xe ôtô tới
trụ sở Ủy Ban Nhân Dân và trường học đến cấp Trung học cơ sở.
Theo số liệu thống kê gần nhất, tốc độ tăng trưởng bình quân ở huyện
Lục Yên là 13,76%. Mức thu nhập bình quân đầu người từ 5-6 triệu đồng.
Thu ngân sách trên địa bàn đạt 5.158 tỉ đồng. Nếu cuối năm 2014, toàn huyện
có 3460 hộ nghèo, chiếm 35,96% so với tổng số hộ trên địa bàn thì sau 1 năm
thực hiện Nghị quyết 30A, đến 31/12/2015 tổng số hộ nghèo của huyện chỉ
còn 2315 hộ nghèo. Việc thực hiện công tác xóa nhà tạm trên địa bàn đã hoàn
thành từ 2014 với trên 1.172 nhà. (Những thông tin, số liệu trên đây dựa theo
kết quả thống kê của Phòng thống kê huyện Lục Yên năm 2014).).
Các yếu tố môi trường, tự nhiên và xã hội vừa nêu ở trên có ảnh hưởng
chi phối tới đời sống của những người dân đang sinh sống trên địa bàn, trong
đó có người Dao. Với những đặc điểm về vị trí địa lý, địa hình của một huyện

17


miền núi... người Dao ở đây đã xây dựng cho mình cách thích nghi để phát
triển nông lâm nghiệp từ đó cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Về người Dao ở Lục Yên
Tại Lục Yên, hai nhóm Dao Quần Trắng và Dao Đỏ chiếm đa số; họ
sống tập trung ở hai khu vực khác nhau. Nếu người Dao Đỏ sinh sống chủ
yếu ở khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thì người Dao Quần Trắng lại chủ yếu
hai bên bờ sông Chảy thuộc phía Nam của huyện Lục Yên, do môi trường
sinh sống xen kẽ giữa các tộc người khác nhau và gần đường quốc lộ nên hiện
nay các nghi lễ văn hóa của nhóm Dao Quần Trắng đã biến đổi đi rất nhều.
Người Dao ở Lục Yên phần đông là Dao Đỏ, cư trú chủ yếu ở khu vực tiếp
giáp giữa vùng thấp và vùng cao, sinh sống thành làng/bản có khi chỉ có vài
nóc nhà. Trước kia người Dao thường sống phân tán, khoảng cách các bản
khá xa vì phải chạy theo nương rẫy. Hiện nay, dưới sự hỗ trợ của chính quyền
địa phương, người Dao đã sống định cư, nhà cửa ở sườn đồi, gần suối hoặc
những nơi có điều kiện dẫn các mỏ nước ngầm tự nhiên. Họ sống tập trung
đông nhất ở các xã như: Tân Phượng, Khai Trung, Phúc Lợi, Tân Lĩnh và Tô
Mậu,...
Hình thái kinh tế của người Dao ở huyện Lục Yên chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp. Một số ngành nghề thủ công cũng phát triển như dệt vải, nhuộm
chàm, in và thêu hoa văn trên vải. Một số nghề đan lát các dụng cụ để đựng bằng
che, nứa, mây, giang song. Nghề rèn của người Dao cũng phát triển, chủ yếu là
sản suất ra các công cụ phục vụ cho công việc sản suất như: dao, cuốc cào cỏ,
lưỡi cày,... Các hoạt động trao đổi, mua bán chưa thực sự trở thành loại hình
kinh tế quan trọng nhưng cũng giúp cải thiện đời sống của nhiều người dân.
Nhà ở của người Dao ở Lục Yên cũng giống như người Dao ở những
nơi khác, chủ yếu là nhà đất, nhà hình chữ nhật và thường có hai mái, trong


18


nhà có từ 3 đến 5 gian và bàn thờ được đặt ở gian giữa. Vật liệu làm nhà của
người Dao chủ yếu bằng gỗ, khai thác từ những khu rừng gần nơi cư trú.
Về trang phục, người Dao ở huyện Lục Yên cũng có trang phục giống
như người Dao của tỉnh Yên Bái. Cách nhận diện và phân biệt các nhóm tộc
người chủ yếu là dựa vào trang phục của họ. Người Dao Đỏ của huyện Lục
Yên là Dao Đại Bản, trang phục của họ là chiếc áo dài. Họ không mặc áo
ngắn. Áo tứ thân màu chàm hoặc màu đen, không khoét nách mà tay đấu
thẳng vào thân áo, nẹp ngực được thêu họa tiết với màu chủ đạo là màu đỏ,
chủ yếu là những sợi chỉ với gam màu đỏ (nhiều nhất), vàng, xanh,...thêu trên
nền vải màu đen. Dao Họ, còn được gọi là Dao Quần Trắng; trang phục của
họ mặc bó sát, áo dài qua hông, quần dài đến đầu gối và bó sát đùi, chân quấn
xà cạp.
Theo các nhà dân tộc học, trang phục dân tộc Dao nói chung và trang
phục dân tộc Dao Đỏ nói riêng thể hiện trên những họa tiết là hình con chó và
nhiều màu lá bởi nó gắn liền với sự tích về Bàn Hồ hóa thân thành con Long
khuyển ngũ sắc vào thành giết Cao Vương để giúp Bình Vương giữ được đất
nước. Mặc trang phục nhiều màu sắc như vậy là để tưởng nhớ và biết ơn Bàn
Hồ. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, quần áo của tộc người Dao sặc sỡ là
bởi vì họ chủ yếu sống ở vùng rừng núi; trang phục có tác dụng bảo vệ họ
khỏi sự tấn công của hổ báo – những con vật vốn sợ màu đỏ.
Qua tìm hiểu về trang phục dân tộc cho thấy, trang phục dân tộc của
người Dao vừa đảm bảo yếu tố truyền thống, tâm linh cũng như sắc thái văn hóa.
Quần áo của đàn ông may rộng để phù hợp cho việc đi rừng, săn bắt,... Quần áo
của phụ nữ may dài, ôm sát cơ thể vừa tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ vừa che
chắn cho người phụ nữ khi lên rừng, đi nương rẫy khỏi nắng, bụi bặm,... trong
khi chiếc xà cạp lại có tác dụng chống lạnh, muỗi, vắt hay những vật cứng.


19


Trong tín ngưỡng của Dao, nếu câu chuyện về Bàn Hồ liên kết toàn bộ
cộng đồng người Dao về một mối thì tương tự, một số thực hành tín ngưỡng
và tôn giáo nhuốm màu sắc của Đạo giáo cũng góp phần củng cố thêm ý thức
tộc người của họ. Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc và từ lâu đã có ảnh hưởng
đến người Dao. Dù ở sách cúng hay tranh về các vị thánh Đạo giáo đều thấy
là nội dung Đạo giáo đã được người Dao tiếp thu và biến hóa cho phù hợp.
Nói cách khác, Đạo giáo đã sử dụng các tín ngưỡng và hành vi tôn giáo sâu
sắc nhất vốn có ở người Dao và đưa vào đó nghi thức và nội dung mới. Điều
này phản ánh rõ nhất ở trong tranh thờ của người Dao trong đời sống tín
ngưỡng.
1.3. Khái quát về tranh thờ của người Dao
Tranh thờ không phải như những bức tranh để chơi như quan niệm
thông thường; nó là tranh dùng để phục vụ trong các nghi lễ của thầy mo, thầy
cúng (thầy Tào). Tranh thờ, như tên gọi của nó được sử dụng trong các nghi
lễ thờ cúng và một phần trong hệ thống các đồ thờ khác như mũ, áo, thầy tào,
ấn, kiếm, mặt nạ dùng trong lễ cúng. Tranh thờ mang sắc thái và giá trị thẩm
mỹ rất riêng, được vẽ theo nội dung của các điển tích về thần linh, vũ trụ và
con người qua lý thuyết của Đạo Giáo và bị pha trộn những ảnh hưởng của
Đạo Phật, cộng với những biến thể do bị thêm bớt của từng địa phương khác
nhau. Tranh thờ có bố cục lạ: hẹp, dài với dày đặc hình ảnh của các vị thần
linh. Các nhân vật thần chủ này lại tuân theo một quy tắc xã hội nhất định: Ai
có quyền năng cao được vẽ to, chiếm vị trí trung tâm và với các vị thần ít
quyền thì được vẽ đơn giản, nhỏ. Màu sắc tranh thờ là màu tự nhiên, ít pha
trộn như đỏ, vàng, trắng, đen, xanh lá cây,... đâu đó các họa công còn dùng cả
vàng lá, bạc lá, bạc thếp để thêm vào tranh tạo sự quyện ấm tươi tắn cho bức
tranh – có thể dễ dàng đoán được những màu ấy trong tranh, mang tính ước
lệ, biểu trưng nhiều hơn là tả thực.

20


Một trong những điều đáng chú ý nhất ở tranh thờ là phong cách nghệ
thuật Đồng Hiện và Liên Hoàn được sử dụng triệt để, tạo nên hiệu quả rất cao.
Nghĩa là, trong cùng một khuôn tranh, người ta bắt gặp các lớp không gian,
thời gian, thật và ảo khác nhau; các thần chính, thần phụ, ma quỷ và con
người trên cùng một mặt tranh. Lại có những bức tranh vẽ đủ cả các cảnh từ
mặt đất lên bầu trời, từ núi sông tới biển cả, từ địa ngục tới tiên cảnh tùy theo
trí tưởng tượng của người vẽ. Điều ấy khiến cho không gian của tranh trở nên
mênh mang, không gian tranh trở nên vô tận chứ không ghim chặt vào một
thời điểm sáng hay chiều. Xét về mặt nào đó, đây là một thành công trong tư
duy sáng tác của các họa công tranh thờ. Tranh vẽ một loạt các nhân vật đáng
chú ý khác đó là những vị thần chủ như là Thập Điện Linh Vương, Tứ Đại
Nguyên Súy, Tả Sư Hữu Thánh... và các thần phụ đi kèm. Những vị thần chủ
chính thường được khắc họa nổi bật, các chi tiết được chọn lựa kỹ càng, mang
tính biểu trưng cao, ví như những lưỡi lửa bừng bừng cháy trên thanh gươm
của vị Tả Sư và con rắn xanh quấn quanh gươm của vị Hữu Thánh – trong bộ
tranh đôi Tả Sư Hữu Thánh. Những hình ảnh nói trên là ví dụ về sự khái quát,
cô đọng bằng đường nét: diễn tả sức mạnh bừng bừng không gì cản nổi (như
ngọn lửa), thâm sâu lạnh lẽo (như nọc độc của con rắn xanh) thứ quyền lực
bao trùm, mạnh mẽ của hai vị quan chấp pháp.
Trong khi đó, những nhân vật phụ thường được vẽ không mấy cụ thể,
mang những tư thế giống hệt nhau, đôi khi là những bản sao hoàn chỉnh về
sắc độ. Chính những hình tượng phụ này cũng là một điểm rất đáng lưu ý:
hàng trăm hình tượng vẽ lặp lại, na ná nhau, lại xếp liền tù tì thành một hàng
hay nhiều hàng chồng chéo, giống như một họa tiết trang trí độc đáo.
Với các dân tộc thiểu số, người thầy cúng và đồ thờ cúng luôn là chỗ
dựa cho đời sống tâm linh của họ. Người thầy cúng được kính trọng, có uy tín
trong cộng đồng và phải được cấp sắc và có học hành. Các lễ cúng không chỉ

21


là phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số mà còn là hoạt động sinh hoạt
văn hóa. Gắn liền với các lễ cúng đó, tranh thờ đóng một vai trò quan trọng,
thể hiện và diễn tả các tín ngưỡng, lối tư duy và cách hành xử trong cuộc sống
của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong sinh hoạt thường ngày, với nhiều dân
tộc, tranh thờ và một số tác phẩm điêu khắc sẽ không được sử dụng vì mục
đích trang trí. Tranh thờ do các họa công tranh thờ vẽ và sao chép - nằm trong
hệ thống đồ để thờ cúng như áo choàng mũ, kiếm cúng, lệnh bài, mặt nạ, nhạc
cụ, sách cúng.... tất cả những vật này thuộc sở hữu của thầy tào và chỉ được
đưa ra sử dụng vào những dịp lễ cúng. Các thầy Tào có quy tắc bảo vệ sự linh
thiêng của bộ tranh thờ rất chặt chẽ.
Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc Khuê trong bài viết Tranh thờ của
người Dao ở Bắc Bộ Việt Nam in trong cuốn; Sự phát triển văn hóa xã hội
của người Dao: Hiện tại và tương lai có nhận xét: “Phía dưới cùng của tranh,
vẽ một người mặc áo đội mũ của thầy tào đang quỳ để dâng hương lên các vị
thần linh vẽ ở toàn bộ phần trên. Thầy Tào chỉ vẽ phần lưng, không thấy mặt.
Làn khói hương tỏa bay ngoằn nghoèo như một con đường dẫn tới những vị
thần linh ở các cung điện, lên tới tận Tam Thanh cung trên cao tột đỉnh – nơi
ở của ba vị thiên tôn tối cao, biểu hiện cho lời cầu khấn của thầy tào sẽ thấu
tới các vị thần linh mà người vẽ trong tranh. Cho nên tranh có tên là Dẫn
Hương, đó là xét về mặt hình thức biểu hiện của tranh” [06, tr.15].
Chi tiết này cho thấy người dâng hương rất quan trọng – nó xác định
trung tâm của bức tranh, có trong hệ thống tranh Đạo Giáo của các dân tộc
Dao, Tày, Nùng, Cao Lan ở miền núi và Kinh ở vùng đồng bằng. Đồng thời
cũng cho ta thấy hình ảnh của các vị thần linh được vẽ toàn bộ phần trên bức
tranh là thể hiện sự tôn kính đối với các vị thần, cũng là để xác định các vị
thần linh trong ba cõi Thượng - Trung - Hạ Nguyên như cách chia của Đạo
Giáo mà không có trong bất kỳ loại tranh Phật Giáo nào ở Việt Nam.

22


Tranh thờ có ở một số dân tộc như Dao, Cao Lan, Tày, Nùng ở miền
núi phía Bắc và người Kinh ở khu vực đồng bằng. Những tranh này mặc dù
có chung chủ đề, đề tài và tác dụng trong hành lễ nhưng lại khác nhau về cách
thể hiện trên tranh.
Theo Frederick Harris - Chủ tịch quỹ Đông ngày nay – tác giả của cuốn
Tranh thờ các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, nhận xét: “Tranh thờ là di
sản của một nền văn hóa lớn để lại. Đó là nền văn hóa của Đạo Giáo, hình
thành từ Trung Quốc khoảng hơn 2000 năm. Đạo Giáo cũng được mang vào
Việt Nam từ thời Thái Thú Giao Châu là Sỹ Nhiếp, tại trung tâm Luy Lâu
(136 – 226). Hiện nay, toàn bộ văn hóa Việt Nam đã thấm nhuần Đạo Giáo.
Nhưng có dòng tranh nhà thờ là không còn thấy lưu hành trong tộc người đa
số của Việt Nam. Chỉ còn tồn tại trong cộng đồng các dân tộc thiểu số miền
núi như Tày, Nùng, Dao, Cao Lan - Sán Chỉ và Khơ Mú. Tranh thờ được
dùng không phải một bức tranh để chơi, mà dùng trong các nghi lễ của các
thầy Mo, thầy cúng (thầy Tào). Các dân tộc này đều có nguồn gốc từ Trung
Quốc,...vì nhiều lí do khác nhau nhưng chủ yếu là do xung đột sắc tộc, nên đã
di cư, lánh nạn xuống phía Bắc của Việt Nam sinh sống trong nhiều thế kỷ
qua. Các dân tộc này có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong những năm sau đổi
mới và trong thời kỳ hiện đại hóa hiện nay. Nhưng phải nói rằng, dù trải qua
nhiều biến cố, thăng trầm nhưng các dân tộc này vẫn còn giữ được nhiều đời
sống văn hóa riêng của họ ít bị biến đổi và nhạt phai vì thế mà tranh thờ vẫn
còn tồn tại, cùng các nghi lễ và đời sống tín ngưỡng vẫn còn giữ được gần
như trước đây trong đời sống của họ”.
Ngày nay, có những tranh đề lạc khoản rõ ràng cho biết xuất xứ. Tại
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, một bộ tranh thờ của người Dao Đỏ vùng Bắc
Hà, Lào Cai đang được trưng bày tại đây, trong khoản lạc ghi rõ: thuê hai bố
con nghệ nhân người Quảng Lâm, Quảng Tây vẽ năm Gia Khánh thứ 16, triều

23


nhà Thanh, tức năm 1812, với giá khoảng 20 lạng bạc. Tuy nhiên, đó không
phải là hiện tượng phổ biến; đại đa số các tranh đều không có niên đại. Qua
tìm hiểu của chúng tôi tại xã Khai Trung có bộ tranh của ông Phùng Kim Vui,
hiện nay người thờ là Phùng Xuân Phú (đời thứ 6, bộ tranh khoảng trên 200
năm), tuy nhiên, bức tranh không đề người vẽ năm bao nhiêu...
Sự xuất hiện của tranh thờ ở người Dao tại Việt Nam từ bao giờ hiện
vẫn chưa có dẫn chứng rõ ràng để minh chứng. Trong quá trình điền dã tại
địa bàn huyện Lục Yên, các thầy tào, nghệ nhân và các cụ cao tuổi có hiểu
biết về tranh thờ đều cho biết họ không rõ xuất sứ của tranh thờ. Họ chỉ biết
rằng, tranh thờ đã có trong cộng đồng người Dao từ rất lâu đời.
Ở sâu vùng nội địa, việc giao lưu văn hóa giữa hai vùng biên giới Việt
– Trung có khó khăn, người Dao thuê các nghệ nhân người Tày, Kinh vẽ
tranh thờ. Các nghệ nhân thường vẽ theo mẫu tranh của Trung Quốc và không
có nhiều sai sót và khác biệt lớn về nội dung. Điểm khác ở đây chỉ là chất liệu
và phong cách vẽ của người hoa công..
Với tranh Trung Quốc, mặt sau thường có một tờ giấy biểu là bản vẽ
nét đen của tranh. Sau khi bồi biểu hai tờ với nhau, người họa công sẽ có hình
vẽ lờ mờ trên mặt tranh. Dựa trên các nét, hình đó người ta sẽ tô phẩm màu
hoặc mực nho và đi các nét bao hình vẽ chính và chi tiết. Các bức tranh của
người Việt nam vẽ không có chi tiết này.
Về chất liệu màu, người Trung Quốc thường dùng phẩm màu và mực
nho để vẽ nên màu tranh thường rực rỡ và mặt tranh thì mịn màng. Tranh của
người Việt Nam sử dụng bột màu cho nên mặt tranh xốp và gợn hơn. Tương
tự, giấy vẽ của người Trung Quốc là bằng chất liệu giấy dó, rất dày và độ bền
của tranh sẽ tốt hơn tranh của người Việt Nam. Hoặc, liên quan đến kỹ thuật;
do truyền thống hàng nghìn năm sử dụng bút lông để viết chữ và vẽ tranh nên
nét vẽ trên tranh của người Trung Quốc khá là hoạt bát, sinh động, chính xác

24


×