VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
o0o
Trung Thị Thu Thủy
TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI BA NA
(HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội – 2014
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
o0o
Trung Thị Thu Thủy
TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI BA NA
(HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI)
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 62317005
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS Nguyễn Xuân Kính
PGS. TS Bùi Văn Đạo
Hà Nội - 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ:
TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI BA NA
(HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI)
Là do tôi viết, mọi trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trung Thị Thu Thủy
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 5
Chương 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP
VÀ TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 22
1.3. Khái quát về người Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai 38
Tiểu kết chương 1 57
Chương 2: HỆ THỐNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG
CHRO, TỈNH GIA LAI 59
2.1. Thế giới quan của người Ba Na 59
2.2. Hệ thống các thần linh 61
2.3. Các biểu hiện của tín ngưỡng đa thần của người Ba Na 77
Tiểu kết chương 2 116
Chương 3: GIÁ TRỊ, SỰ BIẾN ĐỔI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI TÍN
NGƯỠNG CỦA NGƯỜI BA NA HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI
TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI 117
3.1. Tín ngưỡng của người Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh xã hội
đương đại - sự va chạm và những biến đổi 117
3.2. Gía trị của tín ngưỡng trong đời sống của người Ba Na, huyện Kông Chro,
tỉnh Gia Lai 137
3.3. Những vấn đề đặt ra cho bảo tồn và phát huy các hình thức tín ngưỡng trong
đời sống của người Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh đương đại 151
Tiểu kết chương 3 161
KẾT LUẬN 163
KHUYẾN NGHỊ 166
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 168
TÀI LIỆU THAM KHẢO 169
PHỤ LỤC 176
4
177
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người Ba Na là một trong những dân tộc tại chỗ sinh sống lâu đời trên cao
nguyên trung phần miền Tây của Tổ quốc. Đây là dân tộc thiểu số có dân số lớn thứ ba ở
Tây Nguyên sau hai dân tộc thiểu số Gia Rai và Ê Đê, còn nếu tính trong số các dân tộc
nói ngôn ngữ Môn – Khơ me ở Tây Nguyên thì người Ba Na là dân tộc có dân số lớn
nhất. Hiện nay người Ba Na có khoảng trên 200.000 dân (năm 2009), sống tập trung ở 2
tỉnh Gia Lai, Kon Tum và một bộ phận ở các huyện miền núi các tỉnh Bình Định và Phú
Yên. Do những lý do và đặc điểm riêng, dân tộc Ba Na không chỉ nổi tiếng về truyền
thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, theo Đảng theo cách mạng mà còn được biết đến
như là một trong số ít các dân tộc Tây Nguyên cho đến nay còn bảo lưu đậm nét nhiều
yếu tố văn hóa Môn – Khơ me truyền thống.
Nửa cuối thế kỷ XIX, xã hội của cư dân bản địa Tây Nguyên nói chung, người Ba
Na nói riêng đang ở giai đoạn cuối của thời kỳ công xã nguyên thủy. Trong giai đoạn phát
triển đó, văn hóa tinh thần của người Ba Na chịu ảnh hưởng, bị chi phối và tác động rất
lớn của tín ngưỡng nguyên thủy vạn vật hữu linh. Tín ngưỡng là sản phẩm của xã hội cổ
truyền, gắn với hình thái kinh tế - xã hội tiền công nghiệp, gắn với cơ cấu xã hội mà làng
giữ vai trò then chốt và cơ bản. Tín ngưỡng hàm chứa trong đó các giá trị, là sợi dây cố
kết các thành viên và cộng đồng, điều hòa các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Hơn một thế kỷ qua, đời sống văn hóa tinh thần của người Ba Na huyện Kông
Chro, tỉnh Gia Lai, trong đó có đời sống tín ngưỡng, đã có nhiều biến đổi lớn trước tác
động của các điều kiện mới. Hệ quả của sự biến đổi đó đã ảnh hưởng lớn đến văn hóa,
an ninh chính trị của địa phương. Nếu không giải quyết tốt bài toán tín ngưỡng thì Kông
Chro cũng sẽ như các nơi khác của Tây Nguyên đối mặt với những phức tạp thể hiện ở
sự đan xen, pha trộn, thậm chí có cả xung đột với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống và
đời sống xã hội, chính trị Vì vậy, có song đề được đặt ra là: một mặt, phải đảm bảo cho
được quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân; mặt khác, phải tiếp tục định hướng và quản
lý nhà nước để hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tuân thủ pháp luật, vừa phát huy những
5
giá trị tích cực vừa góp phần bảo tồn những bản sắc văn hóa của dân tộc nơi đây. Đây là
hai vấn đề đang đặt ra vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài.
Về mặt xã hội và an ninh chính trị, các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên hiện nay trong
đó có người Ba Na đang “yên” nhưng chưa “ổn”. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này trong đó phải kể đến nguyên nhân khủng hoảng niềm tin và sự phát triển không bình
thường của Công giáo, Tin lành, Hà mòn. Nghiên cứu tín ngưỡng của người Ba Na nhằm
góp phần ổn định xã hội, củng cố an ninh chính trị, là nhu cầu cấp thiết cần giải quyết để
phát triển bền vững các dân tộc thiểu số tại chỗ nói riêng và Tây Nguyên nói chung hiện
nay.
Tín ngưỡng, tự bản thân nó luôn hàm chứa những giá trị văn hóa, giá trị đạo đức,
giá trị lối sống… làm nên diện mạo của một cộng đồng. Trong bối cảnh của xã hội
đương đại, vấn đề đặt ra là cần có những phương cách lưu giữ, phát huy những yếu tố
tích cực của tín ngưỡng, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội; loại bỏ dần những hủ
tục, mê tín tiêu cực, không phù hợp thậm chí là kìm hãm tiến bộ xã hội hiện nay để góp
phần bảo tồn văn hóa, ổn định an ninh chính trị đồng thời tạo nên sự phát triển bền vững
của một tộc người, là những vấn đề thực sự cần được quan tâm. Vì vậy chúng tôi chọn
đề tài: “Tín ngưỡng của người Ba Na (huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai)” cho đề tài
luận án của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu chung của luận án là giới thiệu một cách hệ thống và toàn
diện về bức tranh tín ngưỡng truyền thống của người Ba Na nhằm góp phần làm sáng rõ
đặc trưng văn hóa của người Ba Na ở Kông Chro tỉnh Gia Lai; đồng thời chỉ rõ những
biến đổi trong tín ngưỡng, lý giải nguyên nhân tác động đến những biến đổi đó và một
số vấn đề đặt ra trong bối cảnh từ sau 1975 đến nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
2.2.1. Làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện bức tranh tín ngưỡng truyền
thống như là một khía cạnh quan trọng của văn hóa tộc người Ba Na được coi là đặc trưng
tiêu biểu cho văn hóa truyền thống các dân tộc nói ngôn ngữ Môn – Khme ở Tây Nguyên.
2.2.2. Xác định và phân tích, đánh giá một số giá trị của tín ngưỡng trong đời
sống của người Ba Na.
6
2.2.3. Phân tích, lý giải qúa trình biến đổi và các nguyên nhân gây biến đổi tín
ngưỡng của người Ba Na từ sau 1975 đến nay và những vấn đề đặt ra cho phát triển kinh
tế - xã hội dân tộc Ba Na trong bối cảnh phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là dân tộc Ba Na và các khía cạnh đời sống tín
ngưỡng truyền thống của người Ba Na tại huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tín ngưỡng là một vấn đề rất rộng và khó, đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu và
tâm huyết mới có thể khái quát lên diện mạo của nó trong đời sống tinh thần của một tộc
người. Vì vậy, khi chọn đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu ở các khía cạnh:
quan niệm về sự phân tầng vũ trụ hay ý niệm về thế giới của người Ba Na; thần và ma;
linh hồn; điềm báo (giấc mơ; điềm báo từ những con vật, cây cối ); những điều kiêng
kị; hiện tượng ma thuật và bói toán; vai trò của thầy cúng (pơ jâu, gru) trong đời sống
tinh thần của người Ba Na; những lễ thức để thấy được vai trò của tín ngưỡng trong đời
sống của người Ba Na, giá trị của tín ngưỡng như một mạch ngầm cố kết các thành viên
của cộng đồng.
3.3. Địa bàn nghiên cứu
Địa bàn khảo sát chính của chúng tôi là những làng của người Ba Na tại huyện
Kông Chro tỉnh Gia Lai như làng Tơ Nung, làng Măng (xã Ya Ma); làng Nhang lớn, làng
Nhang nhỏ, làng Htiêng (xã Đăk Kơ Ning); làng Tpông1, làng Rơng, làng Kun1, (xã Yang
Nam); làng Nghe Lớn, làng Bjang (thị trấn Kông Chro); làng Meo lớn, làng Meo nhỏ (xã
Đak Pling); làng Kuel, làng Kuk, làng Sơ Ró (xã Sơ Ró). Bên cạnh đó chúng tôi cũng có
những so sánh với một số làng của người Ba Na tại các huyện Kbang (làng Hà Nừng, làng
Stơr); thị trấn Đăk Đoa (làng Dur, làng Klăk, làng Ngol, làng Pi ơm) thuộc tỉnh Gia Lai;
làng Kon Kơ tu, KonTum Kơ pâng, Konjodri, thuộc thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum)
để thấy những tương đồng và dị biệt trong tín ngưỡng và biến đổi tín ngưỡng của các nhóm
Ba Na ở các địa phương khác nhau.
4. Đóng góp mới của đề tài
4.1. Đóng góp về mặt khoa học
7
4.1.1. Làm phong phú thêm những vấn đề lý thuyết và khái niệm liên quan đến tín
ngưỡng truyền thống ở các cư dân tiền công nghiệp nói chung và các cư dân nói ngôn
ngữ Môn - Khme nói riêng ở Việt Nam.
4.1.2. Cung cấp các tư liệu mới góp phần làm sáng tỏ diện mạo tín ngưỡng truyền
thống của các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Môn – Khơ me nói riêng góp phần tìm hiểu
văn hóa của các dân tộc trong quốc gia Việt Nam đa tộc người.
4.1.3. Làm sáng tỏ một số đặc trưng và giá trị văn hóa xã hội của tín ngưỡng Ba Na.
4.1.4. Góp phần lý giải một số vần đề về quan hệ giữa tín ngưỡng với văn hóa và
sinh kế, tín ngưỡng với nông nghiệp du canh, tín ngưỡng với xã hội và mối quan hệ giữa
tín ngưỡng với các khía cạnh khác của đời sống dân tộc Ba Na.
4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
4.2.1. Làm rõ những biến đổi trong tín ngưỡng của người Ba Na dưới tác động của
các điều kiện mới
4.2.2. Nhận diện những tác động tích cực và tiêu cực của biến đổi tín ngưỡng đến
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững.
4.2.3. Gợi mở một số đề xuất làm cơ sở khoa học góp phần xây dựng chính sách
bảo tồn, phát huy các giá trị tín ngưỡng nói riêng, văn hóa nói chung trong bối cảnh phát
triển bền vững ở tộc người Ba Na cũng như các dân tộc thiểu số khác tại Tây Nguyên.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được chia làm 3
chương:
Chương 1: Tình hình nghiên cứu, lý thuyết, phương pháp và tổng quan về người
Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai
Chương 2: Hệ thống tín ngưỡng của người Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai
Chương 3: Gía trị, sự biến đổi và những vấn đề đặt ra với tín ngưỡng của người
Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh xã hội đương đại.
8
Chương 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ
TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tín ngưỡng của người Ba Na
Văn hóa của dân tộc Ba Na là một trong những di sản văn hóa phong phú trong
kho tàng văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, là một mảng màu làm nên sự đa dạng, sinh
động trên bức tranh toàn cảnh của bản sắc văn hóa Việt Nam. Với nhiều lớp văn hóa tích
tụ, bồi đắp trong quá trình lịch sử dài lâu, tín ngưỡng Ba Na cho đến nay vẫn luôn là đối
tượng hấp dẫn của các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước.
1.1.1.1. Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Tây Nguyên là vùng đất thu hút sự quan tâm của các học giả người Pháp khi lần
đầu tiên họ đặt chân đến đây. Những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên nói chung và
về tín ngưỡng của người Tây Nguyên nói riêng đã được họ nghiên cứu ngay từ nửa sau
thế kỷ XIX. Văn hóa Ba Na thực sự là niềm hứng thú nghiên cứu dân tộc học được
nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với chủ yếu là những người Pháp thuộc
Hội Truyền giáo, các sĩ quan quân đội, quan chức hành chính của chính quyền thuộc địa,
những nhà thám hiểm, những chủ đồn điền, và một số học giả chuyên làm công tác
nghiên cứu. Dẫu cho mục đích nghiên cứu có khác nhau nhưng những công trình mà họ
để lại là cả một kho tư liệu quý giá để chúng ta có thể có cái nhìn đầy đủ hơn về vùng
đất, văn hoá, con người nơi đây.
J. Pierre Combes là linh mục đầu tiên lên truyền giáo tại Tây Nguyên. Khoảng năm
1833, ông khởi viết công trình nghiên cứu dân tộc học tổng quát đầu tiên về người Ba Na.
Công trình tiếp theo là Dân Làng Hồ ( Les sauvages Bahnars) [32] của linh mục
P.Durisboure (người có 35 năm sống ở vùng dân tộc Ba Na) được công bố năm 1873.
Có thể coi đây là học giả người Pháp đầu tiên quan tâm đến tín ngưỡng của người Ba
Na. Công trình này được ông khởi viết tại một vùng rừng núi Bắc Tây Nguyên vào năm
1865 để rồi sau đó hoàn thành tại Chủng viện Hội Thừa sai Pari ngày 28/1/1873. Đây là
cuốn sách viết về buổi đầu trong hành trình truyền giáo lên cao nguyên của các giáo sĩ
phương Tây thế kỉ XIX. Công trình đề cập khá nhiều đến địa lí, nhân văn; những miêu
tả, nhận xét về cây cỏ, muông thú, về số dân, các nhóm sắc tộc; hoạt động mưu sinh,
việc rèn đao kiếm, khai thác mỏ,… của các dân tộc bắc Tây Nguyên. Tín ngưỡng dân
9
gian, những phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số cũng được đề cập như tục
kiêng cữ, cấm đoán, một phần những qui định bất thành văn là sức mạnh “pháp lí” của
cộng đồng, là những tư liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu đi sau muốn tìm hiểu
về các dân tộc sống xung quanh cũng như người Ba Na; các miêu tả, nhận xét, bản đồ
trong công trình này thực sự có giá trị cho sự tham khảo ngày nay.
Tiếp đến là linh mục Jean-Baptiste Guerlach với các công trình đáng chú ý như
Vùng người Bahnar hoang dã (Chez les sauvages Bahnars) viết năm 1884, Phong
tục mê tín của người Bahnar hoang dã (Mœurs et superstitions des sauvages
Bahnars) viết năm 1887, Kết hôn và lễ cưới của người Bahnar (Mariages et
cérémonies des noces chez les Bahnars) viết năm 1901, Tang lễ của người Bahnar
(Funérailles chez les Bahnars) viết năm 1903…[43].
Đến những thập niên đầu thế kỷ XX, xuất hiện thêm một số ấn phẩm trong đó có
đề cập đến tín ngưỡng của người Ba Na. Năm 1909, nhà truyền giáo M.J.Kemlin công
bố chuyên khảo: “Những lễ thức nông nghiệp của người Reungao” (Les rites agraires
des Reungao) [58] đăng trên tập san của Viện Viễn Đông Bác Cổ, trong đó, ngoài việc
giới thiệu khái quát tình hình văn hoá - xã hội của tộc người bản địa, ông còn đặc biệt
chú ý đến phong tục tập quán liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp của nhóm người Ba
Na Rơ ngao vùng Kon Tum như lễ vật dâng cúng, những lời khấn, những kiêng kị, bói
toán, trình tự tiến hành các nghi lễ trong lễ thức nương rẫy
Năm 1910, một công trình khác có tên: “Những giấc mộng và việc giải thích
những giấc mộng của người Reungao” (Les Songes et leur interpretation chez les
Reungao) [59] của ông được công bố. Trong công trình này, ông lí giải nguyên nhân mà
người Ba Na tin vào giấc mơ như sau:
“Iôn kô” hay “iôn tau” là “từ bên nầy” cũng như “từ bên kia” mà chính hồn
thấy, và hành động trực tiếp hoặc gián tiếp qua thân xác. Như vậy có những
lý do để tin vào hiện thực của giấc chiêm bao của chúng ta, cũng như có
những lý do để tin vào tính khách quan của điều ta thấy, nghe và hành động
trong trạng thái thức vậy Tuy nhiên, chúng ta cũng lưu ý là nền tảng của
lòng tin này còn sâu xa hơn, và được đặt trên quan niệm ‘lấy cái tôi làm
chuẩn’, mà người thượng gán cho vũ trụ. Khi thấy vô số sự bất bình đẳng và
những chuyện kỳ quặc của thiên nhiên làm cho họ không giải thích nổi, tự
10
nhiên họ đâm ra tưởng tượng nguyên nhân của chúng nằm trong biện chứng
nội tại nơi từng sự vật, một sự xung đột biến đổi từng ngày và từng hoàn
cảnh, như tính khí của người vậy. Nói tắt, họ đã thấy trong mọi vật thể một
chủ thể được sinh động như họ và có cùng đam mê như họ [59, tr. 17].
Và những giấc mơ luôn khiến các nhóm người Ba Na thật sự quan tâm khi nó
liên quan đến lúa, buôn bán, câu cá và săn bắn, một ngôi làng hay một ngôi nhà, đánh
trận, bệnh tật và tử vong, đám cưới.
Đến công trình “Tục kết thân của người Rơngao” (Alliances chez les Reungao)
[60] viết năm 1917, ông lại nhấn mạnh thêm cơ sở cho tín ngưỡng của người Ba Na:
Nói cách khác, tất cả mọi vật đều có nguyên lý sống động và tác động đối
với thế giới con người. Cái nguyên lý đó là “hồn” được người Bahnar gọi
là “pơhngol” hay “pơngol”. Sức lực của nguyên lý sống động đó được gọi
là “ai”. “Ai” của con người có tác động ảnh hưởng trên con vật và đồ vật,
và ngược lại. “Ai ” của con vật hoặc đồ vật hợp với “ai” của người nào đó,
mọi sự đều tốt đẹp; mà ngược lại sẽ đổ vỡ, bất thành, là không ích lợi. Với
quan niệm đó, việc đặt tên buôn làng rất quan trọng để cho có sự hòa hợp
giữa các “ai” với nhau, nghĩa là giữa các hồn với nhau.
Mặt khác, cũng theo quan niệm của người dân tộc, một người giàu có, một
người tài giỏi, một người đứng đầu, một thủ lãnh, ông vua chẳng những có
một “mơhol” chính, mà còn nhiều “mơhol” phụ, tự như đoàn quân gìn giữ
nhà cửa tài sản. Hồn của họ sau khi ra khỏi thân xác có thể thành một loại
thần, dân làng có thể kêu khấn, trong khi đó, hồn của thứ dân xuống
“mang lung” (Âm ti). Do đó, người dân tộc thường đặt tên làng theo tên
người lập làng cũng là việc thích hợp và hữu ích để “ai” của ông giúp dân
làng do ông đã vất vả xây dựng. [60, tập X, số 3].
Ở công trình này, ông cũng đã dụng công miêu tả khá kĩ các lễ thức trong nghi lễ
kết nghĩa liên minh của tộc người này. Đây có thể xem là những công trình có giá trị tư
liệu tham khảo, đặt nền móng cho việc nghiên cứu chuyên sâu về tín ngưỡng và tộc
người trên vùng đất Tây Nguyên.
Cùng với M.J.Kemlin, H.Maitre cũng cho công bố các công trình của mình như:
Khu vực của người Mọi ở Nam Đông Dương - Cao nguyên Đắc Lắc năm 1909. Đến năm
11
1912, H.Maitre lại cho ra đời cuốn sách khá dày dặn, công phu mang tên Rú Mọi, ở đây
ông cũng đã cho công bố những tư liệu mới nói về một số tộc người nói ngôn ngữ Môn
– Khơ me ở Bắc Tây Nguyên cũng như phản ánh đời sống của cư dân nơi đây. Tuy có
đề cập ít nhiều đến tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc trên vùng đất cao nguyên này
nhưng H. Maitre lại không có những phân tích về niềm tin tôn giáo của người Tây
Nguyên. Cuốn sách của Henri Maitre cho chúng ta một hiểu biết sâu sắc về một thời đại
đặt ra nhiều câu hỏi và những câu trả lời đã dần trở thành hiện thực. Với ý nghĩa rằng
mỗi cuốn sách không chỉ nói về quá khứ mà còn nói với tương lai, “Les jungles Moi -
Rừng người Thượng” thực sự là một công trình ghi dấu cho núi rừng, con người và nền
văn minh vùng Trường Sơn Tây Nguyên. Năm 2008, công trình này được Viện Viễn
Đông Bác Cổ, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và NXB Tri Thức công bố bản dịch ra
tiếng Việt của Lưu Đình Tuấn với tựa đề Rừng người Thượng - vùng rừng núi cao
nguyên miền Trung Việt Nam [65].
Trong những người thuộc thế hệ nghiên cứu sau chiến tranh thế giới thứ hai phải kể đến
Jacques Dournes mà Dam Bo chính là bút danh của ông, một trong những nhà Tây Nguyên
học say mê nhất và nổi tiếng nhất. Ông sống ở Tây Nguyên gần suốt ba mươi năm, am hiểu
sâu sắc hàng chục dân tộc thiểu số ở đây, nói thành thạo ngôn ngữ của họ, và đã viết hàng chục
công trình có thể coi thuộc số những công trình nghiên cứu cơ bản nhất về Tây Nguyên cho
đến ngày nay. Trong số đó có những công trình được coi gần như là “kinh điển” trong khoa
nghiên cứu về Tây Nguyên, như các cuốn Pơ tao, một lý thuyết về quyền lực ở người Giarai
Đông Dương [27], Rừng, Đàn bà, Điên loạn - hành trình qua miền mơ tưởng Giarai (1950)
[25], Miền đất huyền ảo – các dân tộc miền núi Nam Đông Dương (1950) [26]
Tác phẩm của Dam Bo không chỉ cung cấp những tư liệu quý giá mà hơn thế rất
nhiều, một số vấn đề cơ bản tác giả đặt ra về sự phát triển của xã hội và về số phận con
người ở đây vẫn còn nóng hổi tính cập nhật. Về một phương diện nào đó, công trình
nghiên cứu công phu và đầy nhiệt tâm này đã vượt qua được sự thử thách của thời gian,
và không hề lạc hậu. Chẳng hạn như công trình Miền đất huyền ảo, ông đã phản ánh
cuộc sống hiện thực lẫn huyền thoại hoang dã của những người miền núi, trong đó có
người Ba Na, bằng một quan niệm mang tính vũ trụ quan đầy siêu hình. Miền đất huyền
ảo tái hiện diện mạo của người Tây Nguyên với những nét phác về “Người Xơ đăng ra
12
trận”, “Đời sống của người Ba Na”; “Kết ước liên minh của người Rơ ngao”; “Người
Stiêng đi săn”… đầy tính khoa học và bay bổng văn chương của ông.
Đặc biệt về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Jacques Dournes có một cái nhìn bao
dung đối với tín ngưỡng của những người mà người Kitô giáo cho là “ngoại đạo” (les
paiens). Một câu nói của ông đối với cư dân Tây Nguyên “Chúa yêu những người ngoại
đạo” (Dieu aime les paiens), sau này trở thành nhan đề của một cuốn sách ông viết về
thần học và dân tộc học.
Đến những năm 40, 50 của thế kỷ XX, tín ngưỡng của người Tây Nguyên nói
chung và người Ba Na nói riêng được các học giả Pháp chú tâm nghiên cứu sâu hơn, nhất
là Paul Guilleminet với nhiều công trình có giá trị. P. Guilleminet đã viết bài đầu tiên về
người Ba Na năm 1938, sau cuốn Mọi Kontum của hai tác giả người Việt Nguyễn Kinh
Chi, Nguyễn Đổng Chi một năm. Năm 1942, ông cho ra đời cuốn sách: Nghiên cứu về
những tín ngưỡng của các bộ lạc vùng cao An nam, người Bâhnar Kon Tum và những
người láng giềng của họ, những thuật bí. Đến năm 1948, công trình: Bộ lạc Bâhnar ở
Kon Tum (Le tribu Bahnar du Kontum) [46] được công bố và có thể xem đây như công
trình đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu tộc người, có một giá trị khoa học nhất định khi tìm
hiểu tất cả những vấn đề về văn hoá, kinh tế, xã hội của tộc người Ba Na trong đó có đề
cập đến nội dung quan trọng là tín ngưỡng của người Ba Na, những quan niệm về thần
linh, linh hồn, những kiêng kị, điềm báo, giấc mơ, sự phân tầng thế giới Năm 1952, công
trình Tập quán của bộ tộc Bahnar, Sedang và Djara của tỉnh Kontum được áp dụng tại
tòa án của tỉnh từ năm 1908 đến năm 1939 (Coutumier de la tribu bahnar, de Sedang et
des Djarai de la province de Kontum selon la coutume appliquée dans les tribunaux de
cette province de 1908 à 1939) [47] được công bố. Cùng với đó là hàng loạt các công
trình: “Ghi chép về tục thờ cúng chó và các súc vật trong xã hội người Mọi Kon Tum”,
“Lễ tế trâu của người Bahnar tỉnh Kon Tum”, “ Hiện tượng bán ra trong xã hội người
Bahnar”, “Nghề săn bắn của người Bahnar”, “Cái chết và sự chôn cất trong xã hội người
Bahnar”
Tiếp đến, Sion John viết công trình “Người Bahnar Jolong của tỉnh Kon Tum”
(Les Bahnars Jolongs de la province de Kontum) [57], in tại Sài Gòn vào năm 1949.
Mỗi công trình có những chính kiến khác nhau, và chủ yếu còn dừng lại ở việc
mô tả dân tộc học nhưng có thể thấy các học giả Pháp đã để lại cho chúng ta nhiều tư
13
liệu quí giá; hơn nữa nhiều vấn đề về tín ngưỡng và sự phát triển xã hội và con người
nơi đây có thể nói vẫn còn nóng hổi tính tư liệu, tính cập nhật trong mỗi công trình.
Mặc dù mới chỉ là những nghiên cứu đầu tiên, nhưng các công trình của các tác
giả người Pháp có giá trị về mảng văn hóa phi vật thể, trong đó có tôn giáo, tín ngưỡng,
phong tục tập quán của cộng đồng người Ba Na nói riêng, các dân tộc khác trên vùng
Tây Nguyên nói chung. Những công trình nghiên cứu này đa phần được nghiên cứu theo
phương pháp dân tộc chí, là những tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu so sánh phong
tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của người Ba Na với các tộc người khác ở mảnh đất
cao nguyên này từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Về những hạn chế của các công trình do các tác giả phương Tây nghiên cứu về
phong tục tập quán, tín ngưỡng Ba Na chúng tôi đồng ý với Vương Hoàng Trù rằng:
“Các tác giả nước ngoài và chủ yếu là các học giả phương Tây, khi nghiên cứu về các
tộc người ở phương Đông thì dưới con mắt của họ đây là những cư dân còn lạc hậu cần
được khai hóa” [88, tr. 18]. Nguyên nhân của những hạn chế đó chủ yếu là do quan niệm
coi phương Tây là trung tâm, coi văn hóa các nước thuộc địa là thấp kém, chưa văn
minh, cần khai hóa. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc một số nhà nghiên cứu
coi những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng của các dân tộc ở Tây Nguyên,
trong đó có người Ba Na là “mê tín dị đoan”, là “rất khó hiểu”. Không thể không nói tới
mục đích chính trị của một số công trình do các học giả Pháp viết về Tây Nguyên.
Truyền giáo, nghiên cứu phong tục tập quán để tìm ra phương cách bình định và cai trị
phù hợp, sau đó là quân sự và bình định của quân đội vốn là lộ trình quen thuộc với các
nước chậm phát triển trong thế kỷ XIX.
Bên cạnh các công trình của các học giả người Pháp còn có một số công trình
nghiên cứu về Tây Nguyên của các học giả Mỹ. Những tác giả người Mỹ bắt đầu quan
tâm đến các dân tộc ở vùng Trường Sơn- Tây Nguyên từ cuối thập niên 1950.
Gerald. C. Hickey đến Tây Nguyên lần đầu tiên vào năm 1956. G.C. Hickey và
những nhà nghiên cứu làm việc cho Viện Ngôn ngữ học Mùa hè (Summer Institute of
Linguistics) là những học giả người Mỹ có nhiều công trình nghiên cứu nhất về dân tộc
vùng Trường Sơn- Tây Nguyên, trong đó có người Ba Na. Năm 1964 công trình The
major ethnic groups of the south vietnamese highland (Các nhóm thiểu số ở Nam Việt
Nam) [44] của G. C. Hickey được công bố gồm hai phần. Phần một: “Nền tảng chung của
14
đồng bào vùng cao và mô hình của cuộc sống của họ” với “Nguồn gốc và đặc điểm của
văn hóa”, “Hoạt động kinh tế”, “Tổ chức chính trị - xã hội”, “Tôn giáo”, “Sự giao tiếp với
bên ngoài”. Phần hai: “Lịch sử vùng đất và những tính năng đặc trưng của các nhóm tộc
người chính” với “Những phác thảo ngắn gọn về lịch sử”, “Những liên minh” và sáu
nhóm chính mà công trình đề cập gồm: Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Mnông, Stiêng, Xê Đăng.
Trong nghiên cứu về tín ngưỡng của người Ba Na, công trình có đề cập đến những kiêng
kị của người Ba Na trong cuộc sống, quan niệm của họ về linh hồn, về thế giới thần linh
và siêu nhiên, về vai trò của các thầy cúng…
Năm 1966, công trình Các nhóm thiểu số ở Việt Nam Cộng hòa (Minority groups
in the Republic of Vietnam) [71] của Joann L. Schrock và các tác giả khác, do Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ xuất bản dày trên 1.000 trang là một tập nghiên cứu tổng hợp
Ethnographic Study Serries về các tộc người ở Tây Nguyên mà tư liệu dựa trên những
công trình của các học giả người Pháp. Công trình gồm 2 phần. Phần 1 tìm hiểu về “Các
bộ tộc” gồm 18 dân tộc: Ba Na, Bru, Cua, Halang, Mạ, Hre, Koho, Katu, Jarai, Ê đê,
Hroi, Jeh, Mnong, Mường, Raglai, Rơ ngao, Sê đăng, Stieng. Phần 2 tập trung nghiên
cứu “Các nhóm thiểu số khác” với các nhóm Bình Xuyên, Cao Đài, Chăm, Hoa, Hòa
Hảo, Khmer, Ấn Độ và Pakistan. Công trình đã có cách lí giải khá tổng quát về văn hóa
của người Ba Na trên các bình diện như: lịch sử hình thành tộc người, cách thức định cư,
đặc điểm hình thể, cách thức chăm sóc sức khỏe, tổ chức xã hội, phong tục tập quán, tôn
giáo và tín ngưỡng
Qua tiếp cận những nguồn tư liệu này, chúng tôi nhận thấy rằng nhìn chung các
nghiên cứu của các tác giả người Mĩ kế thừa khá nhiều từ các học giả Pháp, và cho đến
nay những tài liệu này vẫn có giá trị tham khảo nhất định, nhất là những tư liệu về bản đồ
để các nhà nghiên cứu sau này có cơ sở đối chiếu.
1.1.1.2. Các nghiên cứu của tác giả Việt Nam
Những bài viết, những công trình nghiên cứu đầu tiên có liên quan đến đề tài này
là những dòng biên niên sử của các triều đại phong kiến Việt Nam và ghi chép của các
quan lại phong kiến Việt Nam trong các sách sử biên niên từ thế kỷ XVI – XVIII. Dưới
thời nhà Nguyễn, do yêu cầu thiết lập quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa triều đình với cao
nguyên phía Tây mà thông tin về vùng đất Gia Lai, trong đó có thông tin về tín ngưỡng
cổ truyền được các nhà viết sử đặc biệt quan tâm và ghi chép ngày càng chi tiết trong
15
Đại Nam thực lục, Đại Nam chính biên liệt truyện, Phủ Man tạp lục, Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ… Tuy nhiên những công trình này ghi chép về Gia Lai, về tín
ngưỡng của cư dân bản địa Ba Na còn rất mờ nhạt.
Công trình nghiên cứu của người Việt về người Ba Na phải kể đến “Kon Tum tỉnh
chí” [15], [16] của Võ Chuẩn (vị Quản đạo của đạo Kon Tum ở thập niên 30 của thế kỷ
XX) in trên tạp chí Nam Phong từ số 191 (1933) đến số 195 (năm 1934). Tác giả không
chỉ cung cấp cho các nhà nghiên cứu những tư liệu quan trọng về điều kiện tự nhiên, dân
cư và kinh tế của khu vực bắc Tây Nguyên vào nửa đầu thế kỉ XX mà còn cung cấp một
số tư liệu đáng tin cậy về người Ba Na. Tuy nhiên công trình cũng không ghi chép nhiều
về các lễ thức cũng như tín ngưỡng của người Ba Na.
Mọi Kon Tum [13] của hai tác giả Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi ra đời năm
1937, là một công trình nghiên cứu dân tộc học về cư dân người Ba Na ở Kon Tum. Với
hơn 150 trang, Mọi Kontum gồm hai phần chính: Tỉnh Kontum: (Địa dư; Nhân dân; Thành
phố; Chánh trị; Kinh tế) và Phong tục Mọi Bahnar: (Thân thể, tâm tình; Triết lý tín ngưỡng;
Thiên văn địa lý; Hương thôn giao tế; Gia tộc; Sinh tử, giá thú; Sĩ, nông, công, thương; Du
hí, mỹ thuật; Tục ngữ Bahnar; Câu đố Bahnar; Chuyện đời xưa Bahnar). Công trình có
phần bàn về “triết lí tín ngưỡng” của người Ba Na với cách lí giải về thượng đẳng thần, hạ
đẳng thần; điềm báo; chiêm bao; vai trò của thầy cúng… trong xã hội Ba Na truyền thống.
Ngay trong cuốn sách này, dễ nhận thấy một quan điểm rất tiến bộ trong cách nhìn về
“người khác” - phủ định quan điểm kỳ thị khá phổ biến thời bấy giờ coi người Ba Na nói
riêng, các dân tộc thiểu số nói chung là mọi rợ. Hai tác giả cuốn sách có một thái độ đầy
tôn trọng với đối tượng nghiên cứu: “Tục lệ của họ chẳng những không mọi rợ chút nào
mà trái lại có nhiều điều thuần túy hơn ta kia!”. Bên cạnh đó, hai tác giả cũng đã có sự đi
sâu lý giải quan niệm sống chết, thế giới tâm linh vừa mang nét nguyên thủy vừa khởi
phát từ những triết lý sâu xa của người Ba Na. Ví dụ: Người Ba Na coi sống là sự kết
hợp của xác (akâu) và hồn (pơhngol), họ tin vào số mệnh như người Việt - sinh ký tử
quy - chết là “đội lốt đi sinh hoạt ở một thế giới khác” [13, tr. 168]. Hay nhận định rằng
hệ thống thần linh (yang) của người Ba Na cũng phong phú, là hiện thân của những biểu
tượng tự nhiên (mặt trời, mặt trăng, sao, sấm sét, voi, cây, núi, lúa, nước, cọp, ghè ), cho
thấy một đời sống văn hóa, con người gắn với thiên nhiên - sống trong thiên nhiên một cách
hòa bình.
16
Những ghi chép cẩn trọng, có kiểm chứng, sự cần mẫn, tỉ mỉ và rất khoa học của
hai tác giả đã làm nên một công trình nghiên cứu hết sức giá trị, được coi là kho tri thức
về lịch sử Kon Tum và văn hóa của người Ba Na.
Từ năm 1955 đến 1975, có một số tác giả người Việt nghiên cứu về người Ba Na
như Lưu Danh Du với bài “Tết của đồng bào Thượng nam cao nguyên” [29] đăng trên
báo Chấn hưng kinh tế số 51 – 52 năm 1957.
Nghiêm Thẩm ở trong tác phẩm “Tìm hiểu đồng bào Thượng” (1961) [78], đã đề
cập đến đời sống của đồng bào Gia Rai, Ba Na và Xơ Đăng nói chung và đã dành một
phần điểm qua phong tục của người Ba Na, cụ thể là việc dựng nhà, ăn, mặc, ở….
Lê Thị Ngọc Ái trong Một số nét về xã hội người Bana [2] đăng trên tạp chí
NCLS số 21-22 năm 1969 đã khái quát diện mạo xã hội người Ba Na, trong đó có tín
ngưỡng của họ.
Bên cạnh đó còn phải kể đến cuốn: Đồng bào các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam
[19] của Nguyễn Trắc Dĩ xuất bản năm 1970, trong đó ông có nói đến lịch sử của tộc
người Ba Na như sau:
Trong lịch sử lãnh địa của sắc tộc này (chỉ người Ba Na) trên toàn tỉnh
Plâyku, Phú Bổn, một phần của tỉnh Phú Yên, Bình Định. Vào cuối thế kỷ
XVIII sang thế kỷ XIX có những cuộc chinh chiến giữa các sắc tộc Bana,
Jarai, Sêđăng. Người Bana phía Bắc bị người Sêđăng phá phách, phía Nam
bị người Jarai-Hơdrong đánh phá thường xuyên, nhất là những làng gần
biên giới. Bởi vậy đến cuối thế kỷ XIX khu vực của người Bana cứ bị thu
hẹp lại [ 19, tr. 38].
Cao nguyên miền Thượng [3] của Toan Ánh và Cửu Long Giang viết năm 1974
chủ yếu đi vào khảo tả một cách sơ lược địa vực cư trú, gốc tích, hình dáng, tính tình, ăn
uống, y phục, trang sức, nếp sống cá nhân, đời sống xã hội, đời sống tinh thần của các
tộc người Gia Rai, Ba Na và Xơ Đăng chứ chưa phải là những công trình chuyên khảo,
nghiên cứu chuyên sâu về tín ngưỡng.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về người Ba Na và văn hóa Ba Na thời
gian này không nhiều nhưng trong một chừng mực nhất định, đã có những đóng góp quý
báu vào kho tàng tư liệu khoa học. Hạn chế của những công trình này là ít có tính mới,
chưa có những chuyên luận chuyên sâu về từng lĩnh vực. Một số công trình, bài báo còn
17
mang tính miêu tả, khái quát, chưa có sự so sánh, đúc kết, chưa bóc tách, giải mã các
hiện tượng văn hóa theo lịch đại và đồng đại trong không gian văn hóa Việt Nam và văn
hóa Đông Nam Á. Cũng như các công trình của các học giả người Mĩ, các công trình
của người Việt Nam trong thời kỳ này phần nhiều dựa trên cơ sở tài liệu do các học giả
người Pháp để lại.
Từ sau năm 1975 đến nay, với chủ trương của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh
nghiên cứu cộng đồng các dân tộc và văn hóa Tây Nguyên, việc nghiên cứu văn hóa các
dân tộc Tây Nguyên nói chung, văn hóa Ba Na nói riêng được các nhà khoa học Việt
Nam chú ý đến nhiều hơn.
Theo trình tự thời gian có thể kể tên các công trình của các nhà nghiên cứu như
Trần Mạnh Cát viết “Những nghi lễ có liên quan tới cây lúa của đồng bào các dân tộc
tỉnh Gia Lai - Kon Tum” [10] đăng trên tạp chí Dân tộc học số 3 năm 1979.
Công trình Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Công Tum [95] của Đặng Nghiêm Vạn công
bố năm 1981. Công trình mô tả lần lượt về sáu tộc người bản địa: Gia Rai, Xơ Đăng, Giẻ-
Triêng, Ba Na, Brâu và Rơ Măm. Mỗi tộc người được giới thiệu riêng thành một chuyên
khảo, về nhiều khía cạnh khác nhau: từ tộc danh và các nhóm địa phương đến sự phân bố
địa bàn cư trú; từ các hoạt động mưu sinh, đời sống vật chất, đến quan hệ xã hội, dòng họ
và gia đình; từ tập tục trong chu kỳ đời người đến sinh hoạt tín ngưỡng – tôn giáo. Tư liệu
về cuộc sống và văn hoá của mỗi tộc người được các tác giả sưu tầm chủ yếu qua những
chuyến đi nghiên cứu điền dã tại nhiều làng. Mặc dầu có đề cập đến tín ngưỡng của người
Ba Na nhưng nhóm tác giả cũng chỉ mới khái quát mà chưa đi vào tìm hiểu cụ thể, cặn kẽ
hệ thống tín ngưỡng truyền thống như một thành tố của văn hoá tộc người.
Năm 1984, cuốn sách “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” (các tỉnh phía Nam) [39]
của Bế Viết Đẳng được xuất bản, giới thiệu tổng quan về các dân tộc phía Nam Tổ quốc,
trong đó có dân tộc Ba Na với vài nét chấm phá về tôn giáo, tín ngưỡng.
Năm 1986, Trần Từ viết công trình Hoa văn các dân tộc Giarai, Bana [93] đã đề
cập khái quát một vài nét về nếp sống tôn giáo của người Ba Na khi đề cập đến quan
niệm về thần linh, sự phân tầng thế giới trong đó khẳng định:
Độc đáo nhất là thế giới dành cho người chết”, “đấy là thế giới không khác
mấy so với thế giới của người sống, tuy đối lập với nó chủ yếu về phương
hướng: nơi chôn người chết của làng thường là một cánh rừng thưa về phía
18
Tây của khu người sống cư trú; dưới đất người chết được đặt nằm dài trên
một trục Đông - Tây, chân hướng về phía mặt trời lặn [ 93, tr. 35].
Năm 1991, Ngô Vĩnh Bình có công trình “Mẹ lúa - đấng tối cao trên cao nguyên
miền thượng” [7] đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 21 – 22 cho biết đồng bào
miền Tây Nguyên coi hạt lúa là một vị thần linh thiêng, mẹ lúa gắn liền với những nghi
lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp.
Nguyễn Khắc Tụng với công trình Nhà rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên [91]
năm 1991. Thông qua những nghi lễ, kiêng cữ liên quan đến xây dựng nhà rông, tác giả
phần nào nói lên được tín ngưỡng của người Ba Na.
Lê Trung Vũ, Lưu Hiếu Khanh, Nguyễn Hồng Dương, Lưu Kiếm Thanh năm
1996 viết công trình Nghi lễ đời người [99] đã tập trung khảo tả nghi lễ đời người các
dân tộc ở Việt Nam nói chung, trong đó có điểm qua lễ cưới, tang ma của người Ba Na
dưới góc độ giới thiệu sơ lược.
Năm 2000, tác giả Phạm Minh Thảo cho công bố công trình Lễ tục vòng đời [77]
có nhắc đến một số phong tục nghi lễ vòng đời người tản mạn của các dân tộc ở Việt
Nam, trong đó có của người Ba Na nhưng chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu.
Đáng chú ý là loạt bài về nương rẫy và ruộng nước của người Ba Na của tác giả
Bùi Minh Đạo đã góp phần nghiên cứu một cách tương đối hệ thống về nông nghiệp
nương rẫy cũng như tín ngưỡng liên quan đến kinh tế nương rẫy truyền thống của tộc
người này, từ đó tác giả đã đưa ra những cơ sở cho việc hoạch định và phát triển bền
vững kinh tế xã hội Tây Nguyên. Cùng với đó là công trình sách Trồng trọt truyền thống
của các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên [36] xuất bản năm 2000 của tác giả trên với việc
giới thiệu ban đầu hoạt động trồng trọt lễ của các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên,
trong đó đề cập một số lễ thức nông nghiệp đã góp phần làm sáng tỏ thêm tín ngưỡng đa
thần và tín ngưỡng nông nghiệp Tây Nguyên nói chung, Ba Na nói riêng.
Năm 2006, công trình Dân tộc Ba Na ở Việt Nam [38] của tác giả Bùi Minh Đạo
ra đời, đây được xem là công trình khái quát khá đầy đủ diện mạo văn hóa của người Ba
Na từ đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tổ chức xã hội cũng như tìm hiểu về tín
ngưỡng của tộc người này. Công trình đã có sự lí giải quan niệm về thế giới, tín ngưỡng
đa thần của người Ba Na với những điềm báo từ giấc mơ, những kiêng kị, các lễ thức
19
nông nghiệp và vòng đời người Có thể xem đây là công trình có giá trị khi muốn tìm
hiểu, nghiên cứu về người Ba Na ở Việt Nam.
Cùng với các công trình nghiên cứu về người Ba Na của các nhà khoa học đầu
ngành, tác giả luận án này cũng tiếp cận mảng tín ngưỡng của người Ba Na qua những nét
phác về nghi lễ như: “Nghi lễ nông nghiệp truyền thống của người Ba Na (qua nghiên cứu
trường hợp làng Kon Jơdri, xã Đăk Rơ Wa, thị xã Kon Tum)”; “Quan niệm về thần linh
của người Ba Na”; “Vài nét về tín ngưỡng của người Ba Na”; “Tâm thức rừng của người
Tây Nguyên”; “Giấc mơ và việc giải mã những giấc mơ của người Ba Na”; “Pơ jâu trong
xã hội người Ba Na”…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tín ngưỡng của người Ba Na huyện Kông Chro,
tỉnh Gia Lai
Nhìn tổng quát, có thể nói cho đến nay tín ngưỡng của người Ba Na huyện Kông
Chro tỉnh Gia Lai chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Có chăng là “sự đặt nền
móng”, khởi phát của các công trình như:
Cuốn sách Fônclo Bâhnar [76] xuất bản năm 1988 do Tô Ngọc Thanh chủ biên
đã chọn một địa điểm nghiên cứu cụ thể - vùng An Khê cũ (tỉnh Gia Lai) và tộc người
Ba Na. Thông qua việc tìm hiểu sâu về folklore tại hai địa phương (xã Nam và xã Yama,
nay thuộc huyện Kông Chro), công trình đã chia thành 5 chương. Tuy nhiên nghiên cứu
sâu về tín ngưỡng của người Ba Na lại chưa được nhóm tác giả thật sự quan tâm mà chỉ
đưa ra những nét khái quát, phác họa về vũ trụ quan, nhân sinh quan, thế giới quan như
là đặc điểm tư duy nhận thức để làm nên lễ hội truyền thống của tộc người nơi đây.
Cuốn sách “Nhà mồ và tượng nhà mồ Giarai, Bơhnar” công bố năm 1993 và “Lễ
hội bỏ mả các dân tộc Bắc Tây Nguyên – (dân tộc Gia Rai – Ba Na)” [23] công bố năm
1995 của tác giả Ngô Văn Doanh đã giới thiệu tổng quát về người Ba Na, địa vực cư trú
và khảo tả rất chi tiết về lễ bỏ mả của nhóm người Ba Na Tơ Lô, Ba Na Kon Kơ Deh, Ba
Na Roh là ba nhóm Ba Na chính thuộc huyện Kông Chro (tỉnh Gia Lai).
Công trình “Bơ thi: Cái chết được hồi sinh” [24] công bố năm 2007 là tập hợp
tất cả các nghiên cứu của Ngô Văn Doanh trong nhiều năm qua về lễ bỏ mả, nhà mồ và
tượng nhà mồ của hai dân tộc Gia rai và Ba Na. Tác giả đánh giá lễ hội bỏ mả của người
Giarai và Ba Na cũng như của một số tộc người khác ở Tây Nguyên là “một trong những
sắc thái văn hóa độc đáo nhất của cả vùng cao nguyên hùng vĩ của đất nước”.
20
Nguyễn Thị Thu Loan năm 2002 cho công bố công trình “Những lễ hội liên quan
đến sản xuất nông nghiệp của tộc người Bahnar ở tỉnh Gia Lai” [63] có cái nhìn khái
quát về người Ba Na ở góc độ lễ hội nông nghiệp. Công trình nêu khái quát về tộc người
Ba Na ở Gia Lai trên các khía cạnh: dân cư, điều kiện tự nhiên, đặc điểm văn hoá xã hội.
Hệ thống hoá cơ bản về lễ, lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp của người Ba Na ở
Gia Lai, những biến động của nó trong quá trình phát triển của lịch sử, nêu xu hướng
phát triển của những lễ hội này trong tương lai và bước đầu đề xuất một số ý kiến nhằm
bảo tồn và phát huy những mặt tích cực, loại trừ dân những yếu tố tiêu cực trong lễ hội.
Năm 2011, Trần Thị Kim Vân chủ nhiệm đề tài khoa học công nghệ cấp tỉnh
“Tín ngưỡng và tôn giáo của cư dân bản địa tỉnh Gia Lai những chuyển biến và tác động
đến văn hóa – xã hội (từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nay)” [98] đã quan tâm đến tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc Ba Na qua những nghiên cứu về quan niệm của người
Ba Na về vũ trụ, hồn vía và linh hồn của tổ tiên hay những vị thần sáng tạo ra vũ trụ có
ảnh hưởng đến xã hội Ba Na Ở đây tác giả chủ yếu khảo sát tín ngưỡng của nhóm
người Ba Na ở hai huyện Kbang và Đăk Đoa, còn tín ngưỡng của người Ba Na vùng
Kông Chro chưa được nghiên cứu nhiều. Chúng tôi xem đây là nguồn tư liệu quan trọng
trong việc đối sánh những tương đồng và dị biệt trong tín ngưỡng của người Ba Na sinh
sống trên địa bàn Kông Chro với những nơi khác ở tỉnh Gia Lai.
Năm 2012, tại Viện Văn hóa Nghệ thuật, NCS Đoàn Tuấn Anh đã bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ: Nghi lễ nông nghiệp của người Ba Na (Bahnar) ở Gia Lai, đã khảo
sát hệ thống nghi lễ nông nghiệp của các nhóm người Ba Na sinh sống trên địa bàn tỉnh,
trong đó có người Ba Na ở Kông Chro. Tuy nhiên luận án mới chỉ phản ánh một mặt của
tín ngưỡng thông qua các lễ thức nông nghiệp, và việc nghiên cứu tín ngưỡng nói chung
chưa được đề cập nhiều.
Nhìn chung những nghiên cứu trên vẫn còn chưa mang tính hệ thống, chưa lý giải
căn nguyên hình thành tín ngưỡng của người Ba Na. Do vậy, chúng tôi quyết định chọn vấn
đề này để nghiên cứu một cách chuyên sâu. Với mong muốn tập trung nghiên cứu ở một
huyện cụ thể vừa để làm rõ thêm giá trị của tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của một tộc
người; vừa chỉ ra những biến đổi tự thân của nó từ truyền thống đến hiện đại với mong
muốn các cấp chính quyền địa phương, các nhà nghiên cứu, và chính đồng bào có phương
cách lưu giữ bản sắc văn hóa cộng đồng, phát huy văn hóa truyền thống và quan trọng hơn
21
là củng cố thắt chặt khối cộng đồng dân tộc trong xu thế giao lưu, hội nhập. Trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi có chọn lọc, kế thừa thành tựu nghiên cứu của những người đi trước,
đồng thời tăng cường sưu tầm tư liệu điền dã và đưa ra những tư liệu mới, những phát hiện
mới về tín ngưỡng của người Ba Na huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Những khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1.1. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là vấn đề đã và đang được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và lý giải.
Cho đến nay trong giới quản lý và nghiên cứu vẫn cho rằng tín ngưỡng là cấp độ thấp hơn
tôn giáo về mặt tổ chức, thiết chế, giáo chủ… Đây là cách hiểu về tôn giáo ở châu Âu kể
từ thời đại Khai sáng và có ảnh hưởng lớn đến nhiều công trình nghiên cứu tôn giáo, tín
ngưỡng trong nước [51, tr. 3]. Tuy nhiên, tín ngưỡng lại là một hiện tượng của văn hóa,
một thành tố cấu thành của văn hóa. Chúng ta vẫn thống nhất với nhau ở luận điểm văn
hóa chỉ có sự khác biệt, không có cái cao cái thấp, cái tiến bộ cái lạc hậu, cái hơn cái
kém. Vì vậy việc nhìn nhận tín ngưỡng như là cấp độ thấp hơn tôn giáo e chăng là sự cổ
súy cho việc phân biệt này?!
Để có thể đưa ra khái niệm nhất quán làm cơ sở cho việc lý giải tín ngưỡng của
người Ba Na, chúng tôi thấy cần phải điểm qua một số định nghĩa về tín ngưỡng như sau:
Theo Đào Duy Anh thì tín ngưỡng là “lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn
giáo hoặc một chủ nghĩa” [1, tr. 283].
Hoàng Phê thì cho rằng “tín ngưỡng là tin theo một tôn giáo nào đó” [70, tr. 994].
Còn Nguyễn Như Ý lại hiểu tín ngưỡng là “lòng tin và sự tôn thờ một tôn giáo”
tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tôn giáo [100, tr. 1646].
Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liêng
liên quan đến một thế giới vô hình, đến những siêu linh, mà chính con người tưởng tượng
và sáng tạo ra nó” [96, tr. 67].
Ở phương Tây, phổ biến thuật ngữ tôn giáo bình dân (popular religion). Thuật ngữ
đó có thể hiểu tôn giáo theo lối bình dân, nghĩa là theo tập quán, theo dư luận hoặc bị
cuốn hút vào các nghi lễ, chứ không theo lối chính thống chủ yếu xuất phát từ việc
nghiên cứu giáo lý, suy tư rồi giác ngộ mà theo. Hoặc cũng có thể hiểu là các hình thức
tôn giáo dân tộc được lưu truyền từ xa xưa, gần gũi với cộng đồng như các lễ hội, các
22
cuộc hành hương, các ngày lễ với những rước xách, nhảy múa, thậm chí các hình thức bói
toán, tướng số… Ở đó cả tầng lớp trí thức, mặc dù ít tin theo nhưng vẫn tham gia. Niềm
tin tôn giáo hay tín ngưỡng biểu hiện ở những nền văn hóa khác nhau và rất đa dạng.
E.B. Tylor cho rằng cái “tối thiểu” hoặc đơn giản nhất có thể của tôn giáo là niềm
tin vào đấng siêu nhân. Ông viết:
Cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau đều có
những nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thủy, như thể
chúng đã thực sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng trở
thành sản phẩm của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học và tồn tại như
những tàn tích của cái cũ hơn là những sản phẩm của đời sau, khi chuyển
từ sức sống đầy đủ sang trạng thái tàn tích [94, tr. 939].
James Frazer thì lại định nghĩa, tôn giáo là “sự làm nguôi ngoai hay hòa giải những
sức mạnh mạnh hơn con người mà những sức mạnh đó được tin là dẫn dắt và kiểm soát
quá trình của tự nhiên và cuộc sống con ngườì” [42, tr. 58-59]. S. Freud thì cho rằng tôn
giáo là sự thể hiện của quá trình tâm lý vô thức [51, tr. 15]. Lucien Lévy-Bruhl thì coi tôn
giáo là sản phẩm của “tâm thức nguyên thủy” [51, tr.15].
Clifford Geertz đưa một định nghĩa được phổ biến rộng rãi nhất: tôn giáo là “1) một
hệ thống biểu tượng hoạt động nhằm 2) thiết lập những tâm trạng và động cơ mạnh mẽ,
rộng khắp, và tồn tại lâu dài trong con người bằng cách 3) hình thành nên những khái niệm
về một trật tự chung của sự tồn tại và 4) khoác lên những khái niệm này bằng hào quang
của sự thật mà 5) những tâm trạng và động cơ dường như là hiện thực duy nhất” [51, tr.15].
Trong công trình “Ma thuật khoa học và tôn giáo”, B. Malinowski cho rằng tín
ngưỡng ra đời khi mà cuộc sống của con người có nhiều sự trở ngại và bất trắc. Cụ thể
hơn, ông đưa ra một ví dụ về sự tồn tại của ma thuật (tín ngưỡng) ở nghề đánh cá:
Vấn đề quan trọng nhất là ở chỗ đối với việc đánh bắt cá ở phá, khi con
người hoàn toàn dựa vào kiến thức và kĩ năng của mình, ma thuật không tồn
tại; trong khi đối với việc đánh bắt cá ngoài khơi, đầy nguy hiểm và bất trắc,
người ta sử dụng một hệ thống nghi lễ ma thuật với phạm vi rộng lớn để đảm
bảo an toàn và kết quả cao [54, tr. 159].
S.A. Tokarev cho biết:
23
Mặc dù bác bỏ luận thuyết về sự phát triển nội tại của tôn giáo, chúng tôi
vẫn không bao giờ phủ định sự tồn tại của những mối liên hệ nguồn gốc
giữa các tín ngưỡng. Chúng ta đã thấy rõ những tín ngưỡng đó có tính bảo
thủ đến mức nào. Bất kỳ một tín ngưỡng nào đã bắt rễ vững chắc cũng đều
tồn tại trong nhân dân rất lâu bền, thậm chí tồn tại ngay cả lúc những điều
kiện sản sinh ra nó đã thay đổi [87, tr. 55].
Theo ông, các hình thức tôn giáo sơ khai là: tô tem giáo, bùa mã và lễ ám hại, chữa
bệnh bằng phù phép, lễ dục tình, ma chay, lễ thành niên, sự thờ cúng của nghề săn bắt, sự
thờ cúng của thị tộc mẫu hệ, sự thờ cúng tổ tiên, shaman giáo, naguan giáo, sùng bái hội
kín, thờ cúng thủ lĩnh, thờ thần bộ lạc, thờ thần nông.
Tác giả M. Scott viết:
Chúng ta dường như có xu hướng định nghĩa hai chữ tín ngưỡng một cách
quá hạn hẹp. Ta thường chỉ coi rằng tín ngưỡng phải gắn liền với một niềm
tin nào đó vào Thượng đế, hoặc phải gắn liền với một số thực hành nghi lễ,
hoặc phải là thành viên trong một cộng đồng phụng sự [72, tr. 5].
Theo ông, tín ngưỡng còn chính là sự cảm nhận của con người về thế giới mà họ
đang sống, về cuộc sống xung quanh họ và về vị trí của bản thân họ trong thế giới đó.
Từ việc nêu ra một số định nghĩa về tín ngưỡng, tôn giáo ở trên, theo quan điểm của
chúng tôi, không có sự khác nhau của hai khái niệm này. Và ở đây chúng tôi chia sẻ quan
điểm “tín ngưỡng thực ra là tôn giáo” mà Nguyễn Quốc Tuấn đã đưa ra trong bài viết “Bàn
thêm về tín ngưỡng tôn giáo bản địa Việt Nam qua sự kiện ngày quốc lễ giỗ Tổ Hùng
Vương” [89, tr 3 - 15]. Bởi khi tìm hiểu những định nghĩa về tín ngưỡng, tôn giáo mà các
nhà nghiên cứu đưa ra, chúng tôi nhận thấy xuyên suốt trong đó là những yếu tố căn bản
cấu thành: yếu tố thiêng (thần thánh và lực lượng siêu nhiên) + đức tin + biểu tượng + thực
hành (thờ cúng, cầu khấn, lễ vật dâng cúng) + cộng đồng. Tất nhiên tùy lịch sử văn hóa, tùy
vào đời sống tâm linh, thờ phụng của mỗi cộng đồng dân tộc, quốc gia mà những yếu tố
cấu thành có thể có sự biểu hiện khác biệt đôi chút. Và chúng ta cần có sự tôn trọng với
những điểm khác biệt này. Bởi xét đến tận cùng vấn đề thì mục đích của tín ngưỡng (tôn
giáo) mà các cộng đồng thực hành chính là sự duy trì nền tảng đạo đức, luân lý; tính cố kết
cộng đồng; sự cân bằng đời sống tâm linh; sự trao truyền những giá trị của truyền thống.
24
Tín ngưỡng của người Ba Na cũng không nằm ngoài các yếu tố trên, có yếu tố
thiêng như thần linh, ma, không gian thiêng của thời điểm hành lễ, vật thiêng của các
thầy cúng; có đức tin của con người trong quá trình thực hành các lễ thức, các hành động
ma thuật hay niềm tin vào giấc mơ, thầy cúng; có những biểu tượng liên quan trực tiếp
đến đời sống tín ngưỡng như những mô tip về mặt trời, mặt trăng, cột đâm trâu, hình ảnh
các con vật…; có những hành động thực hành tín ngưỡng từ việc chuẩn bị các lễ vật, lời
khấn, hành động cúng của các già làng, thầy cúng…; có cả vai trò của cộng đồng tham
gia vào các hoạt động tín ngưỡng.
Kế thừa các quan điểm nghiên cứu về tín ngưỡng của các nhà khoa học đi trước để
vận dụng trong việc nghiên cứu tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói
chung, dân tộc Ba Na nói riêng nhằm tìm kiếm các giá trị văn hóa của tín ngưỡng, chúng
tôi đưa ra cách hiểu của mình về tín ngưỡng (tôn giáo) như sau: xét cho cùng, tín ngưỡng
là một sản phẩm sáng tạo văn hoá của cộng đồng, là di sản văn hóa phi vật thể, là văn hóa
sống được thực hành thông qua nghi lễ. Tín ngưỡng bao gồm những phương cách ứng xử
của con người đối với thế giới siêu nhiên hay xã hội có liên quan đến đời sống của mình.
Những phương cách ứng xử đó phản ánh các điều kiện vật chất và tinh thần tương ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội của một cộng đồng cư dân.
Việc chúng tôi nghiên cứu tín ngưỡng (tôn giáo) của một dân tộc trong quốc gia đa
dân tộc như Việt Nam như một cách để khẳng định những chân giá trị văn hóa, những đặc
sắc văn hóa mà dân tộc ấy đã sáng tạo qua lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của mình.
Và với tư cách là một sản phẩm văn hóa nên tín ngưỡng cần phải được nhận thức một cách
đúng đắn, có vị trí xứng đáng và là trụ cột trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Với các cư dân Tây Nguyên nói chung, người Ba Na nói riêng, chúng ta cần hiểu
rõ bối cảnh và xuất phát điểm của tín ngưỡng trong những trường hợp cụ thể bởi nếu vội
vàng quy định một tín ngưỡng nào đó là hủ tục và bỏ đi, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
các chủ thể đó, đến người dân và cộng đồng. Như vậy sẽ nguy hại cho việc bảo tồn các di
sản văn hóa phi vật thể đó. Trong lịch sử, việc quyết định bỏ một biểu hiện văn hóa bị coi
như là hủ tục đôi khi còn là quyết định mang tính chính trị, mang tính quyền lực xã hội.
Hiểu được đặc trưng riêng về tín ngưỡng của tộc người là cách để chúng ta phát
huy những giá trị nhân văn trong tín ngưỡng nhằm mục đích như Tổ chức Văn hóa, Khoa
học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã từng nói: “Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia cần
25