Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Quyền con người và thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam hiện nay (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.78 KB, 167 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trƣơng Văn Hòa

QUYỀN CON NGƢỜI VÀ THỰC THI QUYỀN CON NGƢỜI Ở
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG TẠI CÁC TỈNH TÂY BẮC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC &CNDVLS
Mã số

: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM VĂN ĐỨC

HÀ NỘI- 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các số
liệu và tư liệu trong luận án đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của
mình.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trƣơng Văn Hòa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………… ..1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI……………………………………………………………………………. . ..7
1.1. Tình hình nghiên cứu về quyền con người và thực thi quyền con người…………. ..7
1.2 . Tình hình nghiên cứu về dân tộc thiểu số và đồng bào dân tộc Mông .......................26
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON
NGƢỜI VÀ THỰC THI QUYỀN CON NGƢỜI CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU
SỐ …………………………………………………………………………………. ..35
2.1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người ....................................................................35
2.2. Một số vấn đề lý luận thực thi quyền con người………………………………… ..44
2.3. Thực thi quyền con người của các dân tộc thiểu số và dân tộc Mông ở các
tỉnh Tây Bắc……………………………………………………………………. . . 68
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỰC
THI QUYỀN CON NGƢỜI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG Ở CÁC TỈNH
TÂY BẮC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY……………………….. .. 77
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây
Bắc ...........................................................................................................................................77
3.2. Thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông tại các tỉnh Tây
Bắc trong giai đoạn hiện nay………………………………………………………… ...81
3.3. Một số thành tựu về thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở
các tỉnh Tây Bắc ....................................................................................................... 94
3. 4. Một số hạn chế trong quá trình thực thi quyền con người của đồng bào đồng
bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây BắcViệt Nam ...................................................... 102
3. 5. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc

Mông ở các tỉnh Tây BắcViệt Nam………………………………………………….. ..108


CHƢƠNG 4: PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU,
NHẰM THỰC THI TỐT HƠN QUYỀN CON NGƢỜI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC MÔNG Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY………………………………………………………………………… ..113
4.1. Phương hướng cơ bản đảm bảo thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc
Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam ......................................................................................113
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy thực thi tốt hơn quyền con người cửa
đồng bàodân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam .........................................................120
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ…………… ..151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………....152


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

Chủ nghĩa Xã hội

: CNXH

Dân tộc thiểu số

: DTTS

Đảng và Nhà nước

: Đ&NN


Đồng bào dân tộc Mông

: ĐBDTM

Liên Hợp Quốc

: LHQ

Hệ thống pháp luật

: HTPL

Quần chúng nhân dân

: QCND

Quyền con người

: QCN

Quyền Dân sự, chính trị

: QDSCT

Quyền Kinh tế, xã hội và văn

: QKTXHVH

hóa
Kinh tế, xã hội


: KTXH

Tây Bắc Việt Nam

: TBVN

Thực thi quyền con người

: TTQCN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một trong những vấn đề cơ bản của loài người, là
vấn đề được đặc biệt quan tâm của cộng đồng nhân loại. Mỗi bước phát triển của
con người đều gắn liền với cuộc đấu tranh nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội,
xây dựng và hoàn thiện các mối quan hệ xã hội của con người. Chính vì vậy, bảo
vệ và phát huy quyền con người luôn được coi là trọng tâm, là đích đến của mỗi
cuộc cách mạng. “Sự không hiểu biết, sự lãng quên hay sự coi thường quyền con
người là những nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh công cộng, của tệ
hủ bại của các chính phủ” (Lời nói đầu Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1789 của nước Pháp) [24, tr.13].
Quyền con người mặc dù đã có lịch sử phát triển lâu dài trong tư tưởng
nhân loại, tuy nhiên, do tính chất phức tạp của nó, nên vẫn đang tồn tại những quan
điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Mặc dù vậy, nhân loại tiến bộ đã đi đến
những quan điểm chung về quyền con người, đó là: Quyền con người không thể
tách rời giữa quyền cá nhân và quyền cộng đồng, giữa dân tộc và nhân loại, giữa
quyền lợi và trách nhiệm, giữa quyền dân sự chính trị với quyền kinh tế văn hóa…
Tất cả những điều đó tạo nên tính phổ biến và đặc thù của quyền con người. Việc

vận dụng và giải quyết vấn đề quyền con người trong thực tiễn, đang trở thành yêu
cầu đòi hỏi bức thiết, cần tránh xu hướng cực đoan tuyệt đối hóa theo một chiều
nhất định. Điều đó một mặt đảm bảo tuân thủ các quyền cơ bản vốn có của con
người đã được thừa nhận rộng dãi, mặt khác khi đề cập đến quyền con người, phải
xem xét đến các yếu tố lịch sử, văn hóa, điều kiện kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người, đã được
Đảng và Nhà nước khẳng định và bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật. Do tính chất
đa dạng về văn hóa và tộc người, sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, xã hội
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nên việc phát triển kinh tế, xã hội, phát huy
quyền con người trong các tộc người thiểu số, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng
vẫn tồn tại hạn chế nhất định.

1


Đồng bào người Mông sinh sống ở Tây Bắc Việt Nam, một địa bàn có vị trí
chiến lược về an ninh, quốc phòng; là tộc người có lịch sử, truyền thống, văn hóa
nhiều biến động, dễ bị tác động từ bên ngoài, nguy cơ bị tổn thương về quyền con
người cao; điều kiện mọi mặt về đời sống còn nhiều khó khăn.Việc giải quyết và
gắn kết mối quan hệ giữa quyền con người và phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an
ninh, quốc phòng trong đồng bào người Mông là mục tiêu lâu dài trong chính sách
phát triển ở nước ta, đảm bảo tính bền vững, tạo cơ sở cho xã hội phát triển hài hòa.
Nhận thức đúng đắn về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong điều
kiện hiện nay, khi sự nhạy cảm chính trị trong giải quyết vấn đề quyền con người,
đang là lý do tạo ra xung đột giữa các nước phương Tây và các nước phương Đông,
giữa các nước phát triển và các nước kém phát triển, giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ
nghĩa tư bản. Trong khi ở các nước phương Tây, các thế lực thù địch đang lợi dụng
chiêu bài dân chủ, nhân quyền để chống phá Chủ nghĩa xã hội với những học thuyết
như: “Thuyết nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “Nhân quyền không biên
giới”…Việc kích động mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, đang đe dọa đến sự ổn định

chính trị và an ninh quốc gia tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có
đồng bào Mông ở các tỉnh Tây Bắc nước ta. Chính điều đó đang đặt ra những nhiệm
vụ hết sức bức thiết trên cả lĩnh vực bảo vệ quyền con người và phát triển kinh tế,
xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc - đa tộc người (khái niệm các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam được đề cập trong công trình nghiên cứu này được hiểu là các
tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam),trình độ phát triển của các dân tộc
không đồng nhất, có những nét văn hóa riêng biệt, tạo nên sự đa dạng và nét đặc sắc
cho nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, chính điều
đó cũng đòi hỏi trong nhận thức và hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước
cần đứng trên quan điểm: Phát triển dựa trên quyền con người, nhằm phát huy
những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, đồng thời tạo ra điều
kiện thuận lợi thực hiện quyền con người một cách tốt nhất.
Đối với các dân tộc thiểu số, khi đề cập đến quyền con người, luôn được
gắn với quyền bình đẳng, quyền phát triển. Quyền con người và quyền phát triển

2


có quan hệ biện chứng, thống nhất nhau. Quyền phát triển là điều kiện tiên quyết
để quyền con người được thực hiện. Ngược lại, chỉ khi quyền con người được
tôn trọng mới có quyền tự do phát triển. Khi quyền phát triển không được đảm
bảo, là nguyên nhân phát sinh những mâu thuẫn, tạo ra các yếu tố mất ổn định
chính trị, xã hội, vi phạm đến quyền con người.
Xuất phát từ thực tế đó, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước ta, một mặt lý luận quyền con người đã được quan tâm nghiên cứu; mặc khác,
chúng ta đã tích cực chủ động trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng.Đồng
thời, quan tâm đề ra các chủ trương, xây dựng các chính sách, nhằm không ngừng
phát huy quyền con người một cách rộng rãi, đảm bảo cho nhân dân ta được hưởng
những giá trị quyền con người một cách thực tiễn hơn, phát huy tính ưu việt thuộc

về bản chất của xã hội Xã hội Chủ nghĩa mà nhân dân ta đang ra sức phấn đấu xây
dựng. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, với tính chất quá độ
của nền kinh tế mới thoát thai từ một trình độ sản xuất thấp kém, điều kiện vật chất,
tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn, các chính sách của nhà nước, tính minh
bạch về cơ chế chưa được đảm bảo, sự chênh lệch về khoảng cách phát triển giữa
các vùng miền, các dân tộc…vẫn đang tồn tại. Chính điều đó đang bị các thế lực thù
địch, phản động, lợi dụng, công kích chống phá Đảng Nhà nước ta trên lĩnh vực
quyền con người với những diễn biến phức tạp, khó lường.
Với những lý do đó, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Quyền con người
vàthực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Môngở các tỉnh Tây Bắc
Việt Namhiện nay” để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục tiêu của luận án
Nghiên cứu, làm rõ lý luận về quyền con người, lý luận thực thi quyền con
người; trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào
Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam. Đồng thời, đề ra phương hướng, giải pháp chủ
yếu, nhằm thực thi tốt hơn quyền con người của họ trong giai đoạn hiện nay.

3


2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, luận án phải giải quyết ba nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
+ Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và thực
thi quyền con người.
+ Hai là, trình bày thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc
Mông ở các tỉnh Tây Bắc từ khi Đổi mới (1986) đến nay; làm rõ những vấn đề đặt ra
trong quá trình thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông.
+ Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm thực thi tốt

hơn quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng:
+ Đề tài nghiên cứu một số lý luận về quyền con người, lý luận thực thi
quyền con người (các điều kiện đảm bảo, cơ chế bảo vệ). Nghiên cứu thực tiễn
thực thi quyền con người củađồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt
Nam hiện nay.
+ Tiếp cận nghiên cứu quyền con người của đồng bào Mông dưới góc độ
triết học, luận án tập trung luận giải các điều kiện ảnh hưởng đến quá trìnhthực thi
quyền con người của đồng bào dân tộc Môngở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, từ đó là
cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực thi tốt hơn quyền con người của
đồng bào dân tộc Mông tại đây.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn nghiên cứu: Đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ khi Đổi mới (năm 1986) đến nay.
+ Thuật ngữ Đ đồng bào dân tộc Mông trong luận án được hiểu và thống
nhất sử dụng để chỉ tộc người Mông, nhằm phân biệt thuật ngữ dân tộc với nghĩa
rộng dân tộc – quốc gia.

4


4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án đựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người.
Đặc biệt, luận án dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, những tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính sách pháp luật của Việt Nam về quyền con người
và thực tiễn thực thi quyền con người trong đời sống hiện nay ở nước ta.

4. 2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Duy vật biện
chứng, Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình nghiên cứu, thí sinh sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, trao
đổi, tọa đàm, và phương pháp chuyên gia.
- Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu liên ngành khoa học xã hội như: triết học, luật học, chính trị, tôn giáo…, nhằm
luận giải các nội dung cần quan tâm của quyền con người. Từ đó phân tích mối quan
hệ giữa quyền con người và các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống lịch
sử, luật pháp....khi áp dụng vào nghiên cứu ở một đối tượng, phạm vi cụ thể.
5. Đóng góp mới của luận án
- Về mặt lý luận, luận án đã hệ thống hóa những tư tưởng cơ bản nhất, đang
được thừa nhận phổ biến hiện nay về quyền con ngườivà thực thi quyền con người.
- Đã nghiên cứu những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề quyền con người, quyền của dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, luận án luận
giải các quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam
trong thực tiễn hiện nay.
- Về mặt phương pháp nghiên cứu, luận án đã được thực hiện dựa trên cơ sở
các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa
học xã hội như: triết học, luật học, chính trị, lịch sử và xã hội học… đã được đặc
biệt quan tâm, nhằm luận giải thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào
dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam hiện nay.

5


- Luận án đã chỉ ra thực trạng, xác định được nguyên nhân của những hạn
chế trong thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc
Việt Nam. Trong đó, nổi lên nguyên nhân hàng đầu là sự phát triển kinh tế thấp kém
về trình độ, nhỏ bé về quy mô;bên cạnh đó, nguyên nhân xã hội không kém phần

quan trọng là trình độ dân trí, nguồn lực con người của đồng bào dân tộc Mông còn
nhiều hạn chế.
- Luận án có những đóng góp nhất định, khi đề ra được một số giải pháp có
tính khả thi, nhằm thúc đẩy thực thi tốt hơn quyền con ngườicủa đồng bào dân tộc
Mông tại Tây Bắc hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận, luận án trước hết là tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy
và học tập, phổ biến thực thi quyền con người, một việc đang cần triển khai rộng rãi
nhưng còn nhiều hạn chế ở Việt Nam.
- Về thực tiễn, luận án là tài liệu tham khảo, trang bị, nâng cao nhận thức
quyền con người trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng, nhằm nâng cao điều kiện về mọi mặt cho đồng bào dân tộc
Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, tạo cơ sở thực thi tốt hơn quyền con người của
đồng bào dân tộc Mông và của các dân tộc thiểu số trong cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục tài liệu tham khảo, phụ lục và danh
mục các công trình nghiên cứu khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề
tài, luận án gồm 4 chương 11 tiết, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và thực thi quyền
con người của các dân tộc thiểu số
Chương 3: Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong thực thi quyền con người
của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 4: Phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu, nhằm bảo đảm
thực thi tốt hơn quyền con người của đồng bào Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.

6



CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu về quyền con ngƣời và thực thi quyền con ngƣời
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về quyền con người
Có thể nói, ngay từ thời cổ đại, nhân loại đã có những quan niệm sơ khai
về QCN. Từ đó đến nay, khái niệm QCN không ngừng được hoàn thiện, phát
triển, mở rộng phạm vi, cũng như có nhiều cách tiếp cận ngày càng đa dạng.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp của nó đến đời
sống của xã hội, QCN luôn là lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học. Với tính chất đa dạng, biểu hiện phong phú, các lĩnh vực quyền ngày càng phát
triển, nhận thức và TTQCN còn nhiều tranh luận. Do đó, các nghiên cứu về QCN;
một mặt, đang phản ánh sôi động những tranh luận đó; đồng thời, ngày càng không
ngừng hoàn thiện lý luận, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản mà
nhân loại đang phấn đấu đạt đến. Trong các công trình đó, khi đặt vấn đề nghiên
cứu, tác giả đã khảo sát và nhận thấy về mặt lý luận, vấn đề QCN và TTQCN ở
nước ta đã được các tác giả nghiên cứu, tổng kết và có thể khái quát trên một số
nghiên cứu đáng chú ý sau:
Cuốn “Tư tưởng về quyền con người” (2011) do Trung tâm nghiên cứu
QCN và Khoa Luật Đại học Quốc gia [27] phối hợp ấn hành, Sách “Quyền con
người” (2011) do Võ Khánh Vinh chủ biên [100]; Cuốn “Tìm hiểu vấn đề nhân
quyền trong thế giới hiện đại” (2009)của tác giả Chu Hồng Thanh [81], hay
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị” (2011)
do Võ Khánh Vinh chủ biên [102]; Cùng với đó là cuốn “Những vấn đề lý luận và
thực tiễn của nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa” (2011) của Võ Khánh Vinh
chủ biên [103]; “Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người” (2009)của
Chu Hồng Thanh[82]; “Các văn kiện quốc tế về quyền con người” (2002 )của
Trung tâm nghiên cứu quyền con người – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh [24]…

7



Những công trình nghiên cứu về QCN phản ánh đa dạng các nội dung,
nhưng có thể khái quát một số nội dung cơ bản sau:
Một là, QCN là một giá trị cao quý thể hiện các đặc tính quan trọng của
nhân cách. Trong sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, con người xác định phẩm giá,
nhân cách, địa vị, phát triển các quan hệ tập thể, cộng đồng, quốc gia dân tộc và
nhân loại.
Hai là, QCN luôn gắn bó chặt chẽ với từng con người với tư cách là một
cá nhân, lại vừa với tư cách là một thành viên trong xã hội. Vì vậy, nó vừa mang
tính tự do cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, cộng đồng, dân tộc. QCN phải
là sự cần thiết cho từng cá nhân, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, giới tính.
Đồng thời, QCN phải được pháp luật ghi nhận.
Ba là, QCN, một mặt mang tính tự nhiên, khách quan, nhưng mặt khác,
lại luôn bị chi phối bởi điều kiện KTXH và văn hóa truyền thống, do đó vừa
mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù.
Các nghiên cứu, hầu hết đều mong muốn đi tìm nguồn gốc và lịch sử phát
triển QCN, nhằm đem lại cho nhân loại những nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và
cũng để thấy được những giá trị cao quý của QCN mà nhân loại cần đấu tranh để đạt
được. Đồng thời,qua các nghiên cứu cho thấy tính phức tạp của khái niệm QCN.
Ngay từ rất sớm, trong kinh điển của các tôn giáo lớn, QCN đã được nhắc
đến và ẩn chứa trong các điều răn dạy. Mặc dù còn sơ khai, chưa thể hiện rõ
quyền bình đẳng của con người, thậm chí có sự phân biệt đẳng cấp trong những
tư tưởng đó, nhưng đã ít nhiều quan tâm đến lòng nhân ái, ước vọng về một cuộc
sống công bằng, tôn trọng sự sống, răn đe điều ác... Đó là những biểu hiện về
việc đề cao phẩm giá, nhân cách và quyền được đối xử bình đẳng của mỗi cá
nhân, là tư tưởng quan tâm đến các nhóm yếu thế trong xã hội. Điều đó thể hiện
những bước tiến lớn trong quá trình con người tìm đến và khẳng định những giá
trị QCN của mình trong lịch sử.
Không chỉ luận giải QCN trong tôn giáo, các nghiên cứu còn tìm hiểu, làm

rõ QCN trong các tư tưởng cổ đại và tiến trình phát triển cho đến ngày nay. Nếu

8


như, các tư tưởng sơ khai về QCN trong các tôn giáo mới ẩn chứa trong những răng
dạy, giáo điều, giáo lý, tư tưởng vẫn còn mang yếu tố thần linh, niềm tin tôn giáo.
Thì các nghiên cứu đều khẳng định, tư tưởng QCN chỉ thực sự được bàn đến và
xem xét cụ thể, bắt đầu trong tư tưởng của các triết gia phương Tây cổ đại.
Quyền con người trong tư tưởng các triết gia phương Tây cổ đại
Tư tưởng QCN ở phương Tây đã manh nha xuất hiện từ chế độ thị tộc,
thuộc thời cổ đại. Ở đó, nhiều nhà tư tưởng đã quan niệm QCN như là quyền tự do
bình đẳng.
Hêraclit (khoảng 530 – 470 TCN) đã cho rằng, quyền là cha đẻ của chiến
tranh và sự tất yếu, nó dường như là sự phản ánh tất yếu của luật thiên định muôn
đời. Ông nói, bất công và công bằng được hình thành bởi chính con người; bởi lẽ,
đối với trời, tất cả đều hoàn mỹ và cân bằng. Như vậy, có thể thấy ẩn chứa tư tưởng
quyền tự nhiên trong tư tưởng của Heraclit.
Zênông (khoảng 496-429 TCN) người sáng lập trường phái Khắc kỷ, đã
đưa ra tư tưởng của mình nhằm giải thích nguồn gốc, cơ sở của sự bình đẳng. Phái
Khắc kỷ đặt ngang hàng sự hợp lý và tính thần thánh, thần thánh không phải cái gì
ngoài vũ trụ, mà trái lại nó xâm nhập khắp nơi, chỗ nào có lẽ phải, chỗ đó có thần
thánh. Từ đó rút ra kết luận: Mọi người đều có lý trí, mọi người vì có phần lý trí,
nên có phần là thần thánh và vì vậy, là người thì đều bình đẳng. Rõ ràng ở đây có sự
đồng điệu với quan niệm: sở dĩ anh được coi là có quyền vì và chỉ vì anh là một
thực thể có nhân tính. Tư tưởng này về sau đã rất phổ biến trong các triết gia
phương Tây ở thế kỷ XVI, XVIII.
Sau này, đế chế La Mã đã cụ thể các quyền đó trong luật pháp. Việc xây
dựng “Luật của các dân tộc” là con đường đem lại hiệu lực cho nguyên tắc: mọi
người đều bình đẳng. Đỉnh cao đạt được vào năm 202 (sau CN), khi chỉ dụ nổi tiếng

của hoàng đế Caracalla ban bố QCN La Mã cho tất cả những người dân tự do
(không phải nô lệ) của đế quốc này. Nhưng phải đến Xpáctacút thì quyền chống áp
bức của những người nô lệ mới được bắt đầu.

9


Trong tác phẩm “Quyền con người” [96], tác giả Võ Khánh Vinh cũng đã
đề cập đến những tư tưởng QCN của Hy Lạp – La Mã cổ đại. Lúc này, QCN mang
tính giai cấp sâu sắc, chỉ có tầng lớp quý tộc trong xã hội mới có QCN, còn người
nô lệ thì không hề có chút quyền nào. Aritstoteles (384-322 TCN) cho rằng, chỉ có
những công dân (nam từ 18 tuổi trở lên) mới có quyền công dân, còn phụ nữ, trẻ
em, nô lệ ....không có QCN như những công dân khác. Platon (427-447 TCN), coi
nông dân và thợ thủ công là hạng người thấp nhất trong “nhà nước lý tưởng của
ông” [96, tr.150], “trong xã hội phải duy trì các hạng người khác nhau và do đó,
không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người được”[96, tr.192].
Đêmôcrit (460-370 TCN) là nhà triết học đầu tiên đặt ra vấn đề đấu tranh
cho dân chủ, nhưng đó chỉ là bảo vệ nền dân chủ chủ nô, còn nô lệ phải tuân thủ
theo người chủ (nghĩa là không có QCN). Trong thời kỳ này “cá nhân phải tuyệt đối
phục tùng nhà nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chưa thể có cái gọi là quyền
công dân, quyền cá nhân”[96, tr.176].
Tư tưởng quyền con người trong thời cận đại
Đến thời cận đại, tư tưởng về QCN đã được phát triển lên một bước mới.
“Học thuyết về pháp luật tự nhiên được Thomas Peine (1737-1809) và Thomas
jeffeson (1743-1826) phát triển, không chỉ hướng tư tưởng của mình vào thành lập
chế độ nhà nước dân chủ mà còn bảo vệ các quyền tự nhiên không thể tước đoạt của
con người….Theo lẽ tự nhiên, tất cả mọi người sinh ra đều tự do và độc lập như
nhau và đều có những quyền nhất định mà ở trong trạng thái xã hội và bằng một
thỏa thuận nào đó cũng không thể bị tước đoạt, đó là quyền được sống, quyền sở
hữu, quyền được mưu cầu hạnh phúc và an ninh”[27, tr.22].

Những tư tưởng đó đã được phát triển trong Tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ năm 1776: “Chúng tôi tin rằng những chân lý này là hiển nhiên, rằng mọi người
đều sinh ra bình đẳng và Đấng tạo hóa dành cho họ một số quyền không thể bị tước
đoạt, trong các quyền đó có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc” [25, tr.7].

10


Các tư tưởng về các quyền tự nhiên không thể tước đoạt của con người đã
được J.J Rousseau (1712-1778), J.Loke (1632-1704), S.L.Montesquieu (1689-1755)
phát triển trong các học tuyết của mình. Nhằm chống lại sự áp bức của giáo hội
phong kiến, chế độ chuyên chế đặc quyền của quân chủ, lần đầu tiên, một số nhà tư
tưởng của giai cấp tư sản phương Tây còn non trẻ thời kỳ này như: Hốpsơ (15881679), Loke, Spinôda (1632-1677)…đã đưa ra học thuyết nhân quyền tự nhiên trên
cơ sở học thuyết về quyền lợi tất nhiên; cho rằng, con người là đặc quyền tự nhiên,
khẳng định pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Học thuyết
này lấy việc bảo vệ con người và các đặc quyền tự nhiên của con người, chống lại
thần quyền và vương quyền. Chẳng hạn Hốpxơ khẳng định: “Sinh mạng chỉ được
bảo toàn tốt nhất trong xã hội nơi mà sự an bình lâu dài được xác lập trên nền tảng
của một khế ước cộng đồng”[83, tr.114]. J.J.Rousseau cũng cho rằng, “Không ai có
quyền thống trị đồng loại của mình”[83, tr.118].
Cách mạng tư sản Pháp (1789) đưa tới sự ra đời của Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp, đây là một thành quả to lớn của cách mạng tư sản
Pháp. Tự do, bình đẳng, bác ái chính là những mục tiêu QCN của cách mạng tư sản
Pháp được ghi trong Tuyên ngôn: “Mọi người sinh ra, sống tự do và bình đẳng về
các quyền ….”[ 24, tr.14], và trên cơ sở ấy nêu rõ các quyền dân chủ tự do, bình
đẳng của cá nhân với tư cách là con người và với tư cách là công dân.
Trong tác phẩm “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2003) của tác giả Trần Ngọc Đường [18] khi
nói về các tư tưởng QCN ở phương Tây cũng đã chỉ rõ các xu hướng xem xét QCN

như sau:
Một là, trường phái pháp luật tự nhiên như Spinôda, Lốc cơ, Can tơ (1724
– 1804) cho rằng, “QCN là đặc tính tự nhiên. Đặc quyền tự nhiên này do có pháp
luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định. Lốc cơ nêu ra và lập luận các
quyền cơ bản, tự nhiên của con người bao gồm: quyền sống, quyền tự do và quyền
có tài sản. Tư tưởng này ra đời để chống lại hai thứ quyền lực là vương quyền và
thần quyền.

11


Hai là, xem con người cũng như QCN trong tổng hòa các mối quan hệ xã
hội. QCN là một giá trị nhân loại, khái niệm QCN mang tính lịch sử, không trừu
tượng, không phải mang tính bẩm sinh vốn có. Do đó, QCN không thể ra đời
trước khi có nhà nước, nó không được đặt ra trong xã hội thị tộc khi chưa có sự
vi phạm QCN.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người
Lý luận về QCN đã có một lịch sử phát triển lâu dài; tuy nhiên, chỉ đến khi
chủ nghĩa Mác xuất hiện mới hoàn chỉnh về nội dung và ý nghĩa, QCN lúc này thực
sự mang nhiều nội dung mới, mang đầy đủ ý nghĩa và khoa học. Những nội dung
mới, những đóng góp hoàn chỉnh cho lý luận QCN đã được đúc rút chính trong quá
trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hiện
thực hóa QCN trong thực tiễn.
Trong cuộc đấu tranh đó, Mác (1818-1883) và Ăngghen (1820-1895) đã
đưa ra nhiều tư tưởng và luận điểm đặc sắc về con người, về QCN, quyền công dân.
Trong đó đặc biệt phải kể đến các luận điểm về mối quan hệ giữa con người với môi
trường khách quan và khả năng của con người có thể cải tạo môi trường xung
quanh; về sự phân cách giữa con người công dân nói chung (tức con người lý tưởng
của giai cấp tư sản) với con người cá thể (tức con người cụ thể trong xã hội tư sản),
về bản chất của con người, về bản năng phản kháng của những con người nghèo

khổ trong xã hội Tư bản Chủ nghĩa về vai trò của cách mạng và sứ mạng lịch sử của
giai cấp công nhân hiện đại.
Điều đầu tiên Mác quan tâm là, làm thế nào để giải phóng con người khỏi
những “tình cảnh không thể chấp nhận được”. Điểm xuất phát của Mác là con
người, từ lòng nhân ái thương người, vì con người (con người cụ thể con người thực
tiễn). Mục đích của Chủ nghĩa Cộng sản là đạt đến mục đích cá nhân tự do, làm cho
mọi người tự do, chừng nào còn một người không tự do, thì xã hội đó không tự do,
tự do đến từng người. Mác đã tìm ra chìa khoá để thực hiện việc giải phóng con
người, làm cho con người thoát khỏi những ảo tưởng đã cản trở con người đi đến sự

12


giải phóng đích thực của mình. Muốn giải quyết vấn đề con người, phải giải quyết
vấn đề giai cấp, phải giành được quyền lực chính trị.
Lênin (1870-1924) đã kế thừa, vận dụng, phát triển tư tưởng nhân sinh quan
Mácxít. Từ sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, đối với Lênin, muốn có tự do bình
đẳng, tính người (QCN) phải qua chính trị, qua quyền lực chính trị để giải quyết.
Nội dung cơ bản của chính trị là phản ánh những yêu cầu kinh tế. Từ đó Lênin đã
không quan niệm QCN một cách phi lịch sử, trái lại, chỉ ra những yêu cầu về
QCN không thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể: Kinh tế - chính trị - xã hội.
Quyền con người trong thế kỷ XX
Theo Magatma Gandhi (1869-1948), “Bạo lực là con đường tắt dẫn đến
thành công.....dù tôi có thể đồng cảm và ngưỡng mộ những động cơ xứng đáng, tôi
vẫn là người kiên quyết phản đối bạo lực, ngay cả khi nó phục vụ những sự nghiệp
cao thượng” [27, tr.229].
“Mọi thành viên trong xã hội đều bình đẳng – không cao không thấp. Trong
một cơ thể, cái đầu không phải vì nằm trên đỉnh mà cao, cũng cái chân, không phải
nằm tiếp đất mà thấp. Vì thế, không thể tạo ra sự bình đẳng giữa hoàng tử và nông
dân bằng cách chặt đầu hoàng tử, cũng như bản thân quá trình chặt đầu người chủ

không thể làm chủ - thợ bình đẳng” [27, tr.300]. Ở đây, rõ ràng Gandhi đã nhận ra
nguồn gốc của sự bất bình đẳng nằm ở chế độ chính trị, chế độ sở hữu, tạo nên sự
phân chia giai cấp và bất bình đẳng. Tuy nhiên, quan điểm của ông là đấu tranh phi
bạo lực để đạt đến sự bình đẳng.
Tôn Trung Sơn (1866-1924) nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc: Luận
giải về chế độ nhà nước, giai cấp, Tôn Trung Sơn đã khẳng định sự tất yếu tồn tại
của thế giới dân quyền. Tuy nhiên, lịch sử loài người trải qua những giai đoạn khác
nhau từ thời hồng hoang, người và thú tranh giành quyền sống, đến thời đại thần
quyền, con người phải đấu tranh với thiên nhiên để duy trì sự sống và đến thời đại
quân quyền, khi giới quân sự có thế lực và các nhà chính trị đã giành quyền lực
của giáo hoàng. Đến lúc này cuộc đấu tranh giữa người và trời chuyển sang cuộc
đấu tranh giữa người và người. Khi thần quyền suy yếu, quân quyền phát triển

13


cực thịnh, hoàng đế Louis XIV(1638-1715) của Pháp đã nói “Hoàng đế và quốc
gia không có gì phân biệt, ta là hoàng đế, do đó ta chính là quốc gia”. Rồi đến
thời đại dân quyền đã tới. Ông lý giải bản thân Khổng Tử (551-479 TCN) cũng
có xu hướng dân quyền khi “Khổng Tử nói “ Khi cái đạo lớn được thực hiện thì
thiên hạ là của chung” tức là ông chủ trương một thế giới đại đồng theo chế độ
dân quyền” [27, tr.307].
Ông cũng phê phán Rousseau, người chủ trương dân quyền cực đoan với
tác phẩm “Khế ước xã hội” cho rằng, dân quyền là do trời sinh ra, từ khi sinh ra con
người đã có quyền tự do và bình đẳng, đó là quyền trời phú cho con người nhưng
sau đó người ta đã để mất nó.
Theo Tôn Trung Sơn, dân quyền và tự do gắn liền với nhau, tự do, bình
đẳng, bác ái là căn cứ vào dân quyền; dân quyền đã phát triển lên từ tự do, bình
đẳng, bác ái. “Tự do tức là một đoàn thể mà vẫn có thể hoạt động, đi lại như ý, như
thế là tự do” do đó nói dân quyền thì không thể không nói đến tự do. Tuy nhiên, tự

do theo cách hiểu của Tôn Trung Sơn mà các nước Âu – Mỹ đang thực hiện lại có
giới hạn rất nghiêm ngặt, muốn có tương lai cá thể........ thì phải xóa bỏ tự do cá
nhân để kết thành đoàn thể vững chắc, tự do thái quá là phát sinh nhiều khuyết tật
của tự do”[27, tr.314].
Về bình đẳng ông nói: “mọi việc sinh ra trong trời đất đều không giống
nhau; đã không giống nhau đương nhiên không thể nói đến bình đẳng? Giới tự
nhiên không bình đẳng thì sao loài người lại có bình đẳng. Trời sinh ra loài người từ
đầu đã không bình đẳng, sau khi chuyên chế của loài người phát triển, nhất là
chuyên chế đế vương rất hà khắc đã làm cho tình hình không bình đẳng do trời sinh
ra, càng không bình đẳng. Không bình đẳng mà đế vương tạo ra là loại không bình
đẳng do con người tạo ra” [27, tr.318].
Các quan niệm khác nhau về quyền con người trong thế giới hiện đại
Bước sang thế kỷ XX sự phát triển của QCN sang giai đoạn mới. Lúc này
xuất hiện nhiều tư tưởng mới về QCN, có những quan điểm có tính đối lập ra
đời.Đối với vấn đề này,tác giả Chu Hồng Thanh trong cuốn “Tìm hiểu nhân quyền

14


trong thế giới hiện đại” [9] đã khẳng định, QCN, một mặt càng có nhiều quốc gia
đóng góp tiếng nói chung trong các công ước nhân quyền quốc tế; mặt khác, có hiện
tượng ra tăng sự khác biệt, đối lập các khái niệm nhân quyền. Có thể chỉ ra xu
hướng phát triển về QCN trên một số khía cạnh sau:
Một là; Căn cứ vào nhu cầu bản năng của con người để đưa ra khái niệm và
giải thích tiêu chuẩn QCN như một giá trị cơ bản, tự nhiên. Vì QCN là sản vật tự
nhiên, là thiên phú, bẩm sinh. Quan niệm này có giá trị phủ nhận quyền lực của
vương quyền, thần quyền, độc tài, chuyên chế, tạo cơ sở vững chắc xây dựng
nguyên tắc bảo vệ QCN.
Hai là, trong khái niệm QCN đang có xu hướng đề cao cá nhân, tuyệt đối
hóa vai trò của cá nhân, họ cho rằng “quyền cá nhân là gốc giá trị của mọi giá trị”.

Thuyết này đề cao tính vị kỷ, nhấn mạnh QCN tự bao bọc mình thoát khỏi những
ràng buộc xã hội.
Ba là, nhấn mạnh nội dung đạo đức trong khái niệm QCN. “Quyền con
người là quyền đạo đức thuộc về mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà. Sở dĩ
người đàn ông và người đàn bà có cái quyền đó, vì họ là người có đạo đức”
(Macfarlane. The thecry and Practice of Human Right, Manrice temple Sunth Ltd
1985, P3) [81, tr.33]
Bốn là, QCN được phân chia theo phái thần học và phi thần học. Trong đó,
“QCN theo phái thần học là nội dung phấn đấu của tôn giáo và nhiều nhà thần học
đương đại. Họ quan niệm nhân quyền là thiêng liêng, là phần hồn thần bí do những
lực lượng siêu nhiên hoạch định” [81, tr.35].
Năm là, quan niệm, cần phải hiểu QCN theo nghĩa hẹp là “nhân quyền chủ
trương”, “nói cách khác đó là quyền hiểu theo nghĩa cơ cấu. A do Y mà có quyền X
đối với B, ở đây có bốn nhân tố được bàn đến: A là chủ thể của quyền, Y là tính
chất của quyền, X là khách thể của quyền (nghĩa là quyền về cái gì) B là đối tượng
của quyền là người có nghĩa vụ”[81, tr.35]

15


Sáu là, khái niệm QCN dựa vào trình độ phát triển của lịch sử, xây dựng
“Quyền con người thế hệ thứ tư”, tiếp sau các QCN thế hệ thứ nhất xuất hiện trong
cách mạng tư sản ở Mỹ, Pháp; QCN thế hệ thứ hai chịu ảnh hưởng của khái niệm
“nhà nước phúc lợi chung”; QCN thế hệ thứ ba có quan hệ trực tiếp đến vấn đề sinh
tồn, hủy diệt, duy trì hòa bình.
Bảy là, khái niệm QCN được xây dựng trên thuyết “Nhân quyền quan
niệm” của Lang Nghị Hoài (Trung Quốc). Trong đó khẳng định, “Nhân quyền là sự
phản ánh trong đầu óc con người trở thành quan niệm, do đó lịch sử nhân quyền và
lịch sử đấu tranh cho nhân quyền chẳng qua là lịch sử của quan niệm. Mọi tranh
luận về nhân quyền và mọi quy định về nhân quyền đều là tự biện thuần túy ý niệm,

không phải là thực tế khách quan” [81, tr.39]
Cũng theo tác giả Chu Hồng Thanh và Hoàng Văn Hảo trong cuốn “Một số
vấn đề về quyền kinh tế- xã hội”[83] đã phân tích các nội dung về QCN, trong đó
khẳng định, “khái niệm QCN có thể thiết định bởi hai yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, QCN được hiểu là những đặc quyền vốn có, tự nhiên của con
người và chỉ con người mới có. Đó là những khả năng hành động một cách có ý
thức, từ chối hoặc yêu cầu giành lấy những cái gì đó, nhất là khả năng tự bảo vệ.
Thứ hai, bản thân quyền vốn có, tự nhiên chưa phải đã là quyền. Để đạt đến
cái gọi là quyền, cần có thiết định, đó là các quy chế pháp lý. Lúc này, các đặc
quyền tự nhiên của cá nhân trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật, được pháp
luật chấp nhận, tổ chức, bắt buộc hoặc ngăn cấm mới trở thành các QCN, do đó có
thể nói, không có pháp luật thì không có quyền.
Như vậy, qua phân tích những xu hướng xem xét QCN trên các khía
cạnh khác nhau, chúng ta có thể khẳng định: Do vấn đề QCN có tính đa dạng,
nên khi xem xét cần đảm bảo tính lịch sử xã hội, tuyền thống văn hóa, điều kiện
phát triển, xem xét trên cơ sở đảm bảo tính phổ biến và tính đặc thù của QCN.

16


Do đó, “Cần phải tiếp cận nội dung quyền con người và phân loại quyền con người
bằng phương pháp lịch sử cụ thể” [24, tr.13].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu một số quyền con người được đề cập phổ biến
hiện nay
Một số quyền phổ biến hiện nay đó là, các QDSCT, QKTXHVH, quyền
phát triển….Có nhiều công trình nghiên cứu về các nhóm quyền này; trong đó đáng
chú ý, có thể kể đến một số công trình của các tác giả sau: Theo Chu Hồng Thanh
và Hoàng Văn Hảo trong cuốn “Một số vấn đề về quyền kinh tế- xã hội” (1996)[83]
đã khẳng định, trong lịch sử có nhiều cách phân loại quyền khác nhau, trong đo có
hai cách đáng chú ý:

Xem xét từ góc độ triết học,QCN được quy vào hai dạng chủ yếu:
Một là, quyền được bảo đảm các điều kiện xã hội để con người tồn tại xứng
đáng với con người, bao gồm các quyền làm việc, quyền cư trú, đi lại, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo đảm về chỗ ở, quyền an ninh, chính trị,
quyền tự do kết hôn, quyền sở hữu, thừa kế tài sản, quyền nghỉ ngơi, chữa bệnh.
Hai là, quyền tự do lựa chọn các hoạt động sáng tạo, quyền được sáng tạo
để biểu hiện mình như là một nhân cách, gồm quyền được học tập, nâng cao học
vấn, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, pháp minh, sáng chế, quyền tự do ngôn
luận, quyền phê bình, chất vấn, quyền bảo lưu chính kiến trên cơ sở trách nhiệm về
hành vi cá nhân, quyền đấu tranh bảo vệ chân lý, quyền tự do bầu cử, ứng cử, quyền
tự do lập hội, quyền tự do tín ngững tôn giáo.
Xem xét từ góc độ khoa học pháp lý, QCN bao gồm:
Một là, các quyền tự do dân chủ về chính trị như quyền tham gia quản lý
nhà nước, quyền bầu cử, ứng cử, bình đẳng nam – nữ, quyền tự do ngôn luận, báo
chí, quyền được thông tin, quyền được hội họp, lập hội, biểu tình, tự do tín ngưỡng..
Hai là, các quyền dân sự như quyền tự do đi lại, cư trú, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân
phẩm.....

17


Ba là, các quyền kinh tế - xã hội như quyền lao động, tự do kinh doanh,
quyền sở hữu, thừa kế, quyền học tập, nghiên cứu,quyền hôn nhân gia đình....
Ngoài ra, từ yêu cầu pháp chế, người ta phân biệt thành quyền phổ biến tuyệt
đối và quyền phổ biến tương đối, tức quyền phải thực hiện ngay không điều kiện,
không hạn chế và quyền bảo đảm thực hiện tùy theo mức độ, điều kiện của mỗi
quốc gia.
Nhìn chung, khi nghiên cứu về QCN, hầu hết các tác giả đều luận giải
những nhóm quyền cơ bản của con người, đó là QDSCT; quyền kinh tế, văn hóa,

xã hội…., nó là cơ sở để xem xét mức độ TTQCN ở mỗi quốc gia. Ngày nay, các
khái niệm quyền cơ bản của con người và của công dân đã được mở rộng hơn
trước, cụ thể:
Ngoài ra, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện đại, các quyền mới
nảy sinh cũng thường xuyên được nhắc tới như: Quyền được phát triển, quyền được
sống trong hòa bình, quyền được sống trong môi trường trong lành hay quyền đối với
các guồn tài nguyên thiên nhiên. Đi vào cụ thể từng nhóm quyền chúng ta thấy:
Đối với nhóm quyền dân sự chính trị
Tác giả Chu Hồng Thanh và Hoàng Văn Hảo trong tác phẩm “Một số vấn
đề về quyền dân sự và chính trị” (1997) [84] có viết: “Nội dung quyền dân sự và
chính trị có thể hiểu dưới quan điểm hiện đại là nhóm quyền liên quan mật thiết đến
tự do cá nhân. Đại thể người ta chia chúng làm hai nhóm loại quyền, quyền dân sự
và quyền chính trị[84, tr.27].
Nhóm quyền dân sự, là những quyền tự do đi lại và cư trú, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, chỗ ở, quyền tự do đi ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về,
quyền được khiếu nại, tố cáo, quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm....[84, tr.27].
Nhóm quyền chính trị, bao gồm nội dung các quyền bảo đảm quá trình
tham gia và quản lý, vận hành của hệ thống chính trị một quốc gia. Đó là quyền tự
do bầu cử, ứng cử, tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp, lập hội...” [84, tr.27].

18


Công trình nghiên cứu "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền
dân sự chính trị" [102]. Đây là công trình đánh giá về thực tiễn TTQCN trên lĩnh
vực dân sự, chính trị, một số vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn.
Từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu có tính chất tổng kết lý
luận và thực tiễn về nhóm quyền này; do đó, công trình này phần nào làm thỏa mãn
nhu cầu của những người đang nghiên cứu trên lĩnh vực QDSCT. Tuy là công trình của

nhiều tác giả, nhưng các bài viết được trình bày một cách khoa học, logic, tạo ra một
kết cấu liền mạch, đề cập đến những vẫn đề cơ bản, bức thiết, những vấn đề đang nổi
lên trong giai đoạn hiện nay của nhóm quyền này. Các bài viết không chỉ giải quyết các
vấn đề lý luận, mà tập trung nhiều đến thực tiễn TTQCN hiện nay. Trong đó, lý luận về
nhóm QDSCT được thể hiện qua bài "Nhận thức chung về quyền dân sự: Khái niệm và
nội dung" của tác giả Hà Thị Mai Hiên.Theo tác giả, các QDSCT được xếp vào thế hệ
nhân quyền thứ nhất. Các quyền này về bản chất là các quyền thụ động, thể hiện tính
độc lập, không phụ thuộc của chủ thể quyền và giới hạn sự can thiệp của nhà nước vào
công việc thực thi, thụ hưởng các quyền của chủ thể. Các quyền này mang tính tuyệt
đối và được thực hiện không điều kiện. Nội dung của các QDSCT được đề cập ở rất
nhiều văn kiện quốc tế, các công ước của LHQ. Tuy nhiên theo tác giả, có thể khái quát
thành các quyền như sau: Quyền tự do, tự quyết định; Quyền bình đẳng và không bị
phân biệt đối xử; Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân; Quyền tự do đi lại và cư trú;
Quyền sở hữu tài sản của công dân; Quyền được bảo vệ đời tư; Quyền về xét xử công
bằng; Các quyền và tự do trong hôn nhân và gia đình.
Tác giả Phạm Hữu Nghị, trong bài "Quyền chính trị và thực hiện các quyền
chính trị ở Việt Nam" đã trình bày nội dung của các quyền chính trị bao gồm:
Quyền tự do ý kiến và biểu đạt; Quyền tự do lập hội; Quyền tự do hội họp một cách
hòa bình; Quyền được tham gia vào đời sống chính trị.

19


Đây là hai bài viết, hai tác giả nhưng bổ sung đầy đủ cho những nhận thức
về QDSCT trên phương diện lý luận và phần nào đã đề cập đến thực tiễn thực thì
quyền dân sự và chính trị ở Việt Nam.
Như vậy, nội dung, phạm vi các quyền cơ bản đã được nhiều tác giả nghiên
cứu và đến nay người ta không còn tranh luận về vấn đề đó. Vấn đề hiện nay là tính
đa dạng của các quyền đó được thể hiện trong thực tiễn như thế nào, khi nào thi đề
cao nhóm quyền nào hơn, hoặc mối liên hệ giữa chúng.

Bài viết “Bảo vệ, thúc đẩy QDSCT vì mục tiêu phát triển con người” của
tác giả Nguyễn Hồng Anh đề cập đến hai vấn đề: Thứ nhất, tranh luận xung quanh
vấn đề ưu tiên, đề cao QDSCT hay quyền kinh tế - xã hội; thứ hai, đề cập đến quyền
tự do như là giá trị nền tảng của QDSCT và phát triển cong người. Qua đó, đã nói
đến cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng, hai nền văn hóa; phương Tây, với sự thấm
nhuần tư tưởng tự do chính trị, dân sự và phương Đông, nơi vốn coi trọng tính tập
thể, tính cấu kết cộng đồng. Tuy nhiên, với mục đích của bài viết, tác giả cũng chỉ
dừng lại ở đó mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cơ sở hình thành nên sự khác biệt, sự so
sánh có tính chất đối chiếu để rút ra tính phổ biến và đặc thù của QCN. Hơn nữa, đến
nay cuộc tranh luận này cũng không còn nhiều ý nghĩa khi LHQ thừa nhận tính
không thể tác rời, tính không thể phân chia giữa các quyền.
Đối với nhóm QKTXHVH
Quyền KTXH là gì? Trong cuốn “Một số vấn đề về quyền kinh tế - xã hội”
[83] đã luận giải cơ sở triết học của quyền kinh tế - xã hội gồm những vấn đề sau:
Trong các quyền cơ bản của con người, quyền sống là quan trọng nhất và là
phương thức tồn tại của con người - hiện thực hoạt động thực tiễn qua lao động sản
xuất,tạo ra đời sống vật chất. Quyền kinh tế - xã hội, với tư cách là phương thức
thực hiện quyền sống – là sự phản ánh của tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quy
định lên.

20


×