Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Trách nhiệm xã hội (CSR) của các doanh nghiệp nhật bản và một số gợi mở đối với doanh nghiệp việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.52 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ THÙY LINH

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI (CSR) CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NHẬT BẢN VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM

Chuyên ngành
Mã số

: Kinh tế quốc tế

: 60 31 01 06

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Chu Đức Dũng

Phản biện 1: PGS.TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
Phản biện 2: TS. HOÀNG XUÂN LONG

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội ..... giờ ...... ngày ...... tháng ...... năm


2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility) đang
trở thành mối quan tâm của quốc tế, của mọi quốc gia, nói cách khác là sự quan tâm
của thời đại. Ngày 31/1/1999 tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Tổng Thư ký Liên Hiệp
Quốc Kofi Annan đã kêu gọi lãnh đạo các doanh nghiệp bàn về một công ước quốc tế
có sứ mạng tập hợp các doanh nghiệp, các cơ quan công quyền, các tổ chức dân sự
thông qua những nguyên tắc cơ bản về bảo vệ môi trường sinh thái và ổn định xã hội.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã trở thành một trào lưu thực thụ
và phát triển rộng khắp thế giới. Người tiêu dùng tại các nước phát triển hiện nay
không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty
làm ra sản phẩm đó. Họ muốn biết liệu các sản phẩm họ định mua có thân thiện với
môi trường sinh thái, với cộng đồng, có tính nhân đạo, và có lành mạnh hay không.
Nhiều phong trào bảo vệ quyền của người tiêu dùng và môi trường phát triển rất
mạnh ở nhiều nước.
Trước áp lực xã hội và sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong môi trường
kinh doanh ngày càng mở rộng, hầu hết các công ty lớn đã chủ động đưa CSR vào
chương trình hoạt động của mình một cách nghiêm túc như một giải pháp để xây
dựng hình ảnh đẹp trong mắt công chúng và khẳng định thương hiệu trên thị trường.
Bởi không những hình ảnh của công ty được cải thiện mà doanh số bán hàng cũng
được nhân lên đáng kể hay các thủ tục đầu tư được thuận lợi hơn. Và, ngay trong nội
bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với công ty cũng được tăng thêm.
Ở Việt Nam, việc thực hiện CSR thường vẫn được xem là một hành động giải
quyết các vấn đề xã hội vì các mục đích từ thiện và nhân đạo. Trong khi đó, CSR
nhìn chung phải được hiểu là cách thức mà một doanh nghiệp đạt được sự cân bằng

hoặc kết hợp những yêu cầu về kinh tế, môi trường và xã hội đồng thời đáp ứng
những kỳ vọng của các cổ đông và các bên đối tác. Cách thức mà doanh nghiệp tương
tác với các cổ đông, người lao động, khách hàng, nhà cung cấp, chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế và các đối tác khác luôn được coi là một đặc
điểm then chốt của CSR. Các doanh nghiệp Việt Nam tuy đã nhận thức được tầm
1


quan trọng và những lợi ích mà CSR mang lại để doanh nghiệp phát triển một cách
lâu dài và bền vững nhưng vẫn chưa thật sự biết cách áp dụng một cách chủ động,
linh hoạt và hiệu quả các hoạt động thực hiện trách nhiệm xã hội mà hầu hết chỉ tuân
theo những quy tắc, chuẩn mực do họ tự xây dựng để đạt được mục tiêu doanh thu là
chủ yếu chứ chưa thực sự vì xã hội và vì cộng đồng.
Do vậy, việc tìm hiểu hoạt động thực hiện trách nhiệm của các doanh nghiệp
Nhật Bản sẽ phần nào giúp chúng ta có cái nhìn sâu rộng hơn về cách thức thực hiện
CSR hiệu quả để mang lại những lợi ích lâu dài, bền vững cho doanh nghiệp và sự
phát triển chung của toàn xã hội. Từ đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ rút ra
được cho mình những kinh nghiệm phù hợp để áp dụng vào thực tiễn tại doanh
nghiệp mình sao cho đúng đắn và hợp lý nhất nhằm mang lại hiệu quả một cách thiết
thực nhất.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu CSR trên thế giới.
Trên thế giới có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu như:
- Matthew J. Hirschland (2006), “Corporate Social Responsibility and the
Shaping of Global Public Policy”. Tác giả bàn về tầm quan trọng của CSR trong
công ty như: Các quy định kinh doanh toàn cầu mới – sự hiểu biết của công ty về
trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và CSR thực hành đáp ứng lý thuyết – quản trị toàn
cầu và mạng lưới chính sách công cộng toàn cầu.
- Oyvind Ihlen, Betteke Van Ruler, Magnus Fredriksson, “Public Relations
and Social Theory: Key Figures and Concepts” (Routledge Communication Series).

Tác giả bàn về vấn đề: Quan hệ công chúng và lý thuyết xã hội nới rộng phạm vi lý
thuyết của quan hệ công chúng. Từ đó tập trung vào khái niệm như niềm tin, tính
hợp pháp, sự hiểu biết, và phản xạ, cũng như về các vấn đề về hành vi, năng lượng,
và ngôn ngữ.
- Muhammad Yunus, “Building Social Business: The New Kind of Capitalism
That Serves Humanity’s Most Pressing Needs”. Tác giả muốn giúp các doanh nghiệp
thấy được vai trò của hoạt động kinh doanh. Qua những gương điển hình mà các
doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn tới vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
2


- Duygu Turker (2008), Measuring Corporate Social Responsibility: A scale
Development Studyi. Mục đích của nghiên cứu này là để cung cấp một nguồn gốc, giá
trị, và sự đo lường đáng tin cậy của CSR phản ánh trách nhiệm của một doanh nghiệp
với các bên liên quan khác nhau.
2.2. Tình hình nghiên cứu CSR ở Nhật Bản.
Tại Nhật Bản, một số nghiên cứu về CSR như:
- Kanji Tanimoto & Kenji Suzuki (2005), "Corporate Social Responsibility in
Japan: Analyzing the participating companies in global reporting initiative". Tác giả
thực hiện hai phương pháp tính toán thực nghiệm để thấy được phản ứng của các
công ty Nhật Bản đối với cách thức áp dụng của các quốc gia phương Tây về CSR,
đồng thời bàn luận về các cách tiếp cận này trong việc thực hiện CSR ở Nhật Bản.
- Akane Matsumoto (2012), "How Do Corporate Philosophies Of Japanese
Companies Influence Their Practice Of The Base Of The Economic Pyramid (BOP)
Business And The Corporate Social Responsibility (CSR)?". Tác giả bàn về sự ảnh
hưởng của triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản đến thực tế
thực hiện CSR và kim tự tháp kinh tế kinh doanh (BOP). Tác giả cũng nghiên cứu về
khả năng ứng dụng của các triết lý kinh doanh như một công cụ để các doanh nghiệp
xây dựng quan hệ đối tác trong các lĩnh vực phát triển.
- Youngjae Koh (2015), "CSR at Japanese Companies as Seen in Changes in

Administrative Departments". Tác giả bàn về cách các phòng ban, bộ phận chịu trách
nhiệm cho các hoạt động CSR đã thay đổi như thế nào tại các công ty hàng đầu ở Nhật
Bản. Tác giả cũng làm sáng tỏ cách các bộ phận này quản lý các hoạt động CSR về việc
tuân thủ các quy định pháp luật, quan hệ với các nhà đầu tư, các hoạt động đóng góp cho
xã hội và hoạt động môi trường.
2.3. Tình hình nghiên cứu CSR ở Việt Nam.
Tại Việt Nam, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu về CSR như:
- TS Lê Thanh Hà (2006), “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong vấn đề tiền
lương”, Báo Lao động xã hội, số 290, ngày 15/05/2006. Tác giả muốn đề cập tới vai
trò của tiền lương như: các mức lương vừa thể hiện vị trí, công việc vừa thể hiện sự

3


chia sẻ lợi ích giữa các tổ chức, các doanh nghiệp và người lao động vừa thể hiện sự
phát triển nghề nghiệp của mỗi cá nhân người lao động.
- Hoàng Long (2007), “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp – Động lực cho sự
phát triển”, Báo Thương Mại, số 26/2007. Tác giả chứng minh tầm quan trọng của
CSR trong doanh nghiệp tới sự phát triển xã hội: chú ý phát triển cơ sở hạ tầng cứng và
mềm, giao thông vận tải, nhất là các hành lang kinh tế, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, các ngành dịch vụ then chốt như tài chính – ngân hàng, viễn thông, các
nguồn năng lượng mới và tái tạo được.
- Hồng Minh (2007), “Trách nhiệm xã hội và đạo đức doanh nghiệp”, Báo
Văn hoá và đời sống xã hội, số 2/2007. Đạo đức và trách nhiệm xã hội rõ ràng là
những vấn đề không thể thiếu trong kinh doanh. Thật khó mà thuyết phục doanh
nghiệp thực hiện tốt các vấn đề đạo đức và trách nhiệm bằng những luận cứ dựa trên
lợi ích kinh tế trước mắt.
- TS. Nguyễn Mạnh Quân (2004), Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hoá
doanh nghiệp”, NXB Lao động Xã hôi. Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp là
tài sản quý giá góp phần quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Đó

là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực, phương pháp tư duy ảnh hưởng rất lớn tới hành
động của các thành viên trong doanh nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Thông qua nghiên cứu tình hình thực hiện trách nhiệm
xã hội doanh nghiệp của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Nhật Bản, đưa ra một số gợi
mở cho các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
hiệu quả hơn nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm xã hội doanh
nghiệp, nội dung và cách thức triển khai trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.
+ Nghiên cứu tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp của các
doanh nghiệp Nhật Bản tại Nhật Bản.

4


+ Nhận xét, đánh giá tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp của
các doanh nghiệp Việt Nam, đưa ra một số gợi mở cho các doanh nghiệp Việt Nam
để thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp hiệu quả hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những lý luận về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp,
tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhật Bản và Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp; những phương pháp, cách thức của các doanh nghiệp, các tiêu chuẩn, Bộ quy
tắc ứng xử và phát triển trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.
+ Về không gian: Tại Nhật Bản và Việt Nam
+ Về thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2014
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, thống kê... để làm rõ
kết quả rút ra từ quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội tại Nhật Bản.

- Sử dụng phương pháp phân tích và đánh giá dựa trên việc thu thập và phân
tích tư liệu từ các nguồn sách, báo, website và hội thảo về tình hình thực hiện trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Nhật Bản để đưa ra nhận xét cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần hệ thống hóa các lý thuyết về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp trên thế giới, tại Nhật Bản và tại Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn cung cấp những vấn đề về thực tiễn tình hình thực hiện trách nhiệm
xã hội của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Nhật Bản và Việt Nam, cũng như đưa ra
tình hình chung về việc tiến hành trách nhiệm xã hội của các doan nghiệp Việt Nam
thong qua các nghiên cứu so sánh, đánh giá để gợi mở các giải pháp có hiệu quả cho
chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, tổ chức
trong việc nghiên cứu, hoạch định chính sách về trách nhiệm xã hội của các doanh
nghiệp Nhật Bản và Việt Nam hiện nay.
5


7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.
Chương 2: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhật Bản.
Chương 3: Một số nhận xét và gợi mở để nâng cao hiệu quả thực hiện Trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm Trách nhiệm xã hội
Năm 1970, trong cuốn sách "Capitalism and Freedom", nhà kinh tế học Milton
Friedman đã viết: "Có một và chỉ một trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp - đó là sử

dụng nguồn tài nguyên của mình và tham gia vào hoạt động nhằm tăng lợi nhuận của
mình miễn sao nó vẫn tuân theo các luật chơi, nghĩa là tham gia cạnh tranh công
khai và tự do, không lừa gạt hay gian lận". Theo cách nói này của Friedman, chúng
ta xét thấy ý kiến này mới chỉ có tác dụng hiện thực hóa các quy tắc trong kinh doanh
mà chưa phát huy được lợi thế của chuẩn mực đạo đức kinh doanh vào trong doanh
nghiệp. Đây chỉ chú ý tới việc chạy đua lợi nhuận "nhằm tăng lợi nhuận" đúng theo
mối ràng buộc của các doanh nghiệp trên "thương trường - không lừa gạt hay gian
lận". Có thể nói, khái niệm về CSR của Friedman mới chỉ nhìn ở một phạm vi hẹp đó
là một doanh nghiệp, thấy được lợi ích trước mặt mà bỏ qua lợi ích lâu dài, đó là
"phát triển nhanh, mạnh và bền vững" giữa các doanh nghiệp trong nước và các
doanh nghiệp ngoài nước.
Sau định nghĩa về CSR của Friedman thì xuất hiện hàng loạt các khái niệm
CSR sau đó, mỗi khái niệm ở mỗi thời kì đã bước đầu có sự hoàn chỉnh hơn về mặt
nội dung. "Trách nhiệm xã hội hàm ý nâng cao hành vi của doanh nghiệp lên một
mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kì vọng xã hội" (Prakash Sethi, 1975). Hay
"Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế,
pháp luật, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định"
(Archie B Caroll, 1979). Còn Maignan I. Ferrell đưa ra khái niệm CSR như sau: "Một

6


doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội khi quyết định và hoạt động của nó nhằm tạo ra
và cân bằng các lợi ích khác nhau của những cá nhân và tổ chức liên quan".
Khái niệm CSR theo thời gian đã mở rộng đối tượng ảnh hưởng của mình ra
nhiều doanh nghiệp và tổ chức liên quan, còn mục đích đặt ra cho các doanh nghiệp
đó là phải quan tâm tới các hoạt động của mình có ảnh hưởng như thế nào tới các vấn
đề xã hội xung quanh như với cộng đồng (quyền con người, các vấn đề về lao
động,…), bảo vệ môi trường;…
Nhóm Phát triển Kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới đưa ra định nghĩa về

Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp: "Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là sự cam kết
của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững thông qua các hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và thành viên gia đình
họ, cho cộng đồng và toàn xã hội theo cách có lợi nhất cho cả doanh nghiệp cũng
như sự phát triển chung của xã hội".
Định nghĩa này muốn nhấn mạnh rằng: CSR là "phương tiện" giải quyết những
vấn đề quan hệ giữa doanh nghiệp với cộng đồng, doanh nghiệp với môi trường,
doanh nghiệp với khách hàng, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững trong một xã
hội bền vững. Khái niệm được chọn sử dụng trong khuôn khổ luận văn này là định
nghĩa của Nhóm Phát triển Kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới vì nó hoàn chỉnh,
rõ ràng và có tầm khái quát cao so với các định nghĩa khác.
1.2. Nội dung của Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
1.2.1. Phạm vi ảnh hưởng của Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
Về cơ bản người ta chia phạm vi ảnh hưởng của CSR với 3 khía cạnh sau:
Phạm vi nội bộ doanh nghiệp: CSR ảnh hưởng đến quan hệ trong và ngoài hợp
đồng lao động và thỏa mãn giữa hai bên; quyền lợi hợp pháp và nghĩa vụ của người
lao động như công việc làm, phúc lợi lao động, quy tắc làm việc, an toàn lao động,…;
xây dựng môi trường ứng xử có đạo đức trong doanh nghiệp.
Phạm vi hoạt động kinh doanh: CSR giải quyết các vấn đề trong giới hạn các
mối quan hệ của doanh nghiệp với các đối tác, đối tượng liên quan trực tiếp tới hoạt
động kinh doanh.

7


Phạm vi xã hội: CSR được đặt ra giải quyết mối quan hệ với tập quán, văn hóa
truyền thống, tôn giáo của từng quốc gia, cộng đồng dân tộc. CSR xem xét các vấn đề
về quyền bình đẳng, quyền lợi trong đời sống xã hội, vấn đề đảm bảo chữ tín trong
kinh doanh.
1.2.2. Nội dung của CSR

Về cơ bản, trách nhiệm xã hội bao gồm những nghĩa vụ kinh tế, pháp lý, đạo
đức và nhân văn.
Nghĩa vụ kinh tế là nghĩa vụ đầu tiên và cơ bản nhất của doanh nghiệp thực
hiện CSR liên quan đến cách thức phân bổ trong hệ thống xã hội, các nguồn lực được
sử dụng để làm ra sản phẩm dịch vụ.
Nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp là thực hiện đầy đủ những quy định về
pháp lý chính thức đối với những người hữu quan, trong cạnh tranh đối với môi
trường tự nhiên do pháp luật hiện hành quy định.
Nghĩa vụ đạo đức của doanh nghiệp được định nghĩa là những hành vi hay hoạt
động được xã hội mong đợi nhưng không được quy định thành các nghĩa vụ pháp lý.
Nghĩa vụ đạo đức chính là nền tảng của nghĩa vụ pháp lý.
Nghĩa vụ nhân văn của doanh nghiệp bao gồm những hành vi và hoạt động mà
xã hội muốn hướng tới và có tác dụng quyết định chân giá trị của tổ chức hay doanh
nghiệp. Nghĩa vụ nhân văn thể hiện những mong muốn hiến dâng của doanh nghiệp
cho xã hội.
1.2.3. Đối tượng của CSR
Các đối tượng của Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là:
- Người lao động, cán bộ nhân viên: doanh nghiệp cần tuân thủ đầy đủ, nghiêm
chỉnh các quy định về pháp luật, về vấn đề sử dụng lao động, đảm bảo an toàn lao
động, xây dựng mối quan hệ thân thiện, tốt đẹp trong nội bộ doanh nghiệp,…
- Các bên liên quan (stakeholders): Các bên liên quan bao gồm cổ đông, người
tiêu dùng, gia đình của người lao động… Trách nhiệm với cổ đông là những ràng
buộc, cam kết liên quan đến quyền và phạm vi sử dụng tài sản ủy thác; đảm bảo sự
trung thực, minh bạch trong thông tin, trong phần lợi tức mà cổ đông đáng được

8


hưởng,… Trách nhiệm với người tiêu dùng được sử dụng hàng hóa, dịch vụ đúng với
những gì nhà sản xuất đã cam kết…

- Cộng đồng: Trách nhiệm với cộng đồng là trách nhiệm góp phần nâng cao,
cải thiện và phát triển cuộc sống cộng đồng mà gần nhất là địa phương nơi doanh
nghiệp hoạt động, đóng góp cho sự phát triển bền vững môi trường văn hóa - kinh tế xã hội của quốc gia. Ví dụ như trách nhiệm đối với môi trường là trách nhiệm bảo vệ
môi trường xung quanh hoặc ít nhất không vì lý do kinh tế mà gây ảnh hưởng xấu tới
môi sinh; sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên…
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
1.3.1. Quy định của pháp luật
Quy định của pháp luật là cơ sở, là nền tảng của CSR. Đây là tiêu chí ràng
buộc cho các doanh nghiệp phải hướng tới và phải thực hiện để đạt được hiệu quả
kinh tế cao. Các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp khi đã tuân thủ theo các quy định
của pháp luật thì sẽ tạo được một môi trường pháp lý, trong đó các doanh nghiệp hoạt
động theo một mục tiêu đúng đắn, tạo nên môi trường kinh doanh công bằng, bình
đẳng, thông thoáng và tạo sự gần gũi giữa các doanh nghiệp với nhau. Tuy nhiên,
pháp luật không thể là căn cứ phán xét một hành động là có đạo đức hay vô đạo đức
trong những trường hợp cụ thể mà nó chỉ thiết lập những quy tắc cơ bản cho những
hành động được coi là có trách nhiệm trong kinh doanh. Điều đáng chú ý là pháp luật
thường ban hành chậm hơn so với thực tiễn diễn ra, "độ trễ" nhất định nào đó của
pháp luật là cơ hội cho hoạt động kinh doanh bất hợp pháp xảy ra, và khi sự việc đã
rồi thì pháp luật mới căn cứ vào đó để xây dựng các quy định mới. Ngay cả khi các
văn bản pháp luật đã được ban hành thì để nội dung đi vào "cuộc sống" cũng cần một
khoảng thời gian nhất định. Nói tóm lại, các quy định của pháp luật cũng là những
yêu cầu tốt mà mỗi cá nhân, tổ chức cần thực hiện trong mối quan hệ với xã hội.
Tuân thủ pháp luật, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tạo ra nhiều công ăn việc làm,
bảo vệ môi trường,… là doanh nghiệp hoàn thành trách nhiệm xã hội của mình.
1.3.2. Nhận thức của xã hội
Khi xã hội phát triển cao đồng nghĩa với mức sống của cộng đồng được nâng
cao, do đó nhu cầu của con người cũng phát triển theo. Theo Abraham Maslow thì
9



con người càng cố gắng thỏa mãn những nhu cầu và khi nhu cầu nào đó được thỏa
mãn thì lại xuất hiện những nhu cầu tiếp theo, ban đầu là nhu cầu sinh lý (ăn, mặc,
ở,…); sau đó đến nhu cầu an toàn, được bảo vệ; nhu cầu xã hội (các vấn đề về tình
cảm); nhu cầu được tôn trọng, được công nhận, có địa vị; cuối cùng là nhu cầu tự
khẳng định, tự phát triển và tự thể hiện mình.
Người lao động - thành phần không thể thiếu để duy trì hoạt động của một
doanh nghiệp cũng ngày càng nhận thức sâu sắc hơn giá trị bản thân. Tự bản thân họ
hoặc thông qua các tổ chức công đoàn đã đứng lên đòi lại quyền lợi chính đáng của
mình. Những nhà lãnh đạo doanh nghiệp qua thực tế kinh doanh ngày càng nhận thức
được rằng, những việc làm vì cộng đồng vì trách nhiệm đối với xã hội là việc làm có
lợi cho sự vững mạnh của doanh nghiệp.
1.3.3. Quá trình toàn cầu hóa và sức mạnh của thị trường
Trong xu thế toàn cầu hóa với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt,
mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp đều phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình, trong đó khả năng cạnh tranh về nguồn nhân lực và môi trường đầu
tư đóng vai trò quan trọng. Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm
gia tăng sự liên kết giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc
các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh gay gắt với nhau. Tuy nhiên, có những
khu vực, những nước và doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng
cũng có những khu vực, những nước và doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị
đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động của thượng mại và đầu tư quốc tế.
Sức mạnh của thị trường mà điển hình là thị hiếu người tiêu dùng lại đã và
đang đặt ra cho các nhà kinh doanh sự cạnh tranh khốc liệt về trách nhiệm xã hội và
đạo đức kinh doanh dựa trên nền tảng sự tác động tổng hợp hành vi ứng xử, tới quyết
định lựa chọn của người tiêu dùng, chứ không phải thuần túy trên sự tác động tới giác
quan của họ. Bởi vậy trong giai đoạn toàn cầu hóa phát triển nhanh chóng, khoảng
cách về công nghệ, kỹ thuật giữa các nền kinh tế ngày một rút ngắn, chất lượng sản
phẩm ngày càng đồng đều hơn thì để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt, lúc đó trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh doanh là nguồn lực, nguồn vốn
mới cho doanh nghiệp trong cạnh tranh quốc tế.

10


1.4. Các công cụ thực hiện và đánh giá hoạt động của CSR
1.4.1. Các công cụ thực hiện Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có hơn 1000 bộ quy tắc ứng xử thể hiện
trách nhiệm xã hội doanh nghiệp liên quan đến các nội dung: An toàn vệ sinh lao
động nơi sản xuất, chăm sóc sức khỏe người lao động và bảo vệ môi trường như một
chứng chỉ phổ biến: SA 8000 - tiêu chuẩn lao động trong các nhà máy sản xuất;
WRAP - trách nhiệm toàn cầu trong ngành sản xuất may mặc; FSC - bảo vệ rừng bền
vững; ISO 14 001 - hệ thống quản lý môi trường trong doanh nghiệp;…
1.4.2. Công cụ đánh giá Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
Hiện nay trên thế giới có trên 2000 Bộ Quy tắc ứng xử, chia làm 3 nhóm chính:
Quy tắc ứng xử của các tổ chức quốc tế như: ISO, Công ước ILO, GC, OECD.
Quy tắc ứng xử của các tập đoàn đa quốc gia, các tổ chức hiệp hội ngành
nghề: Bộ Quy tắc ứng xử của Nike (Tập đoàn thể thao), Adidas (Tập đoàn thời
trang), FTA (Hiệp hội Ngoại thương).
Quy tắc ứng xử của các tổ chức độc lập như: SAI (Tổ chức Trách nhiệm xã hội
quốc tế), FLA (Nhượng quyền thương mại)…
Các doanh nghiệp sẽ cần thu thập đầy đủ các thông tin để lựa chọn thực hiện
Bộ Quy tắc ứng xử nào phù hợp nhất với doanh nghiệp của mình. Bộ luật ứng xử
BSCI ra đời nhằm đảm bảo tuân thủ với các tiêu chuẩn xã hội và môi trường cụ thể.
BSCI là Bộ Tiêu chuẩn đánh giá tuân thủ trách nhiệm xã hội trong kinh doanh. BSCI
ra đời năm 2003 từ đề xướng của Hiệp hội Ngoại thương (FTA) với mục đích thiết
lập một diễn đàn chung cho các quy tắc ứng xử và hệ thống giám sát ở Châu Âu về
CSR. Các công ty cung ứng phải đảm bảo rằng Bộ luật ứng xử này cũng được xem
xét bởi các nhà thầu phụ có liên quan đến các quy trình sản xuất của giai đoạn sản
xuất sau cùng được thực hiện thay cho các thành viên của BSCI.
1.5. Tác dụng của việc thực hiện CSR
1.5.1. CSR góp phần điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh doanh

Để đảm bảo lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp ý thức rằng không thể phát
triển mà phớt lờ sức ép của dư luận vốn vừa là khách hàng, công nhân viên hoặc cả
đối tác, chủ đầu tư trong nước lẫn quốc tế. Các nhà quản lý doanh nghiệp quốc tế
11


không những biết cách làm tăng tối đa lợi nhuận của công ty, mà còn ý thức rất rõ
việc tạo nên những điều kiện để duy trì và phát triển bền vững những lợi ích. Và
trong chiều hướng ấy, việc thực hiện CSR trở thành một nhân tố chiến lược có tính
định hướng trong việc phát triển doanh nghiệp.
1.5.2. CSR góp phần nâng cao chất lượng, giá trị thương hiệu và uy tín của
doanh nghiệp
Công bố thông tin minh bạch, điều hành công ty hiệu quả, sử dụng vốn hợp lý
để tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm là điều cần phải làm đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào vì sự phát triển bền vững của chính doanh nghiệp. Có như thế, mới tạo ra
được niềm tin cho nhà đầu tư, mà niềm tin chính là cảm xúc - yếu tố quyết định góp
phần tạo ra lợi nhuận cổ phiếu.
1.5.3. Việc thực hiện CSR góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở những vấn đề vừa
nêu, nhưng nhìn chung đây là các vấn đề trọng tâm. Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp đem lại rất nhiều lợi ích. CSR có mối liên hệ tích cực đến lãi đầu tư, tài
sản và mức tăng doanh thu. CSR sẽ tạo ra cơ sở thành công cho tất cả các hoạt động
kinh doanh quan trọng của tổ chức. Một mặt, CSR giúp các doanh nghiệp giảm thiểu
chi phí sản xuất thông qua các phương pháp sản xuất an toàn, tiết kiệm. Bởi vậy,
những doanh nghiệp thành công nhất chính là các doanh nghiệp nhận thấy được vai
trò quan trọng của CSR và áp dụng nó vào thực tiễn sản xuất.
1.5.4. CSR góp phần thu hút nguồn lao động giỏi
Lao động có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm.
Ở các nước đang phát triển, số lượng lao động lớn nhưng đội ngũ lao động đạt chất
lượng cao lại không nhiều, do vậy việc thu hút và giữ được nhân viên có chuyên môn

tốt và có sự cam kết cao là một thách thức đối với các doanh nghiệp. Những doanh
nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội đào tạo, bảo hiểm
y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và giữ nhân viên tốt.
1.5.5. CSR góp phần nâng cao hình ảnh quốc gia
Trách nhiệm xã hội là xu thế tất yếu và mang tính toàn cầu, thực hiện trách
nhiệm xã hội là tăng khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế, không mâu thuẫn với
12


lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp là phải tạo ra môi trường pháp lý hoàn chỉnh, một sân
chơi bình đẳng cho doanh nghiệp, cung cấp thông tin, tư vấn, hướng dẫn và ban hành
các cơ chế, chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp thực hiện tốt hơn các yêu cầu của pháp luật, quản lý, nâng cao tiêu chuẩn lao
động và thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện hoàn thiện và nâng cao tiêu chuẩn lao
động theo xu hướng quốc tế.
Chương 2: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Nhật Bản
2.1. Nhận thức chung về CSR ở Nhật Bản
Theo Báo cáo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI), cho đến
nay Nhật Bản vẫn còn những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về CSR, song về
cơ bản đã có sự tương đồng với quan niệm và nhận thức chung về CSR theo thông lệ
quốc tế. Bản thân nền kinh tế Nhật Bản cũng như doanh nghiệp Nhật đều nhận thức
được rằng việc thực hiện CSR vừa là trách nhiệm, vừa là cơ hội để nâng cao năng lực
cạnh tranh và hội nhập thành công.
Theo đó, CSR được hiểu là toàn bộ trách nhiệm của doanh nghiệp về những ảnh
hưởng đến xã hội từ các quyết định và hoạt động của mình. Để thực hiện những trách
nhiệm này, trước hết phải tôn trọng pháp luật và các cam kết với các bên có lợi ích
liên quan; có khả năng gắn kết hoạt động kinh doanh với việc giải quyết các vấn đề
xã hội, đạo đức, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền con người và đáp ứng các mối quan
tâm của khách hàng, nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích của các chủ sở hữu doanh

nghiệp, bên có liên quan và toàn xã hội; xác định rõ, ngăn ngừa và giảm thiểu tác
động tiêu cực có thể từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài thực hiện các quy định bắt buộc mang tính cơ bản, điểm nổi bật trong
cách tiếp cận về CSR ở Nhật Bản là tính tự nguyện. Điều này xuất phát từ nhận thức
của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân về vai trò, sự cần thiết và lợi ích của CSR.
Các nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu đời sống của Nhật Bản và Diễn đàn CSR
Nhật Bản đã đưa ra bằng chứng lý luận và thực tiễn để khẳng định thực hiện tốt CSR
đã và đang là công cụ hiệu quả để thu lợi nhuận và cạnh tranh mang tầm chiến lược
của các tập đoàn lớn của Nhật Bản; tạo ra thương hiệu và những mối quan hệ tốt đẹp
13


với các đối tác, nhà cung cấp, khách hàng, người lao động và các cộng đồng dân cư,
không chỉ ở Nhật Bản mà trên toàn thế giới. Nói cách khác, CSR ngày càng có vai trò
quan trọng trong chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp. Thực tế
cho thấy, những doanh nghiệp đạt kết quả và hiệu quả kinh tế cao thường nằm trong
nhóm các doanh nghiệp Nhật Bản được đánh giá tốt về CSR, trước hết là các tập
đoàn hàng đầu như Toyota, Honda, Hitachi, Sony…
2.2. Khung khổ thực hiện CSR của các doanh nghiệp Nhật Bản
Khung khổ cho thực hiện CSR của doanh nghiệp Nhật cơ bản bao gồm hệ thống
tiêu chuẩn quốc tế; định hướng chuẩn mực hành vi từ các tổ chức dân sự, tổ chức
hiệp hội và một phần nào đó từ một số cơ quan nhà nước.
2.3. Thực hiện CSR của các doanh nghiệp Nhật Bản hiện nay
Không giống như các doanh nghiệp Mỹ và Châu Âu có xu hướng đặt tầm quan
trọng vào lợi nhuận ngắn hạn cho các cổ đông, các doanh nghiệp Nhật từ lâu đã đưa
ra cách tiếp cận “cân bằng để quản lý doanh nghiệp”, trong đó, vai trò của nhân
viên, khách hàng, cộng đồng, người dân, các tổ chức có liên quan (bao gồm cả cơ
quan chính phủ) có vai trò không kém phần quan trọng bên cạnh các cổ đông, chủ sở
hữu doanh nghiệp.
Một số lượng lớn của các tập đoàn Nhật Bản đã thành lập bộ phận hoặc tiểu bộ

phận chuyên trách về CSR, phổ biến thông tin thông qua việc công bố các báo cáo và
quan hệ với các bên liên quan trong vấn đề CSR.
Theo đánh giá chung, nếu lấy CSR là hoạt động trung tâm của các hoạt động
trong doanh nghiệp nhằm duy trì sự hài hòa giữa kinh doanh, xã hội và môi trường,
thì các doanh nghiệp Nhật Bản chắc chắn ít nhất là ngang bằng với doanh nghiệp
Châu Âu và Hoa Kỳ.
Hơn nữa, do đặc điểm khan hiếm tài nguyên của mình, từ lâu Nhật Bản đã nhắm
mục tiêu công nghệ tiên tiến, tiết kiệm năng lượng, bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi
trường, và điều này là một trong những lý do thúc đẩy doanh nghiệp Nhật tự nguyện
thực hiện CSR và trên thực tế hộ đang làm tốt CSR so với phần lớn các nước khác
trên thế giới.

14


Chương 3: Một số nhận xét và gợi mở cho doanh nghiệp Việt Nam
3.1. Thực trạng thực hiện CSR ở các doanh nghiệp Việt Nam
3.1.1. Thực trạng chung của việc thực hiện CSR tại Việt Nam
CSR được giới thiệu vào nước ta thông qua hoạt động của các công ty đa quốc
gia tại Việt Nam. Các công ty này thường xây dựng các bộ quy tắc và các chuẩn mực
đạo đức và văn hóa kinh doanh có tính chất phổ quát để có thể áp dụng ở nhiều khu
vực thị trường khác nhau. Do đó, CSR được các công ty nước ngoài áp dụng bài bản
và đạt hiệu quả cao (như chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ em tại các
tỉnh miền núi của Việt Nam của Công ty Unilever; chương trình khôi phục thị lực cho
trẻ em nghèo của Western Union; chương trình "Tôi yêu Việt Nam" của Honda Việt
Nam, chương trình đào tạo tin học Topic 64 của Microsoft…). Đối với các doanh
nghiệp trong nước, các công ty xuất khẩu (mà cụ thể là các doanh nghiệp trong ngành
may mặc, giày dép, thủy sản) là những công ty tiên phong trong việc thực hiện CSR.
Hầu hết các đơn đặt hàng từ các thị trường Châu Âu, Mỹ hay Nhật Bản đều đưa ra
những quy định khắt khe đối với sản phẩm giày dép hay may mặc về điều kiện làm

việc, an toàn lao động (tiêu chuẩn SA8000); về đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm
đối với sản phẩm thủy hải sản. Bởi vậy, để giành được hợp đồng, duy trì hoạt động
xuất khẩu, đứng vững trên thị trường thì thực hiện CSR là yêu cầu bắt buộc đối với
doanh nghiệp xuất khẩu. Còn đa số các doanh nghiệp khác của Việt Nam do hạn chế
về nhận thức, không bị sức ép từ các bên liên quan, nguồn lực tài chính không dồi
dào, hoặc do chính bản thân doanh nghiệp không muốn thực hiện nên việc thực hiện
CSR không được quan tâm và ít phổ biến. Nếu các doanh nghiệp có chú ý thì thực
hiện CSR cũng trên quy mô đơn lẻ, manh mún, tự phát, thiếu hiệu quả và các doanh
nghiệp cũng chưa coi đó là trọng tâm trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
3.1.2. Những mặt đạt được
Từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may
trao giải thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền
vững” nhằm tôn vinh các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã
15


nhận thấy rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những
yêu cầu không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp
khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất
kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành
Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động
cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu
tăng từ 94% lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được
uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với
doanh nghiệp, thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao.

Một bộ phận doanh nghiệp Việt Nam đã tìm hiểu và nhận thức được vai trò của
CSR đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Từ đó, các doanh nghiệp này
đã có những đầu tư, quan tâm đúng mức, coi đây là một phần quan trọng trong chiến
lược dài hạn của doanh nghiệp và đã thu lại những lợi ích rõ ràng như gia tăng hợp
đồng mới, gia hạn hợp đồng đã có từ các nhà nhập khẩu quốc tế. Các doanh nghiệp
này chính là bằng chứng cho thấy việc thực hiện CSR là hoàn toàn khả thi đối với
doanh nghiệp Việt Nam, và là những nhân tố đi đầu cổ vũ tích cực việc áp dụng CSR
ở các doanh nghiệp khác.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng ngày càng quan tâm đến việc chia sẻ một
phần lợi nhuận của mình giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn, phát triển hệ thống giáo
dục, y tế… nhằm hỗ trợ chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề như: đói
nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm. Những doanh nghiệp tiêu biểu cho các hoạt động này
như: FPT, Tập đoàn Hoa Sen, Vinamilk, HAPRO…
3.1.3. Những vấn đề còn tồn tại
Tình hình thực hiện CSR của các doanh nghiệp trong vấn đề lao động đang còn
khá nhiều hạn chế. Vấn đề sử dụng lao động trẻ em, vị thành niên vẫn còn xảy ra ở
một số doanh nghiệp. Tiền lương, thu nhập trung bình của người lao động nhìn chung
còn ở mức thấp, chưa thỏa đáng, chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cuộc sống,
16


và chưa là động lực để người lao động hứng thú với công việc. Nhiều nơi, người lao
động vẫn phải làm việc trong điều kiện không an toàn và vệ sinh lao động; giờ làm
việc và nghỉ ngơi không đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật và những cam kết
trước đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe công nhân… Đặc biệt, tình trạng
người lao động không được tham gia bảo hiểm xã hội còn khá phổ biến. Người lao
động nữ ở nhiều nơi còn bị đối xử thiếu công bằng thể hiện trong chênh lệch tiền
lương, thưởng, cơi hội thăng tiến, phát triển nghề nghiệp so với các đồng nghiệp nam.
Sự gia tăng của tình hình tai nạn lao động cả về số vụ lẫn thiệt hại về người và
vật chất đang ở mức đáng báo động về tình trạng thiếu an toàn tại nơi làm việc của

các doanh nghiệp; tình trạng các chủ doanh nghiệp vi phạm trong việc cung cấp các
trang thiết bị đảm bảo sức khỏe và tính mạng người lao động…
Mặc dù quyền đình công đã được ban hành nhưng hầu hết các vụ đình công hiện
nay vẫn mang tính chất tự phát, không tuân thủ các trình tự, thủ tục của pháp luật.
Các cuộc đình công diễn ra ngày càng nhiều, với quy mô lớn hơn và thiệt hại gây ra
cũng nhiều hơn xuất phát từ quyền lợi của người lao động không được các doanh
nghiệp đảm bảo.
Quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam hiện nay đang bị nhiều doanh nghiệp
vi phạm. Vì lợi nhuận, các doanh nghiệp đã đưa ra thị trường những sản phẩm không
đảm bảo chất lượng, và người tiêu dùng là những người chịu hậu quả. Thế nhưng, ý
thức của cộng đồng và ý thức bảo vệ quyền lợi của người dân rất thấp. Người tiêu
dùng thường chấp nhận sự thiệt thòi về mình mà chưa có những lên tiếng để chống
lại doanh nghiệp. Có thể nói đứng trước doanh nghiệp lớn, người tiêu dùng cảm thấy
yếu thế hơn, đơn lẻ, thiếu sự hỗ trợ của chính quyền. Cơ chế khiếu kiện dân sự ở
nước ta ít khi được sử dụng.
Tình trạng các doanh nghiệp hoạt động, sản xuất gây hậu quả xấu đến môi
trường ngày càng phổ biến. Rất nhiều doanh nghiệp đã thải ra môi trường những
nước thải sản xuất độc hại chưa qua xử lý, lượng khí thải của các nhà máy đang dần
dần hủy hoại tầng ozone… Môi trường sống hàng ngày đang phải chống chọi với tình
trạng ô nhiễm nguồn nước, không khí, tiếng ồn, đất đai… ngày càng gia tăng.

17


3.1.4. Nguyên nhân của những tồn tại
Thứ nhất, hiểu biết của giới kinh doanh Việt Nam hiện nay về các vấn đề đạo
đức kinh doanh hay CSR còn mơ hồ và hạn chế. Đa số các doanh nghiệp chưa nhận
thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của CSR đối với khách hàng, xã hội và chính
bản thân doanh nghiệp.
Thứ hai, quản lý nhà nước còn lỏng lẻo, các văn bản pháp luật không sát thực tế

đã dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp dễ dàng lách luật, chối bỏ những trách nhiệm
của mình.
Thứ ba, Các tổ chức công đoàn vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tế. Hoạt động của các tổ chức công đoàn cũng chưa thực sự hiệu quả, chưa phát huy
hết quyền hạn của mình
Thứ tư, Pháp lệnh Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam có quy định người tiêu
dùng có quyền được cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ, được quyền lựa chọn,
được quyền khiếu nại, tố cáo…
3.1.5. Những thách thức trong việc thực hiện CSR đối với các doanh nghiệp
Việt Nam
Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp lúng túng do nguồn tài chính
hạn hẹp và phương tiện kỹ thuật không đáp ứng quy chuẩn. Đa phần các doanh
nghiệp chỉ có trình độ ở mức trung bình và kém trên thế giới, phương tiện sản xuất
lạc hậu so với thế giới từ 20 - 30 năm, lại được chắp vá từ nhiều nguồn nên cũng
không đủ điều kiện đảm bảo an toàn, vệ sinh, tính năng sử dụng. Bởi vậy, các doanh
nghiệp nếu không có yêu cầu từ bên ngoài thì thường chối bỏ việc thực hiện CSR, họ
muốn tiết kiệm các chi phí này.
Thứ hai, một số doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang thực hiện CSR dựa trên
một số bộ Quy tắc ứng xử (CoC) đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới như
SA8000, WRAP, ISO14000… Thế nhưng lại có sự khác biệt trong một số quy định
của bộ CoC này với Bộ luật Lao động Việt Nam điều này đã gây khó khăn cho các
doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.
Thứ ba, một số doanh nghiệp đã nhầm lẫn hoặc cố tình nhầm lẫn giữa "làm từ
thiện" và "thực hiện trách nhiệm xã hội".
18


Thứ tư, Người lao động, đặc biệt là những lao động có trình độ thấp (chiếm đa
số trong tổng số lao động cả nước hiện nay), do nhận thức còn nhiều hạn chế, họ chưa
nhận biết được quyền lợi thực sự của mình, do điều kiện kinh tế khó khăn, vì "miếng

cơm manh áo", họ đã chấp nhận làm việc trong điều kiện không đảm bảo, thỏa hiệp
với các doanh nghiệp bỏ qua những vi phạm rõ ràng của doanh nghiệp về an toàn, vệ
sinh, quyền lợi người lao động. Và điều này càng tạo cơ hội cho doanh nghiệp không
thực hiện nghĩa vụ CSR của mình.
3.2. Một số nhận xét
Nhật Bản đã sớm quan tâm và trở thành quốc gia có nhiều doanh nghiệp hàng
đầu thế giới về hoạt động CSR, xuất phát từ triết lý kinh doanh truyền thống của Nhật
Bản, từ yêu cầu thực tiễn kinh doanh trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế;
và từ những lợi ích thiết thực, trước mắt cũng như lâu dài của CSR đối với sự phát
triển bền vững của doanh nghiệp.
Nhận thức về vai trò của CSR đối với doanh nghiệp Nhật Bản đã có bước phát
triển ở trình độ cao và trên phương diện nào đó có thể đã hình thành cách tiếp cận
mới về mô hình hoạt động của doanh nghiệp. Đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt
các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu của Nhật Bản, CSR chính thức trở thành một yếu
tố đầu vào quan trọng như các yếu tố truyền thống khác (vốn, lao động, mặt bằng,
công nghệ…), đồng thời CSR là một công cụ có hiệu quả để cạnh tranh, phát triển
bền vững, đáp ứng lợi ích tối cao của chủ sở hữu và các bên có liên quan, kể cả tối đa
hóa lợi nhuận.
Nội dung và phạm vi của CSR đã trở nên đa dạng, không chỉ hạn chế trong các
vấn đề liên quan đến môi trường sinh thái và các hoạt động từ thiện như trước đây,
mà đã bao trùm lên nhiều lĩnh vực khác trong và ngoài doanh nghiệp, trong nước và
quốc tế, vật chất và phi vật chất, lợi nhuận và phi lợi nhuận, … Khung CSR của
doanh nghiệp Nhật Bản đã trình bày trong Báo cáo này cho thấy tính phức tạp, đa
dạng, quy mô và tầm ảnh hưởng của hoạt động này. Cũng chính bởi CSR có phạm vi
quá rộng và tác động qua lại với nhiều bên liên quan, nên muốn thực hiện có hiệu quả
cần hội tụ đầy đủ các điều kiện cần thiết, từ năng lực của doanh nghiệp cho tới nhận
thức chung của cả xã hội về CSR.
19



Trong thực hiện, CSR ngày càng trở thành hoạt động quan trọng nhất của doanh
nghiệp Nhật với xu thế tiêu chuẩn hóa về hành vi và chuyên nghiệp hóa về tổ chức;
có chiến lược, kế hoạch và chương trình hành động rõ ràng; được xem xét, giám sát,
đánh giá bằng hệ thống các tiêu chí cụ thể và chuẩn mực được thừa nhận rộng rãi.
Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng về CSR (ISO 26000), các bộ quy tắc ứng
xử quốc tế và của Nhật bản, xây dựng và công bố báo cáo thương niên về CSR… cho
thấy vai trò và mức độ chuyên nghiệp hóa, tiêu chuẩn hóa của CSR.
Một đặc điểm quan trọng về CSR ở Nhật Bản là có tính tự nguyện cao và ít chịu
sự dẫn dắt chính sách của Nhà nước cũng như hệ thống pháp luật. Doanh nghiệp, khu
vực tư nhân, các tổ chức dân sự, trình độ nhận thức của người dân cũng như các nhà
quản lý doanh nghiệp chiếm vị trí trung tâm trong thực hiện CSR ở quốc gia này.
Điều đó không có nghĩa rằng Nhà nước đứng bên ngoài, ngược lại, Chính phủ là một
bên liên quan có vai trò, quyền và trách nhiệm như các bên có lợi ích liên quan khác
của doanh nghiệp, trước hết ở việc hỗ trợ thông tin và trao đổi kinh nghiệm trong,
ngoài nước, cung cấp dịch vụ tiện ích cho thực hiện CSR và các hành vi khuyến
khích khác, tham gia bình đẳng với các chủ thể khác trong định hướng hành vi doanh
nghiệp và xây dựng các chuẩn mực, tiêu chuẩn CSR Nhật bản và quốc tế, v.v.
3.3. Một số gợi mở
3.3.1. Tiếp tục phổ biến tăng cường nhận thức về CSR cho các bên có liên quan
CSR không phải chủ đề mới ở Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp xuất khẩu sang các thị trường EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ thường xuyên phải đối
mặt với những yêu cầu báo cáo liên quan đến CSR. Nhiều hội thảo, hội nghị, diễn
đàn, khóa học về CSR đã được tổ chức. Không ít nghiên cứu do các cá nhân, cơ quan
và tổ chức trong nước, quốc tế đã được thực hiện và công bố chính thức. Từ năm
2008, UNDP đã có dự án khuyến khích thực hiện CSR theo thông lệ kinh doanh tại
các doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số tổ chức và định chế quốc tế khác cũng có
những dự án tương tự. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI có giải
thưởng CSR (2012), v.v.
Tuy vậy, dường như CSR vẫn chưa thực sự được quan tâm thỏa đáng ở Việt
Nam, cả về quan điểm, nội dung và cách thức thực hiện. Phần lớn doanh nghiệp chưa

20


có nhận thức đầy đủ về CSR cũng như vai trò của nó đối với việc nâng cao năng lực
cạnh tranh và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp mình, thậm chí một số còn coi
CSR là gánh nặng chi phí. Đặc biệt, người dân, các cộng đồng dân cư, người lao
động, người tiêu dùng càng khó khăn hơn trong tiếp cận về vấn đề này, trong khi đây
là những bên lợi ích liên quan có khả năng thúc đẩy CSR.
Vì vậy, trước hết phải tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức về
CSR một cách mạnh mẽ hơn, phạm vi và đối tượng rộng hơn, không nên bó hẹp trong
giới doanh nhân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức mà phải đi tới các cộng đồng
dân cư và địa phương, kể cả đưa vào các chương trình giáo dục phổ thông. Các doanh
nghiệp và các bên liên quan cần nhận thức một cách tích cực về CSR, nhất là trong
bối cảnh hội nhập ngày càng rộng và sâu hơn.
3.3.2. Sớm hình thành các tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử ở tầm ngành và quốc gia
về CSR
Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, CSR phụ thuộc nhiều vào bản thân ý chí
và lợi ích của doanh nghiệp. Tuy vậy, rõ ràng CSR đã trở nên phổ biến hơn, thực chất
hơn và khuyến doanh nghiệp thực hiện mạnh mẽ hơn sau khi có những tiêu chuẩn và
chuẩn mực chung về CSR chính thức được áp dụng.
Việt Nam chưa xây dựng được bộ quy tắc ứng xử CSR nào. Một số ít doanh
nghiệp, nếu muốn thực hiện, cũng rất khó khăn trong việc triển khai áp dụng một
cách có hệ thống. Vì vậy cần xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá CSR của Việt Nam
dựa trên kinh nghiệm quốc tế, có tính toán điều kiện thực tế trong nước. Cùng với đó
là hệ thống đánh giá CSR độc lập, có trách nhiệm.
3.3.3. Từng bước áp dụng chế độ báo cáo về CSR
Báo cáo thường niên hoặc định kỳ về CSR không chỉ là công cụ quảng bá, "đánh
dấu chất lượng" cho doanh nghiệp mà còn là phương tiện thông tin để chủ sở hữu,
nhà nước, cộng đồng và các bên có liên quan xem xét, tương tác thông tin với hoạt
động của doanh nghiệp.

Việc áp dụng chế độ báo cáo CSR ở Việt Nam là một quá trình hoàn thiện thể
chế từng bước cả từ phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp và các tổ chức khác và có lẽ
chưa có điều kiện để áp dụng trong thời gian ngắn hạn đối với phần lớn doanh nghiệp
21


Việt Nam. Tuy vậy, từ kinh nghiệm của Nhật Bản nên áp dụng chế độ báo cáo này
đối với các doanh nghiệp quy mô lớn, các doanh nghiệp có nhiều ảnh hưởng lớn đến
xã hội, môi trường nước ta hiện nay, trước hết là các tập đoàn, tổng công ty đặc biệt
quan trọng và công ty niêm yết.
3.3.4. Từng bước lấy CSR là một tiêu chí để lựa chọn nhà đầu tư vào Việt Nam
Qua kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy các doanh nghiệp thực hiện tốt CSR
cũng là các doanh nghiệp có năng lực về vốn, công nghệ, có đạo đức kinh doanh và ý
thức đóng góp cho cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp kinh doanh. Việc thực
hiện chiến lược kinh doanh hài hòa, dài hạn, bền vững của các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài thực hiện tốt CSR có thể đem lại cơ hội học hỏi cho doanh nghiệp trong
nước, buộc các doanh nghiệp trong nước cũng phải dần nâng cao nhận thức và trách
nhiệm xã hội để có thể tham gia vào mạng sản xuất của các công ty nước ngoài.
3.3.5. Tăng cường hợp tác với các quốc gia đã thực hiện tốt CSR
Các Bộ ngành cần tăng cường hợp tác với Nhật Bản cũng như các quốc gia khác
đã thực hiện tốt CSR để nghiên cứu xây dựng khung CSR chung cho Việt Nam đồng
thời giúp tăng cường nhận thức cho doanh nghiệp về CSR. Học hỏi kinh nghiệm từ
các doanh nghiệp đi đầu trong thực hiện CSR ở các quốc gia đã thành công, nghiên
cứu áp dụng những biện pháp phù hợp với đặc điểm và khả năng của từng doanh
nghiệp để mang lại những hiệu quả thiết thực nhất, góp phần ổn định kinh tế doanh
nghiệp cũng như của quốc gia, tạo sự phát triển bền vững, lâu dài.

KẾT LUẬN
Ngày nay, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những
nội dung quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động quản trị chiến lược của tất cả

các công ty đa quốc gia trên thế giới. Không chỉ hạn chế trong các vấn đề truyền
thống liên quan đến môi trường sinh thái, CSR hiện phát triển đa dạng và bao trùm
lên rất nhiều lĩnh vực khác nhau như điều kiện lao động, không sử dụng lao động trẻ
em, không ép giá người cung cấp nguyên liệu, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,
không sử dụng lông thú, động vật quý hiếm, sản phẩm biến đổi gen, trung thực trong
kế toán tài chính, thông tin đến khách hàng, nhà đầu tư, uy tín và đạo đức trong giao

22


dịch với đối tác, cạnh tranh, không quyên góp chính trị, khuyến khích quan hệ cộng
đồng, tình nguyện, từ thiện…
Tại Nhật Bản, không giống như các công ty ở Mỹ và châu Âu có xu hướng đặt
tầm quan trọng vào lợi nhuận ngắn hạn cho các cổ đông, các tập đoàn Nhật Bản từ
lâu đã đưa ra một cách tiếp cận cân bằng để quản lý công ty của họ giúp bao quát một
cách tổng thể, bao gồm cả nhân viên, khách hàng và người dân địa phương, cũng như
các cổ đông. Một số lượng đáng kể các tập đoàn Nhật Bản đã thành lập bộ phận liên
quan đến CSR để phổ biến thông tin thông qua các ấn phẩm, các báo cáo, và chú ý
đến các mối quan hệ với các bên liên quan.
Nếu CSR là trung tâm của các hoạt động toàn diện của một công ty nhằm duy
trì sự hài hòa giữa các công ty, xã hội và môi trường, trong khi vẫn duy trì được sự
phát triển về mặt lợi nhuận, thì các công ty Nhật Bản chắc chắn ít nhất là ngang bằng
với các tập đoàn phương Tây về phương diện này. Hơn nữa, bằng cách biến bất lợi
nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên làm lợi thế, Nhật Bản đã đặt ra chiến lược lấy
công nghệ tiên tiến và các bí quyết nhằm bảo tồn năng lượng, bảo tồn tài nguyên và
bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các công ty Nhật Bản còn chú trọng và quan tâm
đến người lao động, cũng như những phúc lợi cho nhân viên nhằm tạo cho họ môi
trường làm việc tốt nhất, gây dựng nên sự tin tưởng và trung thành của họ đối với
công ty để họ gắn bó, làm việc và cống hiến lâu dài.
Nhật Bản hiện đã trở thành quốc gia có số lượng lớn nhất các thành viên tham

gia vào hệ thống báo cáo CSR được ghi nhận trên thế giới. Điều đó chứng tỏ sự
nghiêm túc trong nhận thức cũng như những nỗ lực bằng hành động cụ thể của các
doanh nghiệp Nhật Bản trong việc thực hiện CSR để cân bằng lợi ích của công ty và
lợi ích của toàn xã hội, nhằm hướng đến sự phát triển toàn diện chung của cả xã hội.
Đối với Việt Nam, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã phát triển khá
nhanh chóng tuy mới chỉ du nhập vào nước ta khá muộn theo sự hiện diện của các
công ty đa quốc gia trong khoảng 15 năm trở lại đây. Mặc dù vậy, nhận thức của
người dân, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này vẫn còn nhiều hạn
chế. Muốn đảm bảo trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nhà nước cần phải khuyến
khích và phát triển các cơ chế "xã hội dân sự" ở địa phương, để làm đối trọng với
doanh nghiệp. Tạo ra đối trọng có nghĩa là tạo ra cơ chế xã hội đủ mạnh để giám sát
23


×