Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Quán ngữ tình thái trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.58 KB, 39 trang )

Header Page 1 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TRONG TÁC PHẨM
CỦA BA NHÀ VĂN
THẠCH LAM, VŨ BẰNG, TÔ HOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Hà Nội - 2016

i
Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TRONG TÁC PHẨM
CỦA BA NHÀ VĂN


THẠCH LAM, VŨ BẰNG, TÔ HOÀI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trịnh Cẩm Lan

Hà Nội - 2016
ii
Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực, chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất cứ công trình nào.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Nhung

iii
Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN

Bảng 1.1. Bảng phân loại ngữ cố định theo quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp.. 15
Bảng 2.1. Bảng phân loại QNTT dựa vào số lƣợng thành tố cấu tạo.................... 34
Bảng 2.2. Bảng phân loại QNTT dựa vào tổ chức cú pháp................................... .37
Bảng 2.3. Bảng phân loại QNTT dựa vào vị trí phân bố của QNTT trong cấu trúc
câu .......................................................................................................................... 44
Bảng 3.1. Bảng phân loại QNTT theo đặc điểm ngữ nghĩa – chức năng............. .51
Bảng 3.2. Bảng số liệu thống kê, phân loại các QNTT đƣa đẩy............................ 52
Bảng 3.3. Bảng tổng hợp một số QNTT đƣa đẩy đa giá trị....................................73
Bảng 3.4. Bảng số liệu thống kê, phân loại các QNTT rào đón............................. 74
Bảng 3.5. Bảng tổng hợp một số QNTT rào đón đa giá trị.................................... 87

iv
Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................3
3. Ý nghĩa của đề tài…………………………………………………………….4
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ...............................................................4
5. Bố cục của luận văn ..........................................................................................5
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................................................6
1.1. Vấn đề tình thái ..............................................................................................8
1.1.1. Khái niệm tình thái…………………………………………………………6

1.1.1.1. Vấn đề tình thái trong logic học và trong ngôn ngữ học…………......6
1.1.1.2. Vấn đề tình thái trong Việt ngữ học……..…………………………...8
1.2. Quán ngữ tình thái tiếng Việt .....................................................................12
1.2.1. Vài nét về quán ngữ tiếng Việt…………………………………………12
1.2.2. Khái niệm quán ngữ tình thái tiếng Việt ................................................18
1.2.3. Một số đặc điểm của quán ngữ tình thái tiếng Việt ................................19
1.2.3.1. Đặc điểm về hình thức.....................................................................20
1.2.3.2. Đặc điểm về ngữ nghĩa – chức năng ...............................................23
1.3. Tiểu kết Chƣơng 1 .......................................................................................32
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA QUÁN NGỮ TÌNH THÁI
TRONG TÁC PHẨM CỦA BA NHÀ VĂN THẠCH LAM, VŨ BẰNG, TÔ
HOÀI ........................................................................................................................33
2.1. Đặc điểm về số lƣợng thành tố cấu tạo quán ngữ tình thái .....................33
2.1.1. Kết quả thống kê, phân loại ....................................................................33
2.1.2. Phân tích kết quả ....................................................................................34
2.1.2.1. Nhóm quán ngữ tình thái có cấu tạo gồm 2 thành tố (từ) ..............34
2.1.2.2. Nhóm quán ngữ tình thái có cấu tạp gồm 3 thành tố (từ) ...............35
2.1.2.3. Nhóm quán ngữ tình thái có cấu tạo gồm 4 thành tố (từ) ...............36

v
Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

2.1.2.4. Nhóm quán ngữ tình thái có cấu tạo gồm 5 thành tố (từ) ...............36
2.2. Đặc điểm về tổ chức cú pháp của quán ngữ tính thái ..............................37
2.2.1. Kết quả thống kê, phân loại ....................................................................37
2.2.2. Phân tích kết quả ....................................................................................38
2.2.2.1. Nhóm quán ngữ tình thái có cấu tạo là một cụm chính phụ ...........38

2.2.2.2. Nhóm quán ngữ tình thái có hình thức kết cấu khuôn ....................42
2.2.2.3. Nhóm quán ngữ tình thái có hình thức kết cấu cụm chủ - vị …….. 42
2.3. Đặc điểm về vị trí phân bố của quán ngữ tính thái trong cấu trúc câu ..44
2.3.1. Kết quả thống kê, phân loại ....................................................................44
2.3.2. Phân tích kết quả ....................................................................................44
2.3.2.1. Nhóm quán ngữ tình thái đứng đầu phát ngôn ...............................45
2.3.2.2. Nhóm quán ngữ tình thái có vị trí cố định ở cuối phát ngôn .........46
2.3.2.3. Nhóm quán ngữ tình thái đứng sau chủ ngữ, trước vị ngữ ............47
2.3.2.4. Nhóm quán ngữ tình thái có vị trí xen kẽ .......................................48
2.4. Tiểu kết Chƣơng 2 .......................................................................................50
CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA – CHỨC NĂNG CỦA QUÁN NGỮ
TÌNH THÁI TRONG TÁC PHẨM CỦA BA NHÀ VĂN THẠCH LAM, VŨ
BẰNG, TÔ HOÀI .....................................................................................................51
3.1. Đặc điểm của các quán ngữ tình thái đƣa đẩy trong tác phẩm của ba
nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài ...........................................................52
3.1.1. Kết quả khảo sát, phân loại.....................................................................52
3.1.2. Phân tích kết quả ....................................................................................53
3.1.2.1. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để đánh giá .......................... 53
3.1.2.2. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để phỏng đoán – giả định .... 55
3.1.2.3. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để phủ định - phản bác ........ 61
3.1.2.4. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để hỏi ................................... 64
3.1.2.5. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để tỏ thái độ thừa nhận – chấp
thuận ................................................................................................................. 65
3.1.2.6. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để cảnh báo – nhắc nhở ...... 70

vi
Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.


3.1.2.7. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để khơi mào ......................... 71

3.2. Đặc điểm của các quán ngữ tình thái rào đón trong tác phẩm của ba nhà
văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài ..................................................................74
3.2.1. Kết quả khảo sát, phân loại.....................................................................74
3.2.2. Phân tích kết quả ....................................................................................75
3.2.2.1. Nhóm quán ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm về
lượng ............................................................................................................75
3.2.2.2. Nhóm quán ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm về
chất ...............................................................................................................77
3.2.2.3. Nhóm quán ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm
quan hệ .........................................................................................................81
3.2.2.4. Nhóm quán ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm cách
thức ...............................................................................................................82
3.2.2.5. Nhóm quán ngữ tình thái rào đón liên quan đến điều kiện và hiệu
quả sử dụng hành động ở lời........................................................................83
3.2.2.6. Nhóm quán ngữ tình thái rào đón lịch sự .......................................84
3.3. Tiểu kết Chƣơng 3 .......................................................................................88
KẾT LUẬN ..............................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................93
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………95

vii
Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, một sự tình có thể phản ánh đúng hoặc
khác thế giới thực tại khách quan, điều này phụ thuộc vào chủ đích của chủ
thể phát ngôn, vào ngôn/ văn cảnh và năng lực tiếp thụ của chủ thể tiếp nhận.
Vấn đề này liên quan đến một số phƣơng tiện ngôn ngữ, trong đó có những
phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Đặc biệt trong thời gian gần đây, cùng
với khuynh hƣớng chú trọng hơn đến nhân tố văn hoá, tƣ duy trong ngôn ngữ
và trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt ngữ học quan tâm nhiều
đến vấn đề tính tình thái trong ngôn ngữ. Đó cũng là lẽ tất yếu bởi không có
một nội dung nhận thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thể tách khỏi những
nhân tố nhƣ mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá… của ngƣời nói đối với điều
đƣợc nói ra xét trong mối quan hệ với hiện thực, với đối tƣợng giao tiếp và
các nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp.
Nhƣ đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao đổi
thông tin. Độ phức tạp trong việc xử lí thông tin và hiệu ứng mà phát ngôn tác
động đến ngƣời nghe đòi hỏi ngƣời nói có những thao tác xử lí nhất định về
mặt ngôn ngữ. Việc sử dụng ngữ điệu hay các phƣơng tiện từ vựng không
giống nhau giúp ngƣời nói thể hiện các thái độ khác nhau đối với nội dung
phát ngôn. Các thông tin liên nhân đƣợc truyền đạt bên cạnh những thông tin
ngôn liệu đƣợc gọi là thông tin tình thái nhận thức.
Đặc trƣng chung nhất của tình thái là phản ánh những mối quan hệ
khác nhau của nội dung thông tin trong câu với hiện thực và những quan
điểm, thái độ của ngƣời nói đối với nội dung miêu tả trong câu xét trong mối
1
Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.


quan hệ với ngƣời tiếp nhận, với hoàn cảnh giao tiếp. Đặc trƣng này đƣợc thể
hiện qua nhiều cách định nghĩa tình thái khác nhau, tuy rằng ở mỗi tác giả có
cách thể hiện khái quát hay cụ thể, tƣờng minh hay hàm ẩn.
Quan điểm của Benveniste (1966) xem tình thái là “một phạm trù rộng
lớn, nó gắn với những chờ đợi, mong muốn, đánh giá, thái độ của ngƣời nói
đối với nội dung phát ngôn, với ngƣời đối thoại, những kiểu mục đích phát
ngôn: hỏi, cầu khiến, trần thuật, v v.”. W. Frawley (1992) quan niệm tình thái
là “liên quan đến các thông tin về trạng thái của sự kiện, phản ánh quan hệ về
tính hiện thực, sự đánh giá và độ tin cậy của nội dung một biểu thức” [17, tr.
84 – 85].
J. Lyons (1977) xem “tình thái là thái độ của ngƣời nói đối với nội
dung của mệnh đề mà câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả”.
Theo F. Palmer (1986) cho rằng “tình thái là những thông tin ngữ nghĩa
có liên quan đến thái độ hay sự đánh giá của ngƣời nói về những gì đƣợc nói
ra”, sau đó ông viết thêm “tình thái đạo lý lại liên quan đến tính hợp thức về
đạo lý của hành động do một ngƣời nào đó hay do chính ngƣời nói thực hiện”.
Trong Việt ngữ, vấn đề tình thái cũng đƣợc nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu nhƣ: Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp,
Hoàng Tuệ, Phạm Hùng Việt, v. v.
Chẳng hạn, Hoàng Tuệ đã nhận xét “tình thái là một khái niệm trong sự
phân tích theo cách nhìn tìm đến thái độ của ngƣời nói trong hoạt động phát
ngôn tức cũng là tìm đến tác động ngữ dụng, tác động mà ngƣời nói muốn tạo
ra ở ngƣời nghe trong thực tế hoạt động ngôn ngữ” [24, tr. 136].
Cao Xuân Hạo cho rằng tình thái của câu đƣợc biểu thị trong cấu trúc
cú pháp cơ bản (mà tác giả gọi là cấu trúc Đề – Thuyết).
2
Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.


Nhƣ vậy, trong bức tranh nghiên cứu về vấn đề tình thái trong ngôn
ngữ thì còn có nhiều nét tƣơng đồng và dị biệt giữa các tác giả.
Trong số những đơn vị từ vựng biểu đạt thông tin tình thái nhận thức,
có một loại ngữ cố định chuyên biểu thị ý nghĩa tình thái, thƣờng đƣợc gọi là
quán ngữ tình thái (QNTT). Loại đơn vị này có những nét đặc thù về cấu tạo,
chức năng và ngữ nghĩa. Sự tồn tại của các QNTT với ý nghĩa, vai trò của
chúng trong cơ chế giao tiếp liên nhân đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu, khảo
sát đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa – chức năng của loại đơn vị này trong ngữ
cảnh giao tiếp cụ thể với đề tài: Quán ngữ tình thái trong tác phẩm của ba
nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là chỉ ra những đặc điểm cơ bản về
hình thức và ngữ nghĩa – chức năng của QNTT đƣợc sử dụng trong các tác
phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài. Từ đó, góp phần thấy
đƣợc nét đặc trƣng trong phong cách giao tiếp, nói năng của các nhân vật
trong tác phẩm của ba nhà văn này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên đây, luận văn đặt ra các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề về lý thuyết giao tiếp, về tính tình thái
trong ngôn ngữ và QNTT với những vấn đề liên quan đến ngữ nghĩa, ngữ
dụng của chúng trong ngôn ngữ trong giao tiếp.
- Thu thập tƣ liệu là các QNTT và ngữ cảnh sử dụng chúng trong các
tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.

3
Footer Page 10 of 126.



Header Page 11 of 126.

- Phân tích và mô tả đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa – chức năng của
các QNTT đã thu thập đƣợc nhằm chỉ ra một số đặc trƣng của chung trong
ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật trong các tác phẩm.
3. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lí luận: luận văn giúp khái quát đƣợc những đặc điểm về ngữ
pháp, ngữ nghĩa – chức năng của QNTT trong các tác phẩm của ba nhà văn
Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài. Thông qua đó, chúng tôi hi vọng kết quả của
luận văn có thể làm phong phú thêm những nghiên cứu về phong cách sáng
tác của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.
Về mặt thực tiễn: quá trình giải quyết những vấn đề cụ thể về QNTT
trong luận văn giúp cho ngƣời ngƣời Việt giao tiếp với nhau lịch sự và đạt
đƣợc hiệu quả cao hơn.
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các QNTT đƣợc sử dụng trong
ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch
Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng một số thủ pháp và
phƣơng pháp nghiên cứu sau đây:
- Thủ pháp thống kê, phân loại: để khảo sát, thống kê, phân loại các
QNTT trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.
- Phương pháp phân tích và mô tả ngôn ngữ học: là phƣơng pháp chủ
đạo đƣợc sử dụng trong luận văn để phân tích và mô tả đặc điểm hình thức và
ngữ nghĩa chức năng của các QNTT trong các tác phẩm của ba nhà văn đƣợc
lựa chọn.

4
Footer Page 11 of 126.



Header Page 12 of 126.

5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn dự kiến chia làm 3 chƣơng
sau:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận
Trong chƣơng này, dựa trên việc tiếp thu và chọn lọc từ các quan điểm
của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, luận văn đƣa ra cách hiểu về khái niệm tình
thái, vấn đề quán ngữ và quán ngữ tình thái. Đồng thời khái lƣợc lại những
đặc điểm về hình thức và ngữ nghĩa chức năng của QNTT. Từ đó có sự phân
loại khái quát nhất về QNTT.
Chƣơng 2. Đặc điểm hình thức của quán ngữ tình thái trong tác phẩm
của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài
Dựa trên những ngữ liệu cụ thể, Chƣơng 2 triển khai khảo sát thống kê,
phân loại các QNTT rồi dùng phƣơng pháp mô tả, phân tích ngôn ngữ học để
chỉ ra những đặc điểm về hình thức của QNTT trong các tác phẩm của ba nhà
văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.
Chƣơng 3. Đặc điểm ngữ nghĩa – chức năng của quán ngữ tình thái
trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài
Trong chƣơng này, luận văn khảo sát, thống kê, phân tích tác dụng,
chức năng trong sự hoạt động của QNTT. Từ đó rút ra những kết luận khách
quan về đặc trƣng sử dụng ngôn ngữ và phong cách khi giao tiếp của các nhân
vật trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.

5
Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.

Vấn đề tình thái
1.1.1. Khái niệm tình thái
1.1.1.1. Vấn đề tình thái trong logic học và trong ngôn ngữ học
Tình thái (modality), một vấn đề rất rộng và phức tạp, đã đƣợc logic học,

ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Logic học đi đầu trong nghiên cứu tình thái.
Ngay từ thời cổ đại, Aristote đã bàn về mệnh đề tình thái, khi đó tình thái gắn với sự
phân loại các phán đoán, các mệnh đề logic dựa trên những đặc trƣng cơ bản của
mối liên hệ giữa hai thành phần chủ từ và vị từ, xét ở góc độ phù hợp của phán đoán
với thực tế. Khi đƣa tình thái vào câu nói, với tƣ cách là thành tố định tính cho
mệnh đề, các nhà logic học dựa theo các tiêu chí về tính tất yếu, tính khả năng, tính
hiện thực để phân loại phán đoán. Lúc này, tình thái chỉ đƣợc nghiên cứu ở phƣơng
diện logic học.
Đến 1932, việc đƣa khái niệm tình thái vào ngôn ngữ mới đƣợc thể hiện rõ.
Trong tác phẩm Linguistique générale et linguistique française, Ch. Bally đã chủ
trƣơng phân biệt trong câu hai yếu tố: nội dung biểu hiện có tính chất cốt lõi về ngữ
nghĩa của câu; thái độ của ngƣời nói đối với nội dung ấy. Trong đó, Ch. Bally dùng
thuật ngữ dictum để chỉ nội dung cốt lõi của câu và modus hoặc modalité để chỉ thái
độ của ngƣời nói, tức tình thái [24, tr. 734]. Khi bàn về tình thái, nhà ngôn ngữ học
V. V. Vinogradov cho rằng “tình thái thuộc vào số những phạm trù ngôn ngữ học
trung tâm, cơ bản” và tác giả xem tình thái nhƣ phạm trù ngữ pháp độc lập, tồn tại
song song với phạm trù vị tính, biểu hiện những mối quan hệ khác nhau của thông
báo với thực tế. Tác giả còn cho rằng: “Mỗi câu đều mang một ý nghĩa tình thái nhƣ
dấu hiệu cấu trúc cơ bản, tức chỉ ra quan hệ đối với hiện thực”. Nội dung thông báo,

có thể đƣợc ngƣời nói hiểu nhƣ là hiện thực hay phi hiện thực, là đã tồn tại trong

6
Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

quá khứ, trong hiện tại, hay là điều sẽ đƣợc thực hiện trong tƣơng lai, là điều mà
ngƣời nói mong muốn hay đòi hỏi đối với ai đó. Còn theo cách định nghĩa của O. B.
Xirotinina, tình thái lại nằm trong vị tính của câu. Đối lập với các ngôn ngữ biến
hình thì “Thời tính, tình thái tính và ngôi tính nằm trong cấu trúc vị tính và cùng
nhau tạo nên cái gọi là vị tính mà thiếu nó thì không thể có thông báo” (Dẫn theo
Nguyễn Văn Hiệp (2008) [17, tr. 84]). Trong khi đó, tác giả V. N. Bondarenko thì
cho rằng, “tính tình thái là một phạm trù ngôn ngữ chỉ ra đặc điểm của các mối quan
hệ khách quan (tình thái khách quan) đƣợc phản ánh trong nội dung của câu và chỉ
ra mức độ của tính xác thực về nội dung của chính câu đó theo quan niệm của ngƣời
nói (tình thái chủ quan)”. Một quan điểm rất gần với V. N. Bondarenko là M. V.
Liapon, tác giả xem “tình thái là một phạm trù chức năng ngữ nghĩa thể hiện các
dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn đối với thực tế cũng nhƣ các dạng đánh giá
chủ quan khác nhau của điều đƣợc thông báo”. [24, tr. 31]
Ngoài ra, M. A. K Halliday (1994) cũng có nhiều ý kiến bàn về tính tình thái.
Một mặt, ông chú trọng vào phạm trù thức (mood), một mặt lại đặt ra yêu cầu về
việc cần phải xem xét tính tình thái qua việc sử dụng động từ. Với phạm trù trợ
động từ (auxiliaries), tác giả hy vọng sẽ giải thích đƣợc những gì còn sót lại của tính
tình thái mà nếu chỉ dùng riêng khái niệm vị tính thì chƣa giải quyết trọn vẹn.
Thành phần thức gồm hai tiểu thành phần: (i) chủ ngữ (subject) là một cụm danh từ,
(ii) tác tử hữu định (finite) là một phần của cụm động từ. Thành phần hữu định là
một trong số ít những tác tử động từ biểu đạt thì (tense) (ví dụ: is, has) hay tình thái
(ví dụ: can, must). [13, tr. 156]

Đáng chú ý, J. R. Searle đã dùng lý thuyết hành động ngôn từ để thảo luận
những vấn đề về thức và tình thái. J. R. Searle nêu ra năm phạm trù cơ bản của hành
động ở lời nhƣ sau: xác quyết, khuyến lệnh, kết ƣớc, tuyên bố và biểu lộ. Cách tiếp
cận vấn đề của J. R. Searle đã cung cấp một khung ngữ nghĩa rộng lớn cho việc thảo
luận tình thái. Bởi với cách tiếp cận này, vai trò của ngƣời nói (với tƣ cách là chủ
thể nhận thức, chủ thể tác động trong quan hệ liên nhân) đƣợc đặc biệt nhấn mạnh.

7
Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

Lý thuyết hành động ngôn từ là lý thuyết đặc biệt quan tâm đến quan hệ giữa ngƣời
nói với những gì đƣợc nói. Vì thế, nó xứng đáng là khung để thảo luận những vấn
đề của tình thái.
J. Lyons (1995) cho rằng tình thái logic đƣợc biểu thị qua khái niệm tính khả
năng và tính tất yếu, còn trong ngôn ngữ, tình thái đƣợc nhận thức qua hai phạm trù
cơ bản là tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo lý (deontic
modality). Tình thái nhận thức phải đƣợc thể hiện thông qua tính tất yếu hoặc khả
năng về tính xác thực của mệnh đề, và có liên quan đến tri thức và niềm tin, còn
tình thái đạo lý thì có liên quan với chức năng xã hội của phép tắc hay là nghĩa vụ.
Và ông xem tình thái là “thái độ của ngƣời nói đối với nội dung của mệnh đề mà
câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả”.
Những quan niệm về tình thái nêu trên đã cho thấy cách giải quyết ý nghĩa
của tính tình thái có nhiều điểm khác nhau giữa các tác giả.
1.1.1.2. Vấn đề tình thái trong Việt ngữ học
Hiện nay, trong Việt ngữ học, vấn đề tình thái đã đƣợc nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu, nhƣng chƣa có nhiều công trình tập trung nghiên cứu toàn diện về
tình thái. Tình hình này có lẽ vì những nguyên nhân sau:

- Trong một thời gian rất dài, tình thái đƣợc xem thuộc lĩnh vực lời nói
(parole) chứ không thuộc ngôn ngữ (langue) theo quan điểm của F. D. Saussure. Vì
tuân thủ sự phân biệt giữa parole và langue nên các nhà nghiên cứu ngữ pháp không
đề cập tới nó. [24, tr. 729]
- Cách hiểu về tình thái trong giới Việt ngữ học còn chƣa thống nhất, thậm
chí có sự hiểu lầm. Cao Xuân Hạo có nhận xét xác đáng nhƣ sau: “Hai chữ tình thái
nếu có đƣợc quan tâm lại thƣờng đi đôi với những định kiến sai lạc. Sự hiểu lầm
phổ biến nhất là nghĩ rằng tình thái tức là những sắc thái tình cảm, cảm xúc của
ngƣời nói trong khi phát ngôn”. [6, tr. 66]

8
Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

Khảo cứu tài liệu, chúng tôi thấy có hai nhóm tác giả đề cập đến vấn đề tình
thái, nhóm không trực tiếp quan tâm đến tình thái và nhóm trực tiếp quan tâm đến
tình thái. Tình hình nghiên cứu lớp này cụ thể nhƣ sau:
- Nhóm không trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái:
Đây là nhóm các tác giả không trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái nhƣng
trong quá trình xử lý những vấn đề khác họ đã nhắc đến tình thái. Tiêu biểu cho
nhóm này là các tác giả: Bùi Đức Tịnh (1952), Trƣơng Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê
(1963), Lê Văn Lý (1968), Nguyễn Kim Thản (1977), Đái Xuân Ninh (1978), Lê
Cận, Phan Thiều (1983), Đinh Văn Đức (1986), Hoàng Phê (1987), Đỗ Hữu Châu
(1993), Lê Biên (1995), Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1998), v. v. Điểm
chung của các nghiên cứu liên quan đến vấn đề tình thái trong nhóm này thể hiện
qua các nội dung sau:
+ Vấn đề tình thái không đƣợc chính thức nhắc đến trong các nội dung ngữ
pháp, ngữ nghĩa của các công trình nghiên cứu. Các tác giả không đề cập đến sự đối

lập giữa phạm trù ngôn liệu và phạm trù tình thái mà chỉ sắp xếp từ tiếng Việt vào
hai lớp từ loại lớn là thực từ và hƣ từ.
+ Khi đƣợc xếp vào lớp thực từ hoặc hƣ từ, những yếu tố tình thái nào đƣợc
các tác giả này xem là có nghĩa từ vựng thì xếp vào lớp thực từ (nhƣ: nỡ, toan,
định…), còn những yếu tố còn lại (không có nghĩa từ vựng) thì xếp vào lớp hƣ từ
(nhƣ: hả, à, ƣ, nhỉ…) chứ hoàn toàn không nói đến tƣ cách tác tử, có vai trò thể hiện
ý nghĩa tình thái trong câu.
- Nhóm trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái:
Các tác giả này có chú ý khảo sát vấn đề tình thái ở nhiều phƣơng diện khác
nhau, tiêu biểu là các tác giả: Phan Mạnh Hùng (1982), Hoàng Tuệ (1984, 1988),
Nguyễn Minh Thuyết (1986, 1995), Nguyễn Đức Dân (1987, 1998), Lê Đông
(1991), Hồ Lê (1992), Cao Xuân Hạo (1991, 1999, 2001, 2002), Phạm Hùng Việt
(1994, 1996, 2003), Nguyễn Văn Hiệp (1994, 1998, 2001, 2002, 2008), v. v.. Quan

9
Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

điểm chung của các tác giả này đều phân biệt rạch ròi hai phạm trù: ngôn liệu và
tình thái. Tuy nhiên, khi đi vào từng vấn đề cụ thể, ở mỗi tác giả có những kiến giải
khác nhau, nhiều khi chƣa sáng tỏ. Dù rằng có những hạn chế nhất định, nhƣng
những kết quả của những công trình này mang lại là rất lớn, giúp giới Việt ngữ học
có thái độ quan tâm đến vấn đề tình thái. Trong đó, đáng chú ý nhất là các tác giả
sau đây:
+ Nguyễn Đức Dân (1976) đã bàn đến vấn đề logic – tình thái trong tiếng
Việt. Sau này (1998) ông đã nêu lên những khái niệm căn bản về tình thái trong
logic học. Tác giả cho thấy mối quan hệ giữa logic tình thái và ngôn ngữ, trong đó
tính tất yếu và tính có thể đƣợc coi là nền tảng của vấn đề tình thái trong ngôn ngữ.

+ Từ năm 1979, Cao Xuân Hạo đã có bài đi sâu miêu tả, phân tích những
phƣơng tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái qua việc phân tích tiền giả định và hàm ý của
một số vị từ tình thái. Ông còn phân biệt rõ tình thái của hành động phát ngôn và
tình thái của lời phát ngôn. Từ đó, ông cho rằng: “Nội dung của bất kỳ một lời phát
ngôn nào cũng chứa đựng một tình thái (nếu không phải là kết hợp nhiều lớp tình
thái)”. [16, tr. 51]
+ Hoàng Tuệ (1988) cho ngƣời đọc thấy đƣợc những nét khái quát về tình
thái khi bàn về thời, thể, tình thái trong tiếng Việt và khái niệm tình thái. Trong đó,
ông có phân biệt rõ hai yếu tố khác nhau trong câu tiếng Việt đó là ngôn liệu
(dictum) và tình thái (modus).
+ Đỗ Hữu Châu (1993) cho rằng phạm trù tình thái truyền đạt quan hệ giữa
nhận thức của ngƣời nói với nội dung của câu và quan hệ của nội dung này với thực
tế ngoài ngôn ngữ. Nội dung câu nói có thể đƣợc khẳng định, đƣợc phủ định, đƣợc
yêu cầu hay bị cấm đoán, đƣợc cầu mong hay đề nghị, v. v..
+ Nguyễn Văn Hiệp (2008) đã cho thấy sự đối lập giữa phạm trù tình thái và
phạm trù ngôn liệu. Tác giả viết: “Đối lập cơ bản nhất để hiểu tình thái là đối lập
giữa tình thái và ngôn liệu hay nội dung mệnh đề. Đây là một sự đối lập đƣợc thừa

10
Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

nhận rộng rãi, đƣợc coi là then chốt trong những nghiên cứu về tình thái. Ngôn liệu
thực chất là thông tin miêu tả ở dạng tiềm năng, còn tình thái là phần định tính cho
thông tin miêu tả ấy”. [17, tr. 85 - 86]
Điểm qua một số quan điểm về tình thái của một số tác giả tiêu biểu, chúng
tôi nhận thấy rằng càng tìm hiểu chi tiết về tình thái thì càng thấy rõ tính phức tạp,
gắn với những quan niệm, cách hiểu khác nhau. Mặc dù, cách diễn đạt của các tác

giả là khác nhau nhƣng ở họ đều có điểm chung: thừa nhận tình thái là một phạm
trù ngữ nghĩa – chức năng phản ánh mối quan hệ, thái độ, cách đánh giá của ngƣời
nói đối với nội dung của phần còn lại trong câu.
Chắt lọc, khái quát từ những quan điểm nêu trên, chúng tôi hiểu về tình thái
nhƣ sau: Tình thái là một phạm trù thể hiện thái độ, cách đánh giá của người nói
đối với nội dung giao tiếp, với người đối thoại hoặc giữa nội dung giao tiếp với mục
đích giao tiếp, với các nhân tố khác có liên quan đến sự tình được nêu ra. Nó là một
trong hai thành phần trọng yếu tạo nên cấu trúc ngữ nghĩa của câu, góp phần thực
tại hoá câu, gắn câu với điều kiện giao tiếp hiện thực.
1.1.2. Các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ
Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình thái, các phƣơng tiện biểu hiện
tình thái trong ngôn ngữ tự nhiên rất đa dạng. Xét về đại thể, có thể chia làm ba
nhóm cơ bản: các phương tiện ngôn điệu, các phương tiện ngữ pháp và các phương
tiện từ vựng. Ở những ngôn ngữ có biến đổi hình thái, thức và các hình thái khác
của động từ (nhƣ thời, thể) đóng một vai trò quan trọng trong việc biểu hiện tình
thái. Dĩ nhiên, những ngôn ngữ này cũng huy động các phƣơng tiện khác nhƣ ngữ
điệu, các phƣơng tiện từ vựng, hoặc phối hợp đồng thời nhiều kiểu phƣơng tiện đó.
Trong tiếng Việt, một ngôn ngữ không biến đổi hình thái, ngoài ngữ âm
(dùng ngữ điệu để thể hiện thái độ, tình cảm hoặc để nhấn mạnh vào điểm mà ngƣời
nói cho là cần chú ý) thì các phƣơng tiện từ vựng đóng một vai trò rất quan trọng,
có thể kể ra các nhóm chính:

11
Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

- Các phó từ làm thành phần phụ của vị từ: sẽ, đang, từng, vừa, mới,…
- Các vị từ tình thái làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, định, muốn, cố,

đành, được, bị,…
- Các động từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: Tôi e
rằng, tôi nghĩ rằng, tôi sợ rằng,..
- Các động từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với những điều kiện về
ngôi, về chỉ tố thời,…) nhƣ: ra lệnh, van, xin, đề nghị, yêu cầu,…
- Các thán từ: ôi, chao ôi, ồ, eo ôi,…
- Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp tƣơng đƣơng: à, ư, nhỉ, nhé, thôi,
chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì chết,…
- Các trợ từ tình thái: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính, đích thị, mới,
đã, chỉ,…
- Các kiểu câu điều kiện, giả định: nếu…thì…, giá…thì…, cứ….thì….
Đặc biệt trong đó cũng có các tổ hợp từ kiểu nhƣ: nói gì thì nói, nói của đáng
tội, nói khí không phải, nói bỏ ngoài tai,… mà ta thƣờng thấy xuất hiện trong giao
tiếp. Đó là những tổ hợp từ, những lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay
khuôn cấu trúc tƣớng đối ổn định đƣợc ngƣời nói dùng nhƣ một công cụ chức năng
của những tác tử tình thái tác động vào nội dung mệnh đề theo một kiểu nào đó. Và
chúng tôi tạm gọi những tổ hợp từ trên là quán ngữ tình thái (QNTT) – đối tƣợng
nghiên cứu của luận văn trên ngữ liệu là ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật trong
các tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài.
1.2. Quán ngữ tình thái tiếng Việt
1.2.1. Vài nét về quán ngữ tiếng Việt
Quán ngữ (QN) là đơn vị ngôn ngữ thuộc phạm vi quan tâm trƣớc hết của
các nhà nghiên cứu từ vựng. Chính vì thế mà đơn vị này thƣờng đƣợc thấy trong
công trình nghiên cứu về từ vựng hơn là trong các sách ngữ pháp. Bản thân thuật

12
Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.


ngữ “QN” đƣợc hiểu theo kiểu chiết tự thì “quán” là thói quen. Lý do là lớp từ này
đƣợc sử dụng theo “phản xạ” bản ngữ. Với đặc tính “dùng lâu thành quen”, một số
ngƣời cũng gọi chung thành ngữ (TN) là QN. Trong tác phẩm Ý nghĩa và cấu trúc
ngôn ngữ dịch từ tiếng Nga, nguyên tác tiếng Anh là Meaning and the Structure of
language của tác giả ngƣời Mỹ Wallace L. Chafe, Nguyễn Lai đã dùng từ “QN hoá”
thay cho “TN hoá” ở chƣơng 5 khi dịch thuật ngữ idiomaticization [22].
Nguyễn Văn Tu với công trình nghiên cứu về từ tiếng Việt [21] đã dành vài
trang để nói về khái niệm QN. Theo quan niệm của tác giả, QN cũng có tính ổn
định vì các thành tố gắn bó với nhau thông qua quá trình “quen dùng” và đƣa ra các
ví dụ minh hoạ cho quan điểm của mình: bạn nối khố, anh hùng rơm, gót sắt, kỷ
luật sắt, mua việc,... Nhƣ vậy, đối với Nguyễn Văn Tu, QN là một kiểu ngữ cố định
mà các tác giả khác gọi là ngữ cố định định danh (theo Vũ Đức Nghiệu).
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa QN là: “Tổ hợp từ cố
định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ các nghĩa của các yếu tố hợp
thành”. Từ điển này đƣa ra các ví dụ là “lên lớp”, “lên mặt”, “lên tiếng”.
Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá thuộc Bộ Giáo dục
và Đào tạo, định nghĩa QN là: “Tổ hợp từ cố định quen dùng mà nghĩa có thể suy ra
từ nghĩa của những yếu tố cấu thành” [23, tr 1364]. Tuy nhiên từ điển này không
cho ví dụ minh hoạ.
Trong sự so sánh với TN, từ định nghĩa của hai từ điển và một số nhà nghiên
cứu, chúng tôi có thể rút ra đƣợc một kết luận rất có ích cho việc phân biệt QN với
TN, đó là: QN, đứng về mặt từ vựng học, không có nghĩa bóng.
Cho đến bây giờ, những định nghĩa mà chúng tôi tìm hiểu đƣợc đa phần tập
trung ở địa hạt này. Đỗ Hữu Châu phát biểu: “Quán ngữ là những cách nói, cách
diễn đạt cần thiết để đƣa đẩy, để chuyển ý hay dẫn ý, để nhập đề chứ không có tác
dụng nêu bật một sắc thái của những cái đã có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện

13
Footer Page 20 of 126.



Header Page 21 of 126.

tƣợng, tính chất,...chƣa có tên gọi. Ngoài các thí dụ đã nêu, có thể dẫn thêm các
quán ngữ khác nhƣ:“ai cũng biết rằng”, “rõ ràng là”, “chắc chắn là”,…”
[5, tr 74].
Dựa vào đó, chúng tôi đƣa ra lƣợc đồ sau đây:
Ngữ cố định

Quán ngữ

Thành ngữ

(Gần gũi với cụm từ tự do)
Theo lƣợc đồ, QN là đơn vị phân biệt với TN và qua định nghĩa của tác giả,
phân biệt ở đây không chỉ là hình thức của QN mang tính chất của cụm từ tự do cao
mà còn về mặt nghĩa học. Trong khi TN có nghĩa bóng và tính biểu trƣng thì QN,
nhƣ quan niệm của Đỗ Hữu Châu, là đơn vị “rỗng” nghĩa vì nó chỉ có chức năng
dẫn xuất, đƣa đẩy, là đơn vị ngôn ngữ mang tính công cụ nhiều hơn. Thật vậy, khi
một ngƣời muốn bổ sung giữa cái nói rồi với cái định nói nữa, anh ta sử dụng các
“chỉ xuất” diễn ngôn đƣợc làm sẵn hoặc để cho ngƣời nghe có thể “dự báo”, có thể
nắm bắt trƣớc tinh thần phát ngôn, chuyển đổi chủ đề, tránh tình trạng đột ngột, tạo
ý khẳng định, phủ định, tạo hành vi tại lời, v.v.
Chia sẻ tinh thần của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp có cùng ý kiến:
“Quán ngữ là những cụm từ đƣợc dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn bản để liên
kết, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi phong cách thƣờng
có những quán ngữ riêng, chẳng hạn các quán ngữ “của đáng tội”, “nói khí vô
phép”, “nói bỏ ngoài tai”, “chẳng nước non gì”, “còn mồ ma”, v.v...thƣờng đƣợc
dùng trong phong cách hội thoại” [10, tr. 101].

Từ định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp, chúng tôi phát hiện thêm một đặc
điểm nữa mà sẽ là thiếu sót nếu không đƣa vào đặc tính của QN, đó là sự sử dụng

14
Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

lặp đi lặp lại thành quen dùng như một cách nói chuyên dụng. Đặc tính này đã
phần nào phản ánh lý do lớp từ này có tên là “QN”.
Ví dụ:
(1). ...Chúng con đã chả làm cách nào trả ơn bà, ơn mợ được thì chớ, đời nào con
lại dám bê tha điếu thuốc điếu sái để cho cả nhà phải mang tiếng và mợ phải buồn
rầu vì con. (VB. C)
Cụm từ “đời nào” này không chỉ xuất hiện trong phát ngôn trên, của riêng
ngƣời nói trên mà hầu nhƣ nó là một biểu thức đƣợc làm sẵn, đƣợc tái hiện nhiều
lần trong các tình huống tạo phát ngôn dùng để phủ định dứt khoát điều mà ngƣời
đối thoại có vẻ nửa tin, nửa ngờ và khẳng định là không thể xảy ra đƣợc vì vô lý.
Định nghĩa và sự sắp xếp của Nguyễn Thiện Giáp về ngữ cố định trong đó có QN
đƣợc thể hiện qua bảng mà tác giả đề nghị sau đây [10, tr. 101]:

Chức năng biểu
hiện gợi tả

Chức năng định
danh

Có tính nhất thể về


Không có tính nhất

nghĩa

thể về nghĩa

Ngữ láy đơn nhất

Ngữ láy mô hình

Thành ngữ hòa kết

Thành ngữ hợp kết

Cấu tạo bằng
phƣơng thức láy

Ngữ định danh hòa Ngữ định danh hợp
kết

kết

Chức năng đƣa

Quán ngữ

Cấu tạo bằng
phƣơng thức ghép

đẩy, rào đón, nhấn

mạnh, liên kết
Bảng 1.1. Phân loại ngữ cố định theo quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp
Dễ nhận thấy rằng QN trong bảng trên của Nguyễn Thiện Giáp có ba đặc
điểm nổi bật:

15
Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.

- Có chức năng đƣa đẩy, rào đón, nhấn mạnh, liên kết chứ không có nghĩa
định danh (nét khu biệt lớn nhất với các đơn vị ngữ cố định khác).
- Không có tính nhất thể về nghĩa.
- Đƣợc cấu tạo bằng phƣơng thức ghép.
Nhƣng nhƣ thế nào là “phƣơng thức ghép”? Chắc chắn “ghép” đây không
phải theo phƣơng thức cấu tạo của TN, từ ghép hoặc từ láy vì tác giả đã chỉ ra: “Về
ý nghĩa cũng nhƣ về hình thức cụm từ trên (tức là quán ngữ - chú thích của ngƣời
viết) chẳng khác gì cụm từ tự do nhƣng do nội dung của chúng đã trở thành điều
thƣờng xuyên phải cần đến trong sự suy nghĩ và diễn đạt mà chúng đƣợc dùng lặp
đi lặp lại nhƣ một đơn vị có sẵn” [10, tr.101].
Đặc điểm “không khác gì cụm từ tự do” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
quyết định sự khác nhau về hình thái cũng nhƣ nội dung của QN với các đơn vị từ
vựng khác.
Vũ Đức Nghiệu cũng quan niệm: “QN là những cụm từ đƣợc lặp đi lặp lại
trong các loại diễn từ (discourse) thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của
chúng là đƣa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh, hoặc để liên kết trong diễn từ”. Ví dụ:
“của đáng tội”, “nói bỏ ngoài tai”, “nói tóm lại”, “kết cục là”, “nói cách khác”,...
[18, tr. 161]. Vũ Đức Nghiệu đã đƣa ra một lƣợc đồ để minh họa nhƣ sau:
CỤM TỪ CỐ ĐỊNH


Ngữ cố định

Thành ngữ
(Mẹ tròn con vuông)

QUÁN NGỮ

Ngữ cố định định danh

(Của đáng tội)

(Mặt trái xoan)

16
Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

Qua lƣợc đồ, chúng ta có thể nhận thấy rằng tác giả dù có ý kiến khác và
thuật ngữ khác trong việc phân chia ngữ/cụm từ cố định những tác giả vẫn thống
nhất đặt QN vào một vị trí trong hệ thống cụm từ cố định.
Hữu Đạt có định nghĩa dựa vào nội hàm của thuật ngữ nên suy ý hơi rộng
nhƣng những ví dụ tác giả đã đƣa ra hoàn toàn phù hợp với lớp QN chúng tôi đang
bàn luận: “Theo nghĩa đen “quán” là “quen”. Vậy QN là một loại ngữ cố định đƣợc
ngƣời ta quen dùng. Ví dụ: “nói tóm lại”, “kết quả là”, “rốt cuộc”, “nói một cách
khác”, “ nói gọn lại là”, “trước hết”, “đáng chú ý là”, “không chóng thì chày”,
“mặt khác thì”...[...]. Nhƣ vậy nói khái quát thì QN là loại ngữ cố định đƣợc quen
dùng nhƣng ít hoặc không có tính hình tƣợng [9, tr. 77].

Ý kiến trên bổ sung cho phần nhận định về QN là chúng có ít hoặc không có
tính hình tượng. Thật vậy, với tƣ cách là đơn vị ngôn ngữ không có nghĩa thực mà
chỉ có nghĩa chuyên dụng thì việc đặt ra vấn đề “hình tƣợng” hoặc “biểu trƣng” là
vừa rất khó và cũng không thực tế.
Quan niệm này cũng tƣơng đồng với cách giải thích trong các từ điển tiếng
Việt mà chúng tôi đã tổng hợp. Theo đó, khác với TN, QN có ý nghĩa có thể suy ra
từ các thành tố tạo nên nó một cách trực tiếp. Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với ý kiến
này.
Ngoài các định nghĩa về thuật ngữ QN mà theo chúng tôi, còn có chỗ mơ hồ
về các ví dụ minh hoạ, hai công trình từ điển tiếng Việt giải thích các QN cụ thể
trong mục từ của mình là “cách dùng khẩu ngữ”, hoặc “dùng ở đầu câu”, hoặc
“dùng làm thành phần phụ câu”. Ví dụ, Từ điển tiếng Việt đã giải thích: “QN (nói)
của đáng tội là khẩu ngữ, dùng làm phần chêm trong câu. Tổ hợp biểu thị sự
chuyển ý để nhằm thanh minh hoặc làm rõ thêm cho điều ít nhiều không hay vừa
nói đến ở trên; và các ví dụ là nói cho đúng ra, cho thoả đáng, thực ra thì”.
Nhìn chung, hầu hết các tác giả khi nêu ra quan niệm về quán ngữ thƣờng
quan tâm đến hai vấn đề sau:

17
Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

+ Về hình thức, quán ngữ là tổ hợp từ cố định đƣợc dùng lặp đi lặp lại.
+ Về chức năng, quán ngữ dùng để đƣa đẩy, liên kết hoặc nhấn mạnh nội
dung cần diễn đạt nào đó.
1.2.2. Khái niệm quán ngữ tình thái tiếng Việt
Nhƣ đã nêu ở trên, đối tƣợng nghiên cứu mà chúng tôi chọn là những tổ hợp
từ, những lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay khuôn cấu trúc tƣơng đối ổn

định đƣợc ngƣời nói dùng nhƣ một công cụ có chức năng của những tác tử tình thái
tác động vào nội dung mệnh đề theo một kiểu nào đó. Sở dĩ chúng tôi gọi những tổ
hợp này là QNTT bởi về cơ bản chúng cũng có những đặc điểm về hình thức và ý
nghĩa của những tổ hợp từ gọi là QN đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận. Song, cũng dễ
nhận thấy, nội hàm khái niệm QNTT về một phƣơng diện nào đó, theo quan niệm
của chúng tôi, là hẹp hơn so với quan niệm của các nhà từ vựng học.
Vì lý do đó, ngƣời đọc có thể thấy trong danh sách các QNTT mà chúng tôi
thu thập vắng mặt rất nhiều tổ hợp mà mọi ngƣời quen gọi là QN nhƣng lại có thể
thêm nhiều tổ hợp, kết cấu trƣớc nay chƣa ai bàn đến và cũng không loại trừ khả
năng có những tổ hợp đã đƣợc nói đến nhƣng lại không đƣợc coi là QN. Chẳng hạn
các tổ hợp từ kiểu: hình như, có lẽ, tất nhiên, đương nhiên, có khi, vả lại,… mà
trƣớc nay các sách ngữ pháp vẫn gọi là phó từ, liên từ. Thiết nghĩ đây cũng là điều
dễ hiểu. Bởi lẽ, việc gọi những tên khác nhau cho cùng một đối tƣợng hay ngƣợc
lại, những đối tƣợng khác nhau đƣợc xếp vào cùng một khái niệm cũng là điều
thƣờng thấy. Nó phụ thuộc vào góc độ mà ngƣời ta chọn để xem xét đối tƣợng. Ở
đây, xin nhấn mạnh lại là tiêu chí đầu tiên và cũng là quan trọng nhất đối với các tổ
hợp từ đƣợc chúng tôi tập hợp để nghiên cứu trong luận văn này là khả năng biểu
đạt các ý nghĩa tình thái. Dùng khái niệm QN của từ vựng học, thực ra chúng tôi
chỉ muốn nhấn mạnh đến tính chất “khối” tƣơng đối ổn định và quen dùng của
chúng mà thôi. Và nhƣ vậy, chúng tôi rút ra đƣợc một số đặc điểm về bản chất của
QNTT tiếng Việt nhƣ sau:

18
Footer Page 25 of 126.


×