Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

“Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền 1930 1945”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.06 KB, 30 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đảng ta ra đời giữa lúc cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng của chủ
nghĩa tư bản đang ảnh hưởng đến Đông Dương. Đế quốc Pháp trút tất cả gánh
nặng của cuộc khủng hoảng đó lên vai nhân dân ta.
Khủng hoảng kinh tế, sự tăng cường bóc lột thuộc địa, chính sách
khủng bố trắng, và sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2/1930) làm cho mâu thuẫn
giữa nhân dân ta và đế quốc pháp càng sâu sắc. Không khí chính trị ngột ngạt
như bầu trời trước cơn giông tố. Nhưng thật lạ thường, chính lúc ấy cách
mạng Việt Nam lại nổ ra “trận chiến đấu rung trời chuyển đất; trong đó công
nông đã vung ra nghị lực phi thường”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và đồng chí Nguyễn Ái Quốc, hàng chục
triệu nông dân, công nhân, tiểu tư sản, trí thức yêu nước và các tầng lớp nhân
dân khác ở ba miền Bắc – Trung – Nam đã liên tục vùng lên đấu tranh đòi
Pháp và bọn tay sai bỏ sưu, giảm thuế, cứu đói, thực hiện tự do, dân chủ…
Cao trào đã kéo dài trên một năm, diễn ra trên 25 tỉnh thành ở cả 3 miền đất
nước và đạt tới đỉnh cao trên đất Nghệ - Tĩnh.
Cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh nổ ra với khí thế rung trời lở đất, đó là sự
kết hợp tinh thần yêu nước, sự kiên cường, bất khuất của nhân dân Nghệ Tĩnh.
Khí thế đó đã được Báo Công luận xuất bản ở Sài Gòn thừa nhận rằng:
Người Pháp không thể ngăn chặn được phong trào đấu tranh ở Việt Nam bằng
bạo lực, “bởi vì khi quân đội đàn áp rút khỏi thì những người còn sống sót
trong các làng lại từ bụi rậm và đáy sông nhảy ra tổ chức lại các xô viết”.1

1

Lịch sử Đảng bộ Đảng CSVN tỉnh Nghệ Tĩnh, NXB Nghệ Tĩnh, Vinh, 1984, tập 1.

1



Trong bài Nghệ - Tĩnh đỏ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định:
“Nhân dân Nghệ - Tĩnh có tiếng cứng đầu. Trong thời kì Pháp xâm lược cũng
như trong các phong trào cách mạng quốc gia (1905 - 1925) Nghệ - Tĩnh đã
nổi tiếng. Trong cuộc đấu tranh hiện nay, công nhân và nông dân Nghệ Tĩnh vẫn giữ vững truyền thống cách mạng của mình”.2
Xô viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước
ta vào những năm 1930 - 1931, là sản phẩm lịch sử của nhân dân lao động
dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Xô viết Nghệ - Tĩnh xuất hiện trong điều kiện lịch sử chưa chín muồi,
vì vậy ngay từ đầu nó đã phải đương đầu với cuộc tiến công phản cách mạng
của thực dân Pháp và tay sai. Tuy nhiên Xô viết Nghệ - Tĩnh đã giúp quần
chúng cách mạng khẳng định niềm tin. Niềm tin đó đã thành hiện thực bằng
cuộc cách mạng tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà
nước cách mạng Việt Nam ra đời.
Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu Xô viết Nghệ - Tĩnh trong cao trào
cách mạng 1930 - 1931, nhận thức đúng truyền thống cách mạng của nhân
dân Nghệ - Tĩnh là việc làm cần thiết, nhằm góp phần vào việc giáo dục và
phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng vẻ vang của nhân
dân ta.
Em xin chọn đề tài này để kết thúc học phần: “Đảng lãnh đạo cuộc đấu
tranh giành chính quyền 1930 - 1945” của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
• Làm rõ tính chuyển biến phong phú về nội dung, đặc sắc về hình
thức với tất cả những đặc điểm gắn liền với tự nhiên và con
người Nghệ - Tĩnh.
2

Các tổ chức tiền than của Đảng, ban nghiên cứu LSĐTW, Hn, 1977, trang 41.

2



• Làm rõ sự phát triển tất yếu của lịch sử Nghệ - Tĩnh đặt trong
mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử của cả nước.
• Góp phần vào việc giáo dục và phát huy truyền thống cách mạng
vẻ vang của nhân dân ta.
• Rút ra bài học kinh nghiệm.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
• Nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử nước ta sau khi Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời
• Trình bày nguyên nhân, diễn biến, kết quả của Xô viết Nghệ Tĩnh trong cao trào cách mạng 1930 - 1931.
• Phân tích ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cao trào Xô
viết Nghệ - Tĩnh trong sự vận động và phát triển của lịch sử dân
tộc.
4. Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét các sự vật hiện
tượng qua các giai đoạn cụ thể của nó, sự ra đời và phát triển các
sự vật hiện tượng.
• Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng
trong các hình thức tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, quy luật,
khuynh hướng chung trong sự vận động của cái khách quan được
nhận thức này.

3


B. NỘI DUNG
I. CAO TRÀO CÁCH MẠNG 1930 – 1931
1. Hoàn cảnh lịch sử
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 nổ ra trong thời kì cuộc khủng hoảng
kimh tế thế giới đang diễn ra trầm trọng, gây ra những hậu quả nặng nề.

Những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày càng trở nên gay gắt, mâu
thuẫn giữa công nhân với chủ tư bản, nông dân với địa chủ, giữa các nước đế
quốc với nhau ngày càng lớn. Phong trào đấu tranh của nhân dân các nước tư
bản và thuộc địa rất mạnh mẽ. Thời kì tạm ổn định của chủ nghĩa tư bản kết
thúc.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 tác động không nhỏ đến
kinh tế nước Pháp, đặc biệt trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và tài
chính. Cuộc khủng hoảng đó lan nhanh đên các nước thuộc địa trong đó có
Việt Nam.
Để bù đắp những thiệt hại do cuộc khủng hoảng gây ra, thực dân Pháp
tăng cường vơ vét, bóc lột. Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc kinh tế Pháp nên
chịu hậu quả nặng nề và sa sút nghiêm trọng. Xuất nhập khẩu đình đốn, giá cả
tăng vọt, nạn thất nghiệp tăng. Đời sống của mọi tầng lớp nhân dân lao động
đều bị cực khổ, đặc biệt là công nhân và nông dân. Chỉ riêng ở Bắc Kì năm
1931 có 25.000 công nhân thất nghiệp. Nông dân ngày càng bị bần cùng hóa.
Họ chịu sưu cao thuế nặng, nạn đói hoành hành nhiều nơi. Tầng lớp tiểu tư
sản ở thành thị bị điêu đứng, nhà buôn bị phá sản, viên chức bị sa thải hàng
loạt…
Cùng với vơ vét, bóc lột, thực dân Pháp thi hành chính sách khủng bố,
đàn áp dã man. Ngay từ năm 1929, tên toàn quyền Pasques đã mở nhiều phiên
tòa xét xử những người yêu nước. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9/2/1930),
thực dân Pháp thực hiện chính sách khủng bố trắng đẫm máu đối với nhân
dân ta.
Theo tài liệu của Nguyễn Ái Quốc về khủng bố trắng ở Đông Dương
ngày 19/2/1931 có: 187 tù chính trị ở các nhà lao tỉnh Thái Bình; 201 đảng

4


viên ở nhà lao Hà Nội; 414 tù chính trị bị đem đi đày; tòa án đặc biệt xử 201

tù chính trị ở Hà Nội. Riêng ở Bắc kì và Trung kì, số người bị bắt là 350
người…
Sự đè nén, khủng bố trắng của thực dân Pháp đã gây nên một bầu
không khí chính trị căng thẳng làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế
quốc Pháp ngày thêm sâu sắc. Chính điều đó đã đẩy cuộc đấu tranh của nhân
dân ta dâng lên mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn để giành lấy quyền sống. Vì “sự
áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu
rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”.
Giữa lúc đó, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, xác định:
nhiệm vụ trước mắt là phải lấy những sự nhu yếu hàng ngày làm bước đầu mà
dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng…để dự bị họ về
phía võ trang bạo động sau này. “Trách nhiệm của Đảng là phải dự bị đảng và
quần chúng về cuộc vũ trang bạo động toàn thắng về sau này, nên phải nhân
hoàn cảnh thuận tiện hiện nay, khủng hoảng kinh tế, chính trị, chính sách dã
man của đế quốc mà kích thích lãnh đạo quần chúng đấu tranh, hướng quần
chúng về mặt chính trị tranh đấu, tuyên truyền rộng, lâu trong quần chúng
những khẩu hiệu chính của tư sản dân quyền cách mạng, nhưng không phải là
chủ trương bạo động địa phương, bạo động non, sớm”.3
2.Diễn biến và ý nghĩa
Trước cuộc khủng bố dã man của thực dân Pháp, những người cộng sản
và nhân dân ta ở nhiều nơi đứng lên đấu tranh bảo vệ những người yêu nước.
Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng
(3/1930), của công nhân nhà máy sợi Nam Định (4/1930), của công nhân nhà
máy đóng tàu Ba Son, nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm Bến Thủy (4/1930).
Nhân ngày 1/5/1930, Đảng cộng sản Việt Nam phát động phong trào
đấu tranh rộng lớn. Công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động trong cả
nước sôi nổi hưởng ứng. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn đều xuất hiện cờ đỏ búa liềm, truyền đơn
đòi tăng lương, bớt giờ làm cho công nhân, giảm sưu thuế cho nông dân.
3


Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 56.

5


Ở Bắc kì có cuộc đấu tranh của công nhân khu mỏ Hòn Gai. Nông dân
các huyện Duyên Hà, Tiên Hưng (Thái Bình) biểu tình đòi giảm thuế.
Ở Trung kì, nông dân các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam,
Bình Định, Khánh Hòa nổi dậy đấu tranh. Cuộc biểu tình lớn của công nhân
thành phố Vinh-Bến Thủy, của nông dân các huyện Hưng Nghuyên, Nghi Lộc
mở đầu đợt đấu tranh quyết liệt ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh vào những tháng
sau.
Ở Nam kì, đấu tranh của công nhân nhà máy điện Chợ Quán (Sài Gòn),
nhà máy xe lửu Dĩ An, của nông dân Đức Hòa (Chợ Lớn), Cao Lãnh (Sa
Đéc), Chợ Mới (Long Xuyên), Gia Định, Vĩnh Long, Cần Thơ, Bến Tre…
Các cuộc đấu tranh ngày 1/5/1930 là bước ngoặt phong trào cách mạng
1930 - 1931. Công - nông Việt Nam đấu tranh không chỉ đòi quyền lợi cho
mình, mà còn thể hiện tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động thế
giới.
Sau đó phong trào đấu tranh tiếp tục dâng cao. Từ tháng 6 đến tháng 8
năm 1930, cả nước đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh (Bắc kì: 17, Trung kì: 82,
Nam kì: 22). Trong đó có 22 cuộc đấu tranh của công nhân, 95 cuộc đấu tranh
của nông dân, 4 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Những ngày tháng 8 - 1930, khí thế của quần chúng được cổ vũ thêm
bằng khẩu hiệu kỷ niệm ngày chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ liên
bang Xô Viết. Truyền đơn xuất hiện ở hầu hết các thành phố lớn trong cả
nước, như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn. Các cuộc biểu tình tái diễn ở Vĩnh
Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Long Xuyên…
Trong dịp kỉ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, chiều ngày 6 /11/1930

đã xuất hiện cờ đỏ ở nhà máy nước Hàng Đậu (Hà Nội), truyền đơn được rải
khắp thành phố.
Bước sang năm 1931, do chính quyền thực dân khủng bố, phong trào
giảm sút. Tuy vậy, ở Nam kì phong trào vẫn tiếp tục sôi nổi. Suốt trong tháng
1 - 1931, công nhân hãng dầu Xtanđa - Nhà Bè, công nhân nhà in Văn Võ
Văn - Sài Gòn, công nhân sở Xen - Mỹ Tho, công nhân hãng FACM - Sài

6


Gòn đã tổ chức bãi công, mít tinh, biểu tình. Nông dân các tỉnh Bến Tre, Trà
Vinh, Gia Định đòi cải thiện đời sống.
Từ tháng 2 đến tháng 4 -1931, các cuộc biểu tình của nông dân nổ ra ở
Bạc Liêu, Bến Tre, Long Xuyên. Nhân ngày 1-5-1931, nông dân nổi dậy ở
Thạch Phú (Bến Tre), Đức Hòa (Chợ Lớn), Châu Đốc. Công nhân Nhà Bè –
Sài Gòn vùng dậy trong hai ngày 16 và 24-3.
Riêng ở Bắc kì, từ đầu năm 1931 phong trào lắng dần. Những đợt song
dâng cao ở Hải Phòng, Hà Nội từ 23 đến 27-1 là những đợt sóng đấu tranh
cuối cùng trước khi bước vào thoái trào.
Phong trào cách mạng 1930 - 1931 có vị trí lịch sử quan trọng trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ở nước ta. Từ trong
phong trào này khối liên minh công nông hình thành, lần đầu tiên công nhân
và nông dân thực sự bắt tay nhau trong đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. “Thắng lợi lớn nhất của Đảng ta trong cao trào cách mạng 1930 1931 là Đảng đã thực hiện được khối liên minh công nông, do đó đã giành
được quyền lãnh đạo cho giai cấp công nhân”.
Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cách mạng 1930 - 1931 đã được
Đảng ta tổng kết: “Thành quả lớn nhất của phong trào 1930 - 1931 – thành
quả mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến sau đó đã
không thể xóa nổi – là ở chỗ nó phủ định trong thực tế quyền lãnh đạo và
năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta, là ở

chỗ nó đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản; đồng
thời đem lại cho đông đảo quần chúng công nông lòng tự tin ở sức lực vĩ đại
của mình…Đó là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn
bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng. Trực tiếp mà nói, không có
những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930 - 1931,
trong đó công nông đã “vung ra nghị lực phi thường” của minh thì không thể
có cao trào những năm 1936 - 1939”4
Cao trào cách mang 1930 - 1931 là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng và
quần chúng cách mạng chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
4

Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì cnxh, Nxb Sự Thật, HN, 1975, trang 36

7


II. XÔ VIẾT NGHỆ - TĨNH
1. Nguyên nhân
Nghệ -Tĩnh là hai tỉnh bị thực dân Pháp và phong kiến Nam triều thi
hành chính sách bóc lột, đàn áp dã man nhất trong cả nước. Trong bài NghệTĩnh đỏ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết: “địa thế hai tỉnh nhiều rừng núi, đất
đai cằn cỗi, nông giang chẳng có, ở đây thường xảy ra lụt bão. Do đó nhân
dân đói khát và nơi ăn chốn ở rất khổ sở, sưu thuế nặng nề và nạn áp bức
chính trị làm cho cảnh ngộ của họ càng cùng cực hơn”. Sự áp bức, bóc lột của
thực dân Pháp đối với nhân dân Nghệ - Tĩnh làm cho mâu thuẫn giữa nhân
dân với thực dân Pháp càng gay gắt, thúc đẩy phong trào cách mạng ở đây
phát triển đến cực điểm.
Nơi đây có thành phố Vinh – Bến Thủy là trung tâm công nghiệp,
thương mại và văn hóa của các tỉnh phía Bắc Trung Kì và có quan hệ mật
thiết với Lào. Do vậy số lượng giai cấp công nhân ở Vinh tăng nhanh và
tương đối tập trung. Đến năm 1930 ở Vinh – Bến Thủy đã có hơn 4000 công

nhân làm việc trong các nhà máy xí nghiệp
Sau khi nhận thấy cách hoạt động theo lối cũ của các sĩ phu lớp trước
như Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính không còn đáp ứng yêu cầu mới. Năm
1923 Phạm Hồng Thái, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong đã lập ra Tân Việt
Thanh niên đoàn (tức tâm tâm xã). Ngày 14/7/1925, một số trí thức yêu nước
ở Nghệ - Tĩnh như Tôn Quang Phiệt, Lê Văn Huân, Trần Phú…đã nhóm họp
ở Vinh lập ra hội Phục Việt.
Cùng với tâm tâm xã ở ngoài nước, sự ra đời của hội Phục Việt ở trong
nước đã góp phần tích cực vào việc khuấy động tinh thần yêu nước trong
nhân dân, tạo thuận lợi cho trào lưu tư tưởng mới thâm nhập vào phong trào
yêu nước ở nước ta.
Giữa năm 1930, phân cục Trung ương cử Nguyễn Đức Cảnh, bí thư xứ
ủy Bắc Kì vào công tác ở Trung Kì. Trụ sở chính của xứ ủy Trung Kì trong
các năm 1930-1931 đặt tại thành phố Vinh. Mặt khác, Nghệ - Tĩnh có số
lượng Đảng viên đông, lực lượng Đảng của Kì bộ Trung Kì trong các năm

8


1930 - 1931 là 1306 Đảng viên, trong đó có 54 đồng chí thành phần công
nhân, còn lại hầu hết là nông dân.
Nghệ - Tĩnh là một vùng đất dài và rộng, có miền núi, trung du, đồng
bằng và ven biển. Phía đông có biển rộng bao la, phía tây có dãy Trường Sơn
hùng vĩ. Đây là vùng đất có cấu tạo đia hình, địa chất và khí hậu đa dạng,
nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú. Núi đồi rải khắp các huyện trong
tỉnh, xen kẽ với ruộng đất ở đồng bằng và ven biển, tạo ra thế nông lâm kết
hợp và cảnh quan đẹp mắt. Về sông ngòi có hệ thống sông Lam, gồm 151
sông lớn nhỏ, trong đó có các phụ lưu chính là sông Nậm Nin, sông Hiếu,
sông Giăng, sông La…Mạng lưới sông ngòi này đã tạo thuận lợi cho giao
thông, cho việc xây dựng các công trình thủy lợi và thủy điện.

Thiên nhiên ưu đãi cho Nghệ - Tĩnh, nhưng cũng gây ra cho ở đây
không ít chướng ngại. Đất phù sa ở đồng bằng, đất cát ven biển, đất chua,
mặn chiếm gần môt phần tư diện tích, lại là nơi tập trung đông dân cư, nói
chung là độ màu mỡ kém. Địa hình phức tạp, tạo ra nhiều vùng tiểu khí hậu
khác nhau. Độ dốc cao, lượng mưa lớn, hàng năm đã bào mòn, rửa trôi một
lượng màu mỡ của đất. Nghệ - Tĩnh cùng chịu chung một chế độ khí hậu
nhiệt đới gió mùa ẩm ướt, nhưng do vị trí địa lí, đặc điểm địa hình nên mùa hạ
quá khô nóng, các đợt gió Tây Nam gây bốc hơi lớn, mùa đông - xuân quá ẩm
ướt, hạn hán bão lụt thường xuyên xảy ra gây ảnh hưởng xấu tới năng suất
cây trồng, vật nuôi và đến cả sinh hoạt của con người.
Nơi đây đất rộng người đông, địa thế hiểm trở, thuận lợi cho cả tiến
công và phòng thủ. Trong cuộc chiến đấu chống giặc giữ nước hàng ngàn
năm của dân tộc, Nghệ - Tĩnh trở thành vùng chiến lược quan trọng của đất
nước. Nơi đây có lúc là bãi chiến trường, là chỗ dựa lúc phòng thủ, là nơi
đứng chân để tích lũy lực lượng, là nơi xuất phát của các cuộc tiến công áp
đảo quân thù.
Từ những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử đã kết tinh lại ở Nghệ Tĩnh những truyền thống, phẩm chất, phong cách tốt đẹp mà biểu hiện tập
trung nhất là tinh thần anh dũng, kiên cường, cần kiệm, giản dị, kiên trì bền

9


bỉ, thuần hậu chân thành, cương trực khảng khái, tận tụy trung thành, giàu đức
hi sinh và có tinh thần đoàn kết cộng đồng cao.
Tất cả những nguyên nhân trên đã thúc đẩy phong trào cách mạng ở
Nghệ - Tĩnh nổ ra mạnh mẽ nhất trên cả nước.
2. Diễn biến và kết quả
Xô Viết Nghê – Tĩnh là tên gọi cho phong trào đấu tranh của công
nhân, nông dân Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930 - 1931. Tên gọi là Xô
Viết Nghệ - Tĩnh xuất phát từ sự hình thành các “xã bộ nông” mà các nhà

lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam gọi là “Xô viết”.
Xô viết Nghệ - Tĩnh được mở đầu bằng cuộc biểu tình kỷ niệm ngày 1 5 tại khu vực Vinh – Bến Thủy. Công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, công
nhân các nhà máy diêm, cưa, điện Vinh – Bến Thủy và nông dân các huyện
Hưng Nguyên, Nghi Lộc đã sát cánh bên nhau đấu tranh.
Sau ngày 1-5, tại các vùng nông thôn như Nghi Lộc, Anh Sơn, Nam
Đàn, Quỳnh Lưu, Đô Lương, những cuộc biểu tình của nông dân diễn ra
thường xuyên. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 300 nông dân Quỳnh Lưu ngày
20-6 đòi quyền lợi cho những người làm muối. Trong tháng 7-1930, ở Nghệ Tĩnh nổ ra 11 cuộc biểu tình lớn có trên 12.000 người tham gia.
Sang tháng 8, quần chúng không chỉ có đưa đơn thỉnh cầu hay yêu
sách,mà còn có cả những cuộc đập phá công trường, sở ruợu, dùng áp lực
buộc bọn quan lại sở tại phải hứa thực hiện đòi hỏi của nhân dân, đã diễn ra ở
Can Lộc (4 - 8), Nam Đàn (6 - 8)…Ngày 12 - 8, nhân dân Thanh Chương kéo
đến huyện lị phá nhà giam, giải thoát tù chính trị, đốt giấy tờ sổ sách.
Ngày 12/9/1930, đợt sóng đấu tranh dâng lên mạnh mẽ. Tại Hưng
Nguyên hơn 8000 nông dân kéo đến phủ lỵ tổ chức một cuộc biểu tình lớn với
mục đích ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Bến Thủy, hưởng ứng những
cuộc đấu tranh của nông dân các nơi. Đoàn biểu tình xếp hàng dài hơn 1km
kéo đến thành phố Vinh, dẫn đầu là những người cầm cờ đỏ, hai bên là đội
viên tự vệ được vũ trang bằng dao, gậy. Dòng người được bổ sung thêm, tới
gần Vinh đoàn lên tới 30 ngàn người và xếp thành hàng gần 4km.

10


Năm máy bay Pháp được điều đến dội bom và xả súng liên thanh vào
đoàn biểu tình, làm chết 174 người. Ngày hôm sau, khi dân làng tổ chức đưa
tang những người bị hại, thực dân Pháp lại cho máy bay đến ném bom, làm
chết thêm 43 người. Như vậy trong hai ngày 12 và 13 tháng 9 - 1930 thực dân
Pháp giết hại 217 người, bị thương 125 người, đốt cháy 277 nóc nhà. Hai làng
Lộc Châu và Lộc Hải bị triệt hạ hoàn toàn.


Hình 1: Cao trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh.
Ngày 12 - 9 đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam và trở thành
ngày căm thù, tưởng niệm những người đã ngã xuống vì Tổ quốc.
Thấy tình hình “quá nguy ngập”, chúng đã tức tốc quay về Huế bàn kế
hoạch lập lại trật tự vùng này. Chúng cử Bônnôm, chánh thanh tra chính trị
của Tòa Khâm sứ Trung Kỳ và Tôn Thất Đàn, Thượng thư Bộ Hình ra trực
tiếp chỉ huy đàn áp phong trào ở Nghệ - Tĩnh. “Hữu Nghệ - Tĩnh bất phú, vô
Nghệ - Tĩnh bất bần”, lời tuyên chiến của Tôn Thất Đàn mưu toan xóa sổ
Nghệ - Tĩnh đã tiếp sức cho bọn tay chân của chúng điên cuồng gây thêm
những tội ác mới. Đó cũng là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tính kịch liệt của
các cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân. Chỉ trong hai tháng 9 và 10 năm
11


1930, toàn Nghệ - Tĩnh đã có 316 cuộc đấu tranh, trong đó nông dân có 306
cuộc. Số lượng các cuộc đấu tranh từng tháng, từ tháng 2-1930 đến tháng 10 1931 ở Nghệ - Tĩnh được phản ánh trong bảng thống kê sau:
Bảng thống kê phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân ở Nghệ
Tĩnh năm 1930 - 19315.
Các cuộc đấu
Số cuộc đấu tranh
tranh đã
Quy mô đấu tranh Ghi
Phân Năm
được xác
chú

tháng
minh
phong

Toàn Công Nông Số
Người Huyện Tổng Xã
Nghệ nhân dân cuộc tham
Tĩnh
gia
1930
Chủ
Thời
2
2
1
1
1 yếu là
kì xây
3
4
4
3
170
đòi
dựng
4
12
7
5
3
900
5
dân
cơ sở

sinh
Đảng
dân
và tổ
chủ tối
chưc
thiểu
quần
chúng
Thời
5
18
4
14
9
5.720
3
3
14
Từ
kì đầu
6
25
4
21
12 19.870
6
3
12
biểu

của
7
18
5
13
5
1.800
1
12
tình
cao
8
33
6
27
18 11.580
4
4
19
hòa
trào
bình
cách
đến
mang
chuẩn
bị
chống
đàn áp
Thời

9
162
9
153
82 124.25
13
26 114


10
154
1
153
42
0
18 135 1.072
thành
11
103
103
10 22.740
2
5
96 cuộc
lập các
12
101
3
98
38 11.495

2
10
86
đấu

1931
38.837
tranh
Viết
trực
5

Xem Lịch sử Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ - Tĩnh, Vinh, 1984, tập 1, trang 380.

12


Các cuộc đấu
Số cuộc đấu tranh
tranh đã
Quy mô đấu tranh
Phân Năm
được xác

tháng
minh
phong
Toàn Công Nông Số
Người Huyện Tổng Xã
Nghệ nhân dân cuộc tham

Tĩnh
gia

Ghi
chú

tiếp ở
các
làng


Thời
kì đấu
tranh
chống
khủng
bố

1
2
3
4
5

82
124
122
213
150


2
1
1
2
3

80
123
121
211
147

22
18
22
54
36

9.090
13.500
7.985
32.490
22.015

6
7
8
9
10


49
35
24
6
5

1
1
-

48
35
24
5
5

17
12
5
1

8.150
1.468
1.115
3.000

2
1

6

9
8
9
9
3
1
-

74
115
113
20
2
137
45
34
24
5
5

Bảo
toàn
lực
lượng
và rút
dần
vào bí
mật

Về sau phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ - Tĩnh dâng cao, phát

triển thành cuộc đấu tranh vũ trang, làm cho hệ thống chính quyền của đế
quốc, phong kiến bị tê liệt và tan rã nhiều nơi. Tên toàn quyền Robin đã phải
thừa nhận: “Họ hoàn toàn bất lực, chẳng làm được điều gì để ngăn cản sự mở
rộng của phong trào. Chính quyền bản xứ thuộc các cấp trong tỉnh đều tê liệt,
không thể nêu tên một người cầm đầu nào, không thể nhờ cậy vào một sự trợ
giúp nào của các chức trách cấp tổng và xã, khiến người ta có cảm giác rằng
họ đã mất hết tất cả uy quyền trên đám quần chúng mà họ cai trị. Sự sợ hãi
làm tê liệt các ông quan, các ông này chui vào nhà và chỉ lo có mỗi một việc
phòng vệ cho chính bản thân của họ. Mỗi khi các ông tri phủ, tri huyện đi

13


tuần theo quân đội hoặc lính bản xứ, họ đi mà mình mẩy, chân tay run lẩy
bẩy”.
Trước tình hình chính quyền địch tan rã, mặc dù Trung ương Đảng
chưa có chủ trương giành chính quyền lúc này, các chi bộ Đảng và Nông hội
đỏ đã đứng ra quản lý và điều hành mọi hoạt động ở làng, xã thuộc các huyện
Nam Đàn, Hưng Nguyên, Thanh Chương, Diễn Châu (Nghệ An); Can Lộc,
Thạch Hà, Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Một hình thức mới của chính quyền xuất
hiện ở Việt Nam: Xô viết Nghệ Tĩnh. Đó là những “Xô viết nông dân” do giai
cấp công nhân lãnh đạo. Chính quyền mới ra đời đã thực hiện quyền tự do,
dân chủ cho nhân dân, tổ chức sản xuất, xây dựng nếp sống văn hóa mới.
Về chính trị: Đốt sổ sách, văn tự, khế ước của chính quyền thực dân.
Ban bố các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân như tự do hội họp, đi học, nam
nữ bình đẳng. Tổ chức giáo dục chính trị cho nhân dân và động viên mọi
người phát huy vai trò làm chủ trong việc xây dựng, quản lý xã hội mới, trừng
trị bọn phản cách mạng, giữ vững trật tự, trị an.
Về kinh tế: Không nộp sưu thuế cho Pháp, buộc các tổng lý phải trả
cho nhân dân số tiền thuế đã thu, buộc các chủ ruộng và các nhà giàu phải

hoãn nợ, giảm tô, bỏ các khoản phụ thu cho nông dân. Chia lại ruộng đất
công. Vận động nhân dân đắp đập, đào mương tát nước chống hạn. Một số
nơi lấy lại ruộng đất công tổ chức nhân dân sản xuất tập thể theo hình thức
hợp tác xã nông nghiệp.
Về văn hóa, xã hội: Bài trừ hủ tục mê tín dị đoan, trừng trị bọn lưu
manh trộm cắp, tổ chức việc ma chay, cưới xin, giỗ tết theo lối sống mới, giúp
đỡ nhau khi hoạn nạn, khó khăn.
Những chính sách và biện pháp trên của chính quyền Xô Viết đã tạo ra
một nét mới trong nông thôn Nghệ - Tĩnh từ tháng 9 - 1930 đến đầu năm
1931. Phong trào Xô Viết là “phong trào quần chúng mạnh lớn xưa nay chưa
từng có ở nước ta”6 có ảnh hưởng lớn đến cuộc đấu tranh trong nước và có
tiếng vang trên thế giới.

6

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 9.

14


Tuy nhiên, lúc này tương quan lực lượng phong trào cách mạng của
nhân dân với đế quốc và phong kiến còn chênh lệch lớn. Địch đang rất mạnh
nên tuy hoảng sợ trước sức mạnh to lớn của quần chúng Nghệ - Tĩnh, đế quốc
Pháp điên cuồng khủng bố trắng quyết dìm “các làng đỏ” trong biển máu.
Chúng điều binh lính Pháp và lính lê dương từ nhiều nơi đến Nghệ - Tĩnh
thay thế cho binh lính người Việt. Đồn bốt địch dày đặc khắp nơi. Xảo quyệt
hơn, chúng còn mở các chiến dịch “chiêu hàng”, “rước cờ vàng”, phát “thẻ
quy thuận” đánh vào tâm lý mệt mỏi của một bộ phận quần chúng nhân dân,
cô lập Đảng.
Trung ương Đảng đã chỉ đạo các địa phương chuyển hướng hoạt động

và chuyển hướng tổ chức nhằm củng cố ảnh hưởng của Đảng và của Xô Viết
trong quần chúng ở những nơi đã lập ra Xô Viết. Huy động nhân dân cả nước
ủng hộ, bênh vực, bảo vệ “Nghệ - Tĩnh đỏ”, phản đối hành động đàn áp dã
man của đế quốc Pháp đối với nhân dân Nghệ - Tĩnh.
Trung ương Đảng xác định: Nhiệm vụ trước mắt của Đảng phải lãnh
đạo quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách mạng, “duy trì kiên
cố ảnh hưởng của Đảng, của Xô Viết trong quần chúng để đến khi thất bại thì
ý nghĩa Xô viết ăn sâu vào trong đầu óc quần chúng và lực lượng của Đảng và
nông hội vẫn duy trì”7.
Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang hoạt động ở nước ngoài, nhưng Người
luôn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước. Người đã góp ý kiến
với Ban Chấp hành Trung ương Đảng về lãnh đạo phong trào cách mạng, về
công tác Đảng và công tác quần chúng. Người đề nghị Quốc tế cộng sản,
Quốc tế nông dân…giúp đỡ phong trào cách mạng của nhân dân ta. Người chỉ
rõ mục tiêu trước mắt của cuộc đấu tranh là giành quyền lợi hàng ngày chứ
không phải tiến hành một cuộc khởi nghĩa địa phương.
Những chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng, của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, có ý nghĩa to lớn đối với việc giữ gìn thành quả của cách mạng, phát

7

Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 83.

15


huy ảnh hưởng rộng lớn của phong trào, hạn chế được những tổn thất do kẻ
địch gây ra.
Phong trào cuối cùng bị kẻ thù dập tắt. Nguyên nhân chính là do nó nổ
ra chưa đúng thời cơ. Năm 1930, tại Nghệ - Tĩnh đã có một số điều kiện thúc

đẩy nhân dân hai tỉnh nổi dậy nhưng tình thế cách mạng trong cả nước chưa
chín muồi. Hơn nữa, Xô Viết Nghệ - Tĩnh nổ ra khi Đảng vừa mới ra đời,
chưa có mấy kinh nghiệm nên không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm.
III. XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH – ĐỈNH CAO CỦA CAO TRÀO
CÁCH MANG 1930 – 1931.
1. Nghệ - Tĩnh
Sở dĩ Xô Viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của cao trào cách mạng 1930 1931, bởi nơi đây đã hình thành những điều kiện thuận lợi thúc đẩy phong
trào tất yếu phát triển và phát triển mạnh mẽ.
Thứ nhất, đó là những nhân tố kinh tế - xã hội mới nảy sinh:
Từ các hiệp ước đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn ký với thực dân
Pháp vào những năm 1883 - 1884 và sự chấm dứt phong trào Cần Vương cuối
thế kỷ XIX đến cuộc hòa hoãn tạm thời của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám vào
đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cho là đã căn bản hoàn thành công việc xâm
lược và bình định của chúng ở Việt Nam và có thể bắt tay vào việc khai thác
thuộc địa này.
Trước năm 1897, thực dân Pháp vừa thăm dò, vừa khai thác tài nguyên
ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Đầu tiên là Giăng Đuy Puy đặt một trạm mua và xẻ
gỗ tại Bến Thủy, chỉ trong 3 năm đầu đã khai thác một khối lượng tre, nứa trị
giá 5.000 đồng để bán đi các nơi.
Để phục vụ cho việc cai trị và khai thác tài nguyên, lấy Vinh – Bến
Thủy làm trung tâm, Pháp huy động nhân lực tại địa phương xây dựng một hệ
thống giao thông thủy bộ
Năm 1893 làm đường bộ Vinh - Cửa Rào - Trấn Ninh.
Năm 1900 khởi công đoạn đường xe lửa Vinh - Hà Nội.
Năm 1913 làm đường Vinh - Cửa Hội - Cửa Lò.
Năm1915 làm đường xe lửa Vinh - Đông Hà.
Năm 1929 làm sân bay Vinh.

16



Về công nghiệp, trước năm 1897 thành phố Vinh – Bến Thủy hầu như
chưa có xí nghiệp nào. Đến năm 1926 cả trung tâm thành phố có 20 nhà máy
lớn nhỏ, trong đó có nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi - một trong ba nhà
máy sửa chữa ở Việt Nam làm nhiệm vụ đại tu đầu máy xe lửa trên tuyến
đường sắt Trung Kỳ. Đến những năm 1917 - 1930, Vinh – Bến Thủy trở
thành một khu công nghiệp lớn của Trung Kỳ, là nơi có 20 nhà máy tập trung
khoảng 7.000 công nhân.
Cùng với việc xây dựng trung tâm kinh tế Vinh – Bến Thủy và hệ
thống giao thông vận tải là việc thực dân Pháp cướp đất lập đồn điền.
Ở Thanh Chương từ năm 1920 tên Sapahơ bao chiếm cả một vùng rộng
lớn ở Lạc Sơn. Ở nhiều huyện thuộc tỉnh Hà Tĩnh, thực dân Pháp cũng trắng
trợn cướp đoạt ruộng đất của nông dân để lập đồn điền. Tên tư bản Pháp Xidê
chiếm trên 300 mẫu đất ven biển huyện Nghi Xuân trồng phi lao thu lợi. Ở
huyện Hương Sơn, tư bản Pháp cũng lập nhiều đồn điền như Sông Con của
Phơrây, Hà Tân - Hà Thượng của Boocđê…
Như vậy, do việc tăng cường đầu tư, khai thác thuộc địa cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX đã dần hình thành ở Nghệ - Tĩnh những loại hình lao
động mới. Đó là những người công nhân làm thuê trong các khu công nghiệp,
trên các tuyến đường giao thông, trong các đồn điền tư bản Pháp. Đây là tầng
lớp lao động mới, chủ yếu được hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ 2, sau chiến tranh lần thứ nhất. Thực tế cuộc sống ở các làng xã rồi cuộc
sống ở các khu lao động mới đã giúp người nông dân, người lao động hiểu
thấu bản chất của đế quốc và phong kiến. Họ mong ước được thay đổi cuộc
đời, đó chính là những thuận lợi để những người cách mạng tuyên truyền và
vận động phát triển cơ sở.
Văn hóa giáo dục cũng là một nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy
phong trào giải phóng dân tộc ở Nghệ - Tĩnh. Ở Nghệ - Tĩnh đến năm 1930,
thực dân Pháp buộc phải mở 138 lớp học ở các trường tổng, 27 lớp tiểu học ở
tỉnh và huyện, còn trường Quốc học ở Vinh chung cho các tỉnh Bắc-Trung

Kỳ. Số học sinh của tất cả các trường ở Nghệ - Tĩnh trong năm học 1930 -

17


1931 là 5.898 người, bình quân cứ 180 người dân có một người đi học 8. Ở
Nghi Lộc đến năm 1920 có 6 trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp, trong đó
có 1 trường huyện, 5 trường tổng. Riêng ở Hà Tĩnh, những năm 1920 - 1921
ngoài 9 trường sơ học ở tỉnh và các phủ huyện còn có 4 lớp học gia đình.
Như vậy, vượt ra ngoài ý muốn của thực dân Pháp, trong khi tạo ra
những điều kiện thuận lợi để phục vụ cho bộ máy cai trị trực tiếp ở Việt Nam,
chúng đồng thời cũng tạo ra một môi trường văn hóa mới nằm ngoài mục đích
văn hóa giáo dục kiểu thực dân. “Lớp trí thức mới do các trường học mới đào
tạo có các thành phần gồm những người là cừu gia tử đệ, họ nhớ lại cha mẹ
họ bị đày, bị giết vì nước…người trước, người sau sớm muộn thế nào họ cũng
theo dấu cha anh đứng lên đỡ lấy cái gánh nặng non sông mà cha anh họ còn
để giữa đường, để mang tới đích” 9. Đó là những người như Nguyễn Tất
Thành, Trần Phú, Phan Đăng Lưu, Đặng Thai Mai…đều đi tới một con đường
cứu nước: con đường Nguyễn Ái Quốc.
Thứ hai, đó là ảnh hưởng của phong trào cách mạng thế giới.
Thế kỷ XIX, với sự phát triển kinh tế - kỹ thuật, quân sự đã giúp cho
giai cấp tư sản củng cố địa vị thống trị của họ. “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi
nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn
cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối
liên hệ ở khắp nơi”10.
Để thực hiện việc này, giai cấp tư sản Pháp đã đưa các nhà truyền giáo
sang Việt Nam để gây cơ sở, trong đó giáo phận Vinh là một trọng điểm.
Trong thời gian này, có một số người Việt Nam đã đột phá hàng rào “bế quan
tỏa cảng” của nhà Nguyễn, tiếp nhận những tiến bộ của thế giới để cứu nước
mà Nguyễn Trường Tộ là một trường hợp điển hình. Trong quãng thời gian

ngắn ngủi của mình, ông đã viết nhiều bản đề nghị quan trọng để gửi lên vua
Tự Đức như Tế cấp luận, giáo môn luận…Các bản điều trần của Nguyễn
Trường Tộ đã nói lên nỗi lòng tha thiết muốn canh tân về các mặt kinh tế,
8

Lịch sử Đảng bộ Đảng CSVN tỉnh Nghệ Tĩnh, sơ thảo (1925-1954), Nxb Nghệ-Tĩnh, Vinh, 1987,t ập 1,
trang 28.
9
Nhớ nghĩ chiều hôm, Đào Duy Anh, Nxb Trẻ TPHCM, 1989, trang 259.
10
Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb CTQG, 1995, Tập 4, trang 601.

18


chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội. Tư tưởng của ông không được chấp nhận.
Như vậy, nếu liên hệ với Nhật Bản vào cùng thời kì này, Nguyễn Trường Tộ
là Fukuzawa của Việt Nam, nhưng lại thiếu một ông vua Minh Trị mạnh dạn
duy tân.
Phan Bội Châu, sau khi đọc các sách như: Trung Đông chiến kỷ, Phổ Pháp chiến kỷ…hiểu được tình hình cạnh tranh trên thế giới và thảm trạng
mất nước, Phan Bội Châu cũng hướng ra thế giới với niềm hy vọng chờ đón
một cơ hội thực hiện ý nguyện của mình. Những thông tin này nhanh chóng
thấm truyền trong các sỹ phu Nghệ - Tĩnh như Đặng Thúc Hứa, Ngô Quảng,
Nguyễn Đình Hồ…
Đầu thế kỷ XX thế giới quan của các sỹ phu còn hạn hẹp, họ căm ghét
Phương Tây xâm lược, nhưng lại ít hiểu biết về nó. Một số người say mê Nhật
Bản đến mức muốn gửi tất cả niềm hy vọng vào người “anh cả da vàng”,
“đồng văn, đồng chủng”.
Con đường Đông du bị bế tắc, gây cho phong trào Duy Tân những khó
khăn. Nhưng ý chí cứu nước của họ không hề nao núng, họ sang Trung Quốc,

rồi Thái Lan, tiếp tục gây dựng cơ sở, học hỏi và tìm con đường mới.
Từ năm 1911 đến năm 1930, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam
chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc, đặc biệt là
cuộc cách mạng vô sản Nga (1917) và những tư tưởng cộng sản do Nguyễn
Ái Quốc truyền bá vào Việt Nam.
Sau khi Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ra đời, Chủ nghĩa MácLênin có ảnh hưởng sâu đậm trong phong trào yêu nước Việt Nam nói chung
và Nghệ - Tĩnh nói riêng. Sau khi nghiên cứu các phong trào cách mạng
đương thời, họ đã nhất trí với nhau là không nên đi theo con đường cách
mạng tư sản ở các nước Phương Tây, thực tế chỉ dọn đường cho giai cấp tư
sản lên nắm chính quyền và bóc lột nhân dân.
Từ thực tế của phong trào chống Pháp hơn 60 năm của dân tộc Việt
Nam và sự thất bại của Phan Bội Châu trong gần 30 năm qua, Trần Mộng
Bạch đã đi đến kết luận: “Nước ta là một nước không có quyền độc lập thì
cách mệnh của nước ta phải bắt đầu bằng bước cách mệnh quốc gia. Lực
19


lượng chủ yếu của nước ta là các giai cấp công, nông chứ không phải là các
giai cấp địa chủ, tư sản được; vì trong hai giai cấp này chỉ trừ một phần có
lòng yêu nước, một phần lớn làm tay sai cho chính quyền thực dân mà đàn áp
và bóc lột nhân dân”11.
Thứ ba, đó là các tri thức Nghệ – Tĩnh.
Ngay từ những năm đầu khi thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm
lược nước ta, và các tỉnh Nam Bộ lần lượt rơi vào tay Pháp, sỹ phu Nghệ Tĩnh đã chỉ trích thái độ nhượng bộ cầu hòa của bọn vua quan triều Nguyễn.
Ngự sử triều đình Phan Huân đã dâng sớ chỉ trích Tự Đức không coi việc
nước là việc chung, tự ý giải quyết công việc không bàn bạc với thiên hạ. Sau
khi mất 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ (1862), ông cáo quan về quê, bí mật vận
động các nhà khoa bảng trong vùng tổ chức nhân dân chống lại lệnh triều
đình và sẵn sàng chống Pháp. Tinh thần và chí khí của ông đã ảnh hưởng sâu
sắc đến người dân Nghệ - Tĩnh. Sau khi ông mất (1864), sỹ phu Nghệ - Tĩnh

đã quyết định lập Nghĩa Đoàn (1865) và đến 1868 họ đã ra lời kêu gọi hiệp
sức chống Pháp12.
Năm 1866, Trần Tấn (quê ở Chi Nê, nay là xã Thanh Chi, huyện Thanh
Chương, Nghệ An), đã cùng với phó tổng Phan Điển tìm cách ngăn chặn
những những hoạt động phá hoại của bọn phản động đội lốt thầy tu đang bí
mật xâm nhập trong nhân dân nhằm dọn đường cho đội quân xâm lược.
Trong thời kỳ Cần Vương không thể không nói đến phong trào chống
Pháp sôi nổi ở Hà Tĩnh. Người phất cờ đầu tiên hưởng ứng chiếu Cần Vương
là Lê Ninh (1857 - 1887), người làng Đức Thọ. Nghĩa quân nhanh chóng
chiếm thành Hà Tĩnh, thu toàn bộ khí giới, lương thực, tiền bạc, trừng trị bọn
quan lại gian ác. Sau khi Lê Ninh mất, các em và các cộng sự của ông là Lê
Trực, Lê Phất, Trần Qúy Cáp thay ông cầm quân chiến đấu dưới sự chỉ huy
trực tiếp của Phan Đình Phùng…
Chiến đấu cho độc lập, tự do, phải vật lộn với kẻ thù mạnh hơn mình
gấp bội nhưng các sỹ phu văn thân Nghệ - Tĩnh vẫn là những người kiên định
11
12

Đào Duy Anh, sđd, trang 30.
Danh nhân Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ - Tĩnh, Vinh, 1990, tập 4, trang 88.

20


với tinh thần “thua keo này, bày keo khác”. Ở Nghệ - Tĩnh 30 năm đầu thế kỷ
XX, lúc nào trong lòng dân cũng náo nức một tinh thần cứu nước. Việc Phạm
Hồng Thái, quê ở Hưng Nguyên (Nghệ An) ném tạc đạn, nhiều thanh niên ở
Nghệ xuất dương…tạo nên không khí sôi nổi.
Từ đầu thế kỷ đến những năm 1925 - 1930, Nghệ - Tĩnh có nhiều sỹ
phu tham gia liên tục cuộc đấu tranh cứu nước. Đó là Phan Bội Châu, Ngô

Quảng, Ngô Đức Kế…Con đường của các thế hệ trước được Nguyễn Ái Quốc
và các học trò của Người như : Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Sỹ Sách, Lê
Mao, Lê Viết Thuật…kiên trì tiếp bước.
Có thể khẳng định sỹ phu văn thân và các tầng lớp thanh niên trí thức là
linh hồn, là động lực tạo nên sự chuyển biến liên tục của phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc trong suốt 30 năm đầu thế kỷ XX ở Nghệ - Tĩnh.
2. Hình thức và quy mô của các cuộc đấu tranh phong phú, đa
dạng và quyết liệt.
Sự chín muồi trên phạm vi cả nước cho sự bùng nổ một cao trào đấu
tranh rộng khắp chống đế quốc và chống phong kiến tương đối đồng đều cả
về hình thức, phương pháp đấu tranh. Phong trào Xô Viết đã diễn ra với hình
thức đấu tranh phong phú, đa dạng. Từ hình thức ôn hòa như biểu tình đưa
yêu sách, đòi giảm sưu thuế, không được đưa lính Pháp đến đàn áp công
nông, quần chúng đã sử dụng hình thức biểu tình có võ trang, bạo động, kết
hợp lực lượng chính trị và lực lượng võ trang, đấu tranh chính trị với đấu
tranh võ trang, tiến công các đồn bốt, các công sở với các yêu sách không chỉ
về kinh tế mà còn có các yêu sách chính trị rõ rệt, trong đó nổi bật là khẩu
hiệu chống đế quốc giành độc lập dân tộc và chống phong kiến giành ruộng
đất cho dân cày. Các cuộc đấu tranh lúc đầu còn lẻ tẻ ở làng, xóm đã tiến
hành lên quy mô xã, tổng, huyện hoặc liên thôn, liên xã, liên huyện. Hình
thức đốt phá công sở, thủ tiêu ấn tín đã diễn ra ở nhiều nơi làm cho địch
hoang mang cực độ.

21


Hình 2: Cờ của Xô Viết
Cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh trước hết là khẳng định tính đúng đắn
của việc lựa chọn con đường đi của dân tộc Việt Nam, con đường mà qua quá
trình bôn ba khắp năm châu, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra được. Đó là con

đường cách mạng vô sản, trong đó nhắm trúng vào hai kẻ thù cơ bản của nhân
dân ta là đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, thực hiện hai mục tiêu chiến
lược là độc lập dân tộc và người cày có ruộng, trước đó chưa có cuộc đấu
tranh nào đề ra được đầy đủ như vậy.
Tại một số nơi ở Nghệ -Tĩnh, trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng
nhân dân, chính quyền địch ở thôn xã đã tự giải tán thì ban chấp hành nông
hội đã đứng ra quản lý xã hội, thực hiện chức năng của chính quyền cách
mạng – Xô Viết Nghệ Tĩnh ra đời. Xô Viết Nghệ - Tĩnh đã thi hành những
chính sách tiến bộ như : trừng trị bọn phản cách mạng, bảo vệ cuộc đấu tranh
của quần chúng nhân dân, bãi bỏ những thứ thuế vô lý do đế quốc đặt ra, chia
lại ruộng đất công, tổ chức tăng gia sản xuất, mở các lớp học chữ quốc ngữ,
bài trừ mê tín dị đoan…Xô Viết Nghệ - Tĩnh tuy làm chưa được nhiều nhưng
đã thể hiện một chính quyền công nông sơ khai đầu tiên – chính quyền của
dân, do dân, và vì dân.
IV. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ PHONG TRÀO XÔ VIẾT NGHỆ - TĨNH
1. Ưu điểm

22


Phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh là một bản anh hùng ca mở đầu thời
dựng Đảng. Trong cao trào này, công nông đã tỏ ra nghị lực phi thường của
mình, thể hiện rõ tính quyết liệt với khí thế của một trần cuồng phong cách
mạng chống đế quốc, chống phong kiến, đã đi vào lịch sử hiện đại Việt Nam
như là một cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng. Qua cuộc tổng diễn tập
này, Đảng ta đã tập dượt quần chúng, đem lại niềm tin vững chắc vào sức
mạnh và năng lực sáng tạo của mình. Đánh giá về Xô Viết Nghệ - Tĩnh, đồng
chí Nguyễn Ái Quốc viết: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong
một biển máu, nhưng Xô Viết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và
năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam, phong trào tuy thất bại,

nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc cách mạng tháng Tám thắng lợi sau
này”13.
Xô Viết Nghệ - Tĩnh góp phần cùng với cao trào cách mạng 19301931, đưa Đảng và quần chúng nhân dân vào cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị
lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Những bài học của nó
giúp cho Đảng ta những năm tiếp theo và ngày nay vẫn còn cập nhật trong
công cuộc đổi mới. Đó là bài học về sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng,
bài học về Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy năng lực cách mạng
của quần chúng nhân dân, bài học về thời cơ cách mạng, bài học về liên minh
công nông trong cách mạng Việt Nam.
Xô Viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của cao trào cách mạng 1930 - 1931
do Đảng cộng sản Đông Dương – một phân bộ cộng sản trực thuộc Quốc tế
cộng sản – lãnh đạo. Dưới con mắt của những “nhà khai hóa” Pháp thì cao
trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là sự xuất hiện các Xô viết công
nông ở Nghệ - Tĩnh là một cao trào vừa bất ngờ vừa mới lạ, có cơ sở nhân
dân rộng rãi. Song, dưới con mắt của những người cộng sản, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, Xô viết Nghệ - Tĩnh là bản anh hùng ca
cách mạng, là tấm gương trong sự nghiệp giải phóng, là cuộc tổng diễn tập và
13

.Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG ,HN, 1996, trang 9.

23


như Nguyễn Ái Quốc đánh giá là Nghệ - Tĩnh đỏ xứng đáng với truyền thống
“đứng đầu dậy trước”.
Cao trào 1930 - 1931 với Xô Viết Nghệ - Tĩnh và những bài học của nó
được những người cộng sản chú ý tổng kết và đánh giá nó như là những hình
thức của phong trào cách mạng dân tộc của các nước thuộc địa và nửa thuộc

địa. Nó đã giáng một đòn trực diện vào hệ thống đế quốc chủ nghĩa, báo hiệu
một thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa một bên là quần chúng nhân dân bị áp
bức, bóc lột với một bên là những thế lực đế quốc đang cố duy trì ách thống
trị, nô dịch các dân tộc. Việc xuất hiện các Xô viết công nông ở Nghệ - Tĩnh
được đề cập đến trong Hội nghị như là những thành tích đặc biệt to lớn mà
các đảng cộng sản cần phải chú ý nghiên cứu và học tập.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh do
Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo đã chứng minh rằng tuy là đảng trẻ tuổi
nhất của Quốc tế cộng sản, song Đảng nhanh chóng “trở thành đội tiền quân
của giai cấp vô sản xứ Đông Dương, đi theo đường lối của Quốc tế cộng sản;
trực tiếp lãnh đạo thợ thuyền, dân cày và lao khổ xứ Đông Dương kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và địa chủ, quan lang, điều đó biểu hiện
một đảng bônsêvích”14.
Nghệ - Tĩnh đỏ đã chứng minh rằng trên toàn thế giới cũng như ở Đông
Dương, các lực lượng cách mạng cộng sản ngày càng lớn mạnh, sức mạnh
cách mạng ngày càng phát triển. Từ thực tế của Xô viết Nghệ - Tĩnh, Quốc tế
cộng sản đã chính thức công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương – một phân
bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản - một sự thừa nhận của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đối với phong trào cách mạng Đông Dương
mà lãnh tụ chính trị của nó là Đảng Cộng sản Đông Dương.
2. Hạn chế
Phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đã thiết lập được chính quyền Xô viết
– chính quyền của số đông những người bị áp bức bóc lột, khác xa với chính
quyền đương thời và trước đó, một chính quyền hợp lòng dân, sao lại chỉ

14

.Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1999, Tập 4, trang 251.

24



đứng vững được trong một thời gian ngắn? Đó phải chăng là nguồn gốc của
những biểu hiện ấu trí tả khuynh trong phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh.
Những biểu hiện ấu trí tả khuynh chỉ xuất hiện những lúc phong trào có
những dấu hiệu đi xuống. Trong lúc phong trào đang tiến lên thì Đảng bộ
Nghệ - Tĩnh đã có những giải pháp sai lầm, đó là đề ra khẩu hiệu quá tả: “Trí,
phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, từ đó dẫn đến những hành động như
triệt phá đền chùa, miếu mạo, đoạn tuyệt với văn hóa cũ và xây dựng một nền
văn hóa mới trên nền đất được dọn sạch. Sự thái quá trong chủ trương và
hành động trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh không phải xa lạ, mà thuộc
căn bệnh thường gặp trong phong trào cộng sản Quốc tế từ sau năm 1919.
Trong tác phẩm “Bệnh ấu trí tả khuynh trong phong trào cộng sản” của Lênin,
trong đó người từng căn dặn những người cộng sản: “chỉ có thể thắng một kẻ
địch mạnh hơn bằng một sự nỗ lực hết sức lớn, và với điều kiện bắt buộc là
phải lợi dụng hết sức tỉ mỉ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn
khéo bất cứ một “rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù…cũng như phải
lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để có được bạn đồng minh tạm thời,
bấp bênh, có điều kiện, ít chắc chắn và đáng tin cậy”. Căn dặn đó đều bắt
nguồn từ sự nhận thức không thấu đáo lý luận Mác - xít về chuyên chính vô
sản và việc vận dụng máy móc nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng
nước. Căn bệnh đó không bị triệt tiêu mà vẫn tiềm ẩn trong phong trào cộng
sản Quốc tế để rồi có dịp tái phát dưới những dạng thức không giống nhau ở
những điểm khác nhau, ở những nước khác và những khu vực khác nhau trên
thế giới.
Như vậy, những biểu hiện ấu trí tả khuynh trong phong trào Xô viết
Nghệ - Tĩnh bắt nguồn từ sự vận dụng máy móc những vấn đề chiến lược và
sách lược của Quốc tế cộng sản vào hoàn cảnh trong nước.
Tuy nhiên, cao trào cách mạng 1930 - 1931 diễn ra trên 25 tỉnh thành
khắp ba miền đất nước, nhưng tại sao chỉ ở Nghệ - Tĩnh lại có những biểu

hiện trên? Phải chăng cần xem xét yếu tố Địa và Nhân.

25


×