Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng thời kỳ 1986 2007 tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.26 KB, 27 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Ngay sau khi cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn
thắng lợi,… theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng,…
làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy chúng ta cũng nhất định thắng
lợi” [2, tr. 503]. Đây là lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại để lại cho
toàn thể dân tộc Việt Nam trước lúc Người đi xa.
Quán triệt tinh thần này, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn. “Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn đã trở thành vấn
đề có tính quy luật trong công tác xây dựng của Đảng ta” [5, tr. 17].
Trong hơn 20 năm đổi mới, về công tác xây dựng Đảng, Đại hội X
(2006) đánh giá: “Bên cạnh những ưu điểm, công tác xây dựng Đảng còn
nhiều yếu kém khuyết điểm, chưa theo kịp đòi hỏi của tình hình mới; nổi lên
là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng; tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng
viên và nhân dân” [5, tr. 284]. Như vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng mới là vấn đề sống còn của Đảng,
của chế độ, là nhiệm vụ then chốt trong quá trình đổi mới.
Với tầm quan trọng trên, thiết nghĩ nghiên cứu nó là cấp bách và cần thiết, vì
thế em chọn đề tài: “Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng thời kỳ 1986 - 2007”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục những yếu kém, khuyết
điểm. Đồng thời vạch ra được phương hướng, mục đích, nhiệm vụ nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Mặt khác, nâng cao nhận thức
về xây dựng Đảng, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Góp phần làm
tốt công tác xây dựng Đảng ở chi bộ mình.
3. Lịch sử nghiên cứu
Theo em, hiện nay có nhiều sách viết về vấn đề này. Tiêu biểu như:
Xây dựng chỉnh đốn Đảng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn - GS.TS.
1




Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Một số vấn đề về
xây dựng Đảng hiện nay - GS. Đặng Xuân Kỳ, PGS.TS. Mạch Quang Thắng,
TS. Nguyễn Văn Hòa (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay - PGS.TS. Tô
Huy Rứa, GS. TS. Hoàng Chí Bảo, PGS. TS. Trần Khắc Việt, PGS. TS. Lê
Ngọc Tòng (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
Các tác giả phần lớn nêu rõ xây dựng Đảng cần xây dựng trên cả ba
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Từ đó có nêu ra phương hướng nhằm xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong bài viết nhỏ này, em chủ yếu nghiên cứu và sử dụng tư liệu trong
văn kiện Đảng từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đến Đại hội X
(2006).
Ngoài ra còn nghiên cứu thêm một số sách liên quan đến đề tài này
như: Xây dựng chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của GS.
TS. Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Một số vấn đề
về xây dựng Đảng hiện nay - GS. Đặng Xuân Kỳ, PGS.TS. Mạch Quang
Thắng, TS. Nguyễn Văn Hòa (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005; và một số tạp chí như: tạp chí Đảng Cộng sản (tháng 5, 2006), tạp
chí Xây dựng Đảng (tháng 5, 2007).
5. Kết cấu
Bài viết gồm 3 nội dung lớn:
I. Căn cứ lý luận công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
II. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
III. Kinh nghiệm, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp lớn trong công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
6. Phương pháp
Người viết sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp lịch sử cụ thể.
- Phương pháp tổng hợp.
2


- Phương pháp logic.
- Phương pháp thống kê.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
I. CĂN CỨ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG

I.1. Khái niệm thông thường
I.1.1. Xây dựng:
“Làm cho hình thành một tổ chức hay một chủ thể về xã hội, chính trị,
kinh tế, văn hóa theo một phương thức nhất định” (theo Từ điển tiếng Việt
của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2001, tr. 145).
I.1.2. Chỉnh đốn:
“Sửa sang, sắp đặt lại cho đúng phép tắc, cho có nề nếp” (theo Từ
điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2001, tr. 161).
I.2. Quan điểm của các nhà kinh điển
I.2.1. Quan điểm Mác - Lênin
I.2.1.1. Quan điểm của Mác - Ăngghen
Phong trào vô sản trải qua những bước phát triển khác nhau… do đó
chúng ta nhất thiết phải duy trì chỉnh đốn Đảng, nếu không mọi cái sẽ mất hết.
I.2.1.2. Quan điểm của Lênin
Đảng cầm quyền phải biết làm cho hàng ngũ mình trong sạch bằng
cách đuổi bọn thoái hóa, biến chất, cơ hội, thù địch ra và việc làm đó sẽ làm

cho lực lượng và uy tín của Đảng tăng lên rất mạnh.
I.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh nhắc lại câu nói nổi tiếng của Lênin: Không có lý luận
cách mạng thì không có phong trào cách mạng… đảng nào được trang bị bằng
lý luận tiên phong mới làm nổi vai trò chiến sĩ tiên phong.
Chỉnh đốn chi bộ là quan trọng vì chi bộ là nền tảng của Đảng.
Như vậy, cả Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh đều cho rằng: Đảng
phải thực sự là đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có như
thế Đảng mới tương xứng với nhiệm vụ chính trị, là đội ngũ tiên phong được
quần chúng tín nhiệm và ủng hộ.
4


II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THỜI KỲ 1986 - 2007

“Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa” [9, tr.365].
Đây là một trong bốn bài học kinh nghiệm mà Đại hội VI (12/1986) rút ra sau
hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Làm thế nào để xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ cách mạng? Đảng ta đã đưa ra câu trả lời: Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là trong những bước ngoặt cách
mạng.
II.1. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng là một tất yếu khách quan
Bàn về vấn đề này, các nhà kinh điển có ý kiến như sau:
Mác, Ăngghen viết: Phong trào vô sản trải qua những bước phát triển
khác nhau… do đó chúng ta nhất thiết phải duy trì chỉnh đốn Đảng, nếu
không mọi cái sẽ mất hết.
Lênin: Không có một tổ chức vững vàng… thì không thể có phong trào
cách mạng vững chắc được và để đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh của Đảng
Cộng sản Lênin nhấn mạnh: phải đuổi cổ ra khỏi Đảng những kẻ gian xảo,

những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược.
Hồ Chí Minh kế thừa quan điểm trên của Mác, Ăngghen và Lênin. Hồ
Chí Minh nêu ra lý do chỉnh đốn Đảng như sau: Phải chỉnh đốn Đảng vì số
đông đảng viên gương mẫu, tận tâm, tận lực phục vụ cách mạng, nhân dân,
giai cấp, vẫn còn một số không phải là ít đảng viên không làm đúng chính
sách của Đảng, Chính phủ, không đi đúng đường lối của nhân dân, những
đảng viên ấy chưa thật sự đúng đắn cho nên phải chỉnh.
Như vậy, yêu cầu đổi mới, chỉnh đốn lại Đảng Cộng sản trong quá trình
lãnh đạo cách mạng vô sản là một tất yếu khách quan, là nhân tố bảo đảm
Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo của mình.
II.2. Nội dung đổi mới, chỉnh đốn Đảng
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng nằm trong hệ thống xây dựng Đảng. Đổi mới,
chỉnh đốn Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo đảm Đảng thực hiện có

5


hiệu quả nhiệm vụ cách mạng của mình: lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đúng về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tư tưởng chủ quan, duy ý chí, giản đơn hóa, muốn
thực hiện nhanh chóng mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta
mới ở chặng đường đầu tiên; không thừa nhận quy luật của sản xuất hàng hóa
đang tồn tại khách quan, do vậy Đảng không vận dụng quy luật này vào việc chế
định các chủ trương, chính sách kinh tế. Đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng,
hai khuyết điểm quan trọng mà Đảng mắc phải là: nguyên tắc tập trung dân chủ
bị vi phạm, chậm thay đổi quan điểm và chính sách cán bộ. Kết quả tình hình
kinh tế - xã hội đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, khiến niềm
tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, vào chế độ giảm sút.

Đứng trước thực trạng này, cộng với sự tác động của tình hình thế giới,
Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đổi mới và Đại hội VI (1986) là Đại hội
đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Đảng ta.
II.2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (15 - 18/12/1986)
Bằng thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, Đại hội VI chỉ ra những sai lầm và khuyết điểm trên là những sai lầm
nghiêm trọng, sai lầm về “chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” của
Đảng. Đại hội khẳng định những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế xã hội bắt nguồn từ những sai lầm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công
tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, do vậy, Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (14 - 20/6/1988)
xác định phương hướng chung của công tác xây dựng Đảng là: “đổi mới tư
duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo
và công tác: nâng cao giác ngộ cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất,
kiến thức và năng lực lãnh đạo chính trị của cán bộ, đảng viên, mở rộng dân

6


chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, bảo đảm cho Đảng vươn
lên ngang tầm nhiệm vụ mới” [9, tr. 459].
Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã
đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã đạt được, mà ngược lại chính là
bổ sung và phát triển những thành tựu ấy.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng phải đổi mới đội ngũ cán bộ,
kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý.
Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng
ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Cán
bộ ta được rèn luyện trong quá trình chiến đấu lâu dài, nhiều thế hệ cán bộ

trưởng thành, đó là cơ sở để giải quyết vấn đề cán bộ.
Đổi mới quan điểm đánh giá cán bộ tức là lấy hiệu quả chính trị làm
thước đo phẩm chất và năng lực của cán bộ. Lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn
cứ bố trí cán bộ.
Đào tạo đội ngũ cán bộ kế tục; phải có cơ chế quản lý cán bộ đúng bởi
cơ chế quản lý cán bộ có đúng thì sự đánh giá cán bộ mới chính xác.
Đại hội VI cũng nêu rõ: đổi mới nhưng giữ vững các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt trong Đảng.
Thứ nhất: Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi
hoạt động tổ chức của Đảng. Sức mạnh to lớn của Đảng là ở sự thực hiện đầy
đủ nguyên tắc này. Nếu nguyên tắc bị vi phạm dẫn đến những quyết định sai
lầm, làm suy yếu đoàn kết trong Đảng. Do vậy, cần giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng.
Thứ hai: Đấu tranh phê bình và tự phê bình là quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng, là thước đo trình độ dân chủ trong Đảng. Thể hiện thái độ, ý
chí trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, người cộng sản dũng cảm nhìn
thẳng vào sự thật. Trong Đảng không thể dung thứ thái độ che giấu khuyết
7


điểm, thổi phồng thành tích, lừa dối cấp trên. Thái độ nể nang hoặc đàn áp, trả
thù người phê bình, không được coi tự phê bình và phê bình là một dịp đả
kích nhau, phải xem đó là một sinh hoạt Đảng bình thường để góp ý kiến giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ, củng cố sự đoàn kết, nhất trí.
Thứ ba: Đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng ta có truyền thống đoàn kết
nhất trí tốt đẹp, chẳng những lúc cách mạng phát triển bình thường thuận lợi
mà cả những lúc sóng gió, ở những bước ngoặt lịch sử, Đảng luôn là một khối
thống nhất về tư tưởng và hành động. Nhờ vậy mà Đảng đoàn kết được đông
đảo nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi vẻ vang.
Đoàn kết trong Đảng không phải theo kiểu “bằng mặt mà không bằng

lòng” mà là sự đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đấu tranh để bảo vệ đường
lối, quan điểm của Đảng. Đoàn kết không có nghĩa là không có ý kiến khác
nhau mà thông qua trao đổi, thảo luận sẽ đi đến nhất trí.
Đoàn kết nhất trí về chính trị, tư tưởng, tổ chức trên cơ sở hệ tư tưởng
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đó là vấn đề sống còn của Đảng. Đảng
phải quyết tâm giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, nhất trí của Đảng
theo đúng như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: các đồng chí từ trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình.
Thứ tư: Lập lại kỷ cương, củng cố kỷ luật trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng
viên phải phục tùng kỷ luật của Đảng. Bất cứ người lãnh đạo nào cũng không
được tự mình đặt ra ngoài tổ chức, tự cho mình quyền nói và làm khác quyết
định của tập thể. Cấp trên không có quyền thi hành hoặc làm trái chỉ thị của cấp
dưới.
Bên cạnh đổi mới tư duy, phải đổi mới, chỉnh đốn Đảng trên cả ba lĩnh
vực: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Về lĩnh vực chính trị - tư tưởng: “Cần nắm vững bản chất cách mạng
và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin… tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh” [9, tr. 459]. Công tác tư tưởng phải hướng vào việc bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức mới, nâng cao tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, tinh
8


thần quốc tế vô sản, khơi dậy ý chí cách mạng của quần chúng. Phẩm chất
chính trị của mỗi người phải thể hiện ở lập trường vững vàng trong cuộc đấu
tranh, giữa hai con đường, giữa ta và địch, giữa cái lành mạnh và cái hư hỏng;
ở lòng tin vào sức mạnh nhân dân; Đảng phải quan tâm công tác văn hóa văn
nghệ, cải cách toàn diện công tác của các trường Đảng, nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp.
Về lĩnh vực tổ chức: Trước hết cần nâng cao sức chiến đấu của tổ chức

cơ sở Đảng vì tổ chức cơ sở Đảng là hạt nhân chính trị của Đảng mà trực tiếp
là chi bộ. Do vậy, cần chăm lo tốt chi bộ. Chi bộ phải làm tốt việc phân công
đảng viên, đảng viên nào cũng được giao công tác và phải làm tròn nhiệm vụ.
Muốn vậy phải thường xuyên chăm lo việc giáo dục rèn luyện mỗi cán bộ,
đảng viên. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách và thu
hút vào Đảng những người ưu tú. Cần nâng cao chất lượng đảng viên, đấu
tranh chống các biểu hiện tiêu cực. Với lương tâm của người cộng sản, mỗi
cán bộ, đảng viên hãy nghiêm khắc xem xét mình đã sống lành mạnh, sống
bằng lao động của mình hay chưa? Tránh tư tưởng, hoạt động chạy theo đồng
tiền, tính ích kỷ, xâm phạm lợi ích của nhân dân, ăn cắp của công.
Đại hội VI đánh dấu sự đổi mới toàn diện, là Đại hội “đổi mới quan trọng
của Đảng trong lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức” [7, tr. 479] và Đại hội VI
“được xem là đại hội kế thừa quyết tâm đổi mới đoàn kết tiến lên của Đảng”.
II.2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (24 - 27/6/1991)
Nếu Đại hội VI được xem là “Đại hội kế thừa quyết tâm đổi mới đoàn kết
tiến lên của Đảng” thì Đại hội VII là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ
cương - đoàn kết”. Tiếp tục tinh thần Đại hội VI, Đại hội VII thẳng thắn thừa
nhận những khuyết điểm trong lãnh đạo quản lý của Đảng. Và “khuyết điểm có
tính chất bao trùm là Đảng chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới
phương thức lãnh đạo trong giai đoạn mới, chưa tập trung nghiên cứu đề ra
phương hướng, chủ trương rõ ràng và chỉ đạo thực hiện tích cực việc tổ chức bộ
máy, còn thiếu những biện pháp có hiệu lực để nâng cao chất lượng đảng viên,

9


nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng ngang tầm
đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng; công tác cán bộ còn nhiều khuyết điểm” [8, tr.
52].
Trên cơ sở những khuyết điểm này, Đại hội khẳng định: “tiếp tục tự

đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu
cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng” [9, tr. 506].
Do vậy, cả phương hướng và nhiệm vụ mà Đại hội VII đưa ra đều
không nằm ngoài yêu cầu trên: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ” [9, 502]; “Tiếp tục đổi
mới tư duy, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị của
Đảng. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu” [9, tr. 506]. Để hoàn thành
nhiệm vụ và thực hiện đúng phương hướng trên, từ ngày 18 đến 29/6/1992,
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã họp. Hội
nghị nhấn mạnh: “Trong hoàn cảnh hiện nay, việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng
là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định toàn bộ sự nghiệp cách mạng” [9, tr. 516].
Bên cạnh xác định mục tiêu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng, Hội nghị còn
yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng phải bảo đảm nguyên tắc giữ vững bản chất
cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng: “Nâng cao bản lĩnh chính trị,
trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng. Xây dựng cho cán bộ, đảng viên niềm
tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Nâng
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống “diễn biến hòa bình”” [9, tr. 517].
Chỉnh đốn Đảng về tổ chức: “Thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc
và tổ chức sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, ngăn
chặn và khắc phục lối vô tổ chức, vô kỷ luật, độc đoán, chuyên quyền trong
Đảng; chấn chỉnh hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng ở các cấp; lập ban cán
sự Đảng ở Chính phủ, các bộ, các ủy ban nhà nước…, chỉnh đốn tổ chức cơ
sở Đảng, xây dựng củng cố các chi bộ theo địa bàn dân cư” [9, tr.517].

10


“Phải tạo bước chuyển quan trọng trong công tác cán bộ. Đây là khâu

then chốt có ý nghĩa quyết định toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Phải xây dựng
đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ. Sắp xếp, điều chỉnh, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ hiện có và chuẩn bị đội ngũ kế cận. Thực hiện phân công, phân cấp
cán bộ hợp lý. Đổi mới chính sách cán bộ” [9, tr. 517].
“Để Đảng trong sạch, vững mạnh cần đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng. Phải xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị nhằm nâng cao vai trò, chất lượng và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng” [9, tr. 517].
II.2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (26/6 - 1/7/1996)
Bối cảnh quốc tế và khu vực trong thời gian này có ảnh hưởng to lớn
đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Quốc tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới đã và đang trở thành
xu hướng chủ đạo, cuốn hút nhiều quốc gia tham gia. Chủ nghĩa xã hội tạm
thời lâm vào thoái trào sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu. Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu
như môi trường, nguy cơ bùng nổ dân số, bệnh tật… đòi hỏi các quốc gia hợp
tác vì không một nước nào riêng lẻ có thể tự giải quyết được.
Việt Nam bên cạnh những thành tựu sau 10 đổi mới, nước ta phải đối
đầu với những khó khăn, thử thách lớn như: nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế,
“diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, tệ quan liêu, tham nhũng, nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, những mặt trái của toàn cầu hóa kinh tế…
Tình hình thế giới và thực tiễn đổi mới sinh động của đất nước đặt ra
cho Đảng ta những nhiệm vụ và bước đi mới.
Bộ Chính trị rút ra một số bài học chủ yếu của một năm đổi mới, trong
đó có bài học kinh nghiệm “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” [9, tr. 562]. Đây là một trong những bài
học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới.
11



“Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với
trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của
Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới” [9, tr. 572].
Để Đảng luôn là “nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới” cần
“xây dựng Đảng gắn liền với hoạt động kinh tế”. Vì trong tư duy đổi mới của
Đảng ta: đổi mới kinh tế từ đó từng bước đổi mới chính trị.
Do xem xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt nên từ ngày 25/1 đến
ngày 2/2/1999, Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII họp và đã thông qua Nghị quyết quan trọng “về một số vấn đề cơ
bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết nêu rõ:
“Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các
khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn để ngày càng vững mạnh về mọi mặt,
đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tổ chức và cán bộ” [7, tr.
606].
Nghị quyết yêu cầu các tổ chức Đảng và mọi cán bộ, đảng viên từ trung
ương đến cơ sở phải tập trung thực hiện có hiệu quả 10 nhiệm vụ sau đây:
Một là: Tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và
hành động; kiên trì đấu tranh đẩy lùi bốn nguy cơ; đảng viên phải nói và làm
theo nghị quyết, thực hiện đúng cương lĩnh, điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà
nước; kiên định những vấn đề có tính quan điểm và nguyên tắc. Đó là: độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta; chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”; tập trung
dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Hai là: Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận
(trong nước và thế giới).


12


Ba là: Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Bốn là: Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức lối
sống, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất
người chiến sĩ cộng sản, chống chủ nghĩa cá nhân…
Năm là: Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu có hiệu quả.
Sáu là: Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê
bình và phê bình trong Đảng.
Bảy là: Củng cố, tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của
các tổ chức cơ sở Đảng.
Tám là: Sắp xếp lại tổ chức, bộ máy Đảng và các tổ chức trong hệ
thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả.
Chín là: Toàn Đảng tiếp tục tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình.
Mười là: Cải tiến việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của
Đảng.
“Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII có một
ý nghĩa rất quan trọng, tạo ra bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng
và chỉnh đốn Đảng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm cho
Đảng ngày càng vững mạnh và trong sạch, là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam” [9, tr. 609].
Với ý nghĩa đó, Đại hội VIII xứng đáng là đại hội “Tiếp tục sự nghiệp

đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
13


II.2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (19 - 22/4/2001)
Đại hội IX khẳng định: “Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Để
tương xứng với nhiệm vụ then chốt, cần tập trung vào một số việc trọng tâm
như sau:
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong cán bộ, đảng viên.
Đẩy mạnh xây dựng, kiện toàn và tăng sức chiến đấu cho tổ chức cơ sở
Đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cơ sở và phong
trào cách mạng quần chúng.
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về quan điểm, nội dung, phương
pháp tổ chức quản lý.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Và phải xây dựng Đảng trên cả ba lĩnh vực: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng: Hội nghị Trung ương 5 khóa IX
chỉ ra những nhiệm vụ chủ yếu như sau: Nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, tạo sự thống nhất cao hơn
nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, khắc phục chủ nghĩa cá nhân,
tư tưởng cơ hội, thực dụng, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng, lý luận. Thực hiện nghiêm túc những chỉ thị, quy định của Đảng về
bảo vệ Đảng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, cổ động,
báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, thông tin đối ngoại..
Xây dựng về tổ chức: “Củng cố tổ chức cơ sở Đảng gắn liền với xây
dựng hệ thống chính trị… khắc phục dần biểu hiện ỷ lại, thiếu chủ động,

buông lỏng vai trò lãnh đạo. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong
sạch, vững mạnh, củng cố đảng bộ, chi bộ yếu kém,…” [6, tr. 130].
II.2.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (18 - 25/4/2006)

14


“Nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm, đánh giá… rút ra những bài
học kinh nghiệm” [5, tr. 9] là nhiệm vụ của Đại hội X.
Quán triệt tinh thần Đại hội IX, Đại hội X khẳng định: “Xây dựng
Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh
đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây
là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta” [5, tr. 48, 49].
Để “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, đảm bảo là “nhân tố
quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới”, trước hết:
Phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng. Nâng cao
chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị
công tác tư tưởng trong Đảng, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ
chốt các cấp.
Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng
cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát.
Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó tập trung đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hiện nay, tình trạng “tham nhũng không còn là một nguy cơ mà đã là một

thực tế, một quốc nạn” [5, tr. 324]. Nguyên nhân là do “tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên” [5, tr. 325]. Vì thế, trong sửa đổi Điều lệ Đảng, Đại hội bổ sung thêm ba
vấn đề lớn, trong đó có vấn đề “giao thêm chức năng giám sát cho cấp ủy
Đảng… gắn công tác kiểm tra với công tác giám sát, có giám sát mới khắc phục
được … thiếu sót, khuyết điểm, nguy cơ từ lúc mới manh nha” [5, tr. 53].

15


Như vậy, rõ ràng thời kỳ từ Đại hội VI đến nay (1986 - 2007) là thời kỳ
tiếp tục hình thành và từng bước phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Bên
cạnh những nhận thức mới đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thời kỳ này còn là thời kỳ xây dựng và chỉnh
đốn Đảng mạnh mẽ trên cả ba lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phải
xem tự đổi mới, tự chỉnh đốn cũng là một quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng. Chỉ có chăm lo đầy đủ công tác xây dựng Đảng, Đảng mới nâng cao
được sức chiến đấu của mình, bảo đảm sự thành công của công cuộc đổi mới
và con đường đi lên đúng đắn của dân tộc.
Ngày 7/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
WTO - Tổ chức Thương mại thế giới. Sự kiện này đánh dấu một thời kỳ mới
trong sự phát triển của đất nước ta - thời kỳ hội nhập đầy đủ với nền kinh tế
thế giới. Vào WTO, chúng ta có nhiều cơ hội nhưng đồng thời không ít thách
thức. Do vậy, trong công tác xây dựng Đảng cần chú trọng nâng cao bản lĩnh
chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng. Bản lĩnh chính trị của Đảng được thể
hiện trong việc giữ độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa khi đất
nước hoàn toàn hội nhập với nền kinh tế thế giới, mà ở đó các nước tư bản
phát triển còn nắm giữ vị trí chi phối.
Bên cạnh đó, tầm trí tuệ của Đảng cần phải vươn ra phạm vi toàn cầu
để nắm bắt kịp thời cơ và chuẩn xác những chiều hướng mới trên thế giới về

chính trị, kinh tế, văn hóa… Trí tuệ của Đảng được thể hiện trong hiểu biết
thông lệ, quy định quốc tế để đề ra đường lối và pháp luật.
Công tác lý luận và công tác tư tưởng cần có những đổi mới.
Để đáp ứng được những yêu cầu nói trên, khâu then chốt là đào tạo, bồi
dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ đáp ứng đòi hỏi quá trình hội nhập. Về mặt
chuyên môn, cán bộ, đảng viên ngoài việc nắm vững chuyên môn của mình
cần nâng tầm trí tuệ, hiểu biết sâu rộng những gì diễn ra trên thế giới; phải có
kiến thức luật pháp và thông lệ quốc tế, kỹ năng đàm phán, đấu tranh bảo vệ
lợi ích dân tộc và bản thân, sử dụng thành thạo phương tiện kỹ thuật hiện đại
và ngoại ngữ. Về phẩm chất đạo đức, trong bất kỳ hoàn cảnh nào người đảng
16


viên cộng sản phải có lập trường kiên định, đạo đức trong sáng, chống lại mặt
xấu của nền kinh tế thị trường.
“Cán bộ là gốc công việc”, “công việc thành công hay thất bại do cán
bộ tốt hay kém”. Vì thế, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng là một nội
dung quan trọng trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
III. KINH NGHIỆM, PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP LỚN
TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG ĐẾN NĂM 2010

III.1. Một số bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới
Từ thực tiễn xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2007), có thể
khái quát thành 6 bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
“Một là: Phải kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên
tắc và sáng tạo. Trong quá trình đổi mới phải luôn giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa
nguyên, đa đảng.
Hai là: Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ

chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu; đổi mới công tác xây dựng Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và phê bình, nói
thẳng, nói thật; giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu
tranh kiên quyết đối với những phần tử cơ hội. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ
máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thẩm quyền trách nhiệm rõ ràng, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.
Ba là: Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực
tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thật sự và đồng bộ
trong công tác trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển, bố trí, sử dụng và chính sách. Đặc biệt coi trọng xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt, trọng dụng nhân tài.
17


Bốn là: Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây
dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân,
phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên
và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
Năm là: Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công
tác kiểm tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị
quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp
thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất
của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ,
đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân
dân, của mặt trận, các đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.
Sáu là: Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nhất là

phương thức lãnh đạo nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Phải xây
dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng ở các ngành, các cấp.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không làm thay
công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị” [5, tr. 276 - 278].
III.2. Phương hướng và mục tiêu
Phương hướng và mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng đến
năm 2010 là: Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng
trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó
với nhân dân. Cụ thể là:

18


Nâng cao năng lực lãnh đạo cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách; tổ chức thực hiện sáng tạo, có hiệu quả đường lối.
Coi trọng công tác tư tưởng, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, xây dựng nền tảng tư tưởng, lý luận vững chắc cho sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống, phẩm chất, năng lực
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân,
đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu và những biểu hiện tiêu cực khác.
Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Phân biệt
rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức cơ sở Đảng.
Đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục khuynh hướng
Đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay.
III.3. Nhiệm vụ và giải pháp lớn
Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới
và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện. Muốn vậy “Đảng phải nắm vững,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của đấu tranh, tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại” [5, tr. 282].
Tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách
mạng. Để tăng cường công tác tư tưởng, trước hết phải đẩy mạnh giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu
nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công tác tư tưởng cần
bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và
nhân dân…
Cuối cùng là kiện toàn tổ chức, nâng cao phẩm chất và năng lực đội
ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng lý luận, đặc biệt là cán bộ tư tưởng, văn
19


hóa. Bên cạnh tăng cường công tác tư tưởng, Đảng cần phải rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ. Để
mỗi cán bộ, đảng viên thật sự là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức, lối
sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng. Họ cần nâng cao tinh
thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, phải học tập, làm theo tư tưởng và
tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công
tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội. Đây là nhiệm vụ không của riêng ai và hết sức khó khăn, phức

tạp. Do vậy, cần đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục, có hiệu quả từ trung
ương đến địa phương. Trong Đảng thường xuyên phê bình, tự phê bình, biểu
dương, nhân rộng những tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Cần
hoàn thiện hệ thống pháp luật để trị, sẽ trị và trị cho kỳ hết những kẻ tham
nhũng, lãng phí. Mặt khác, phải thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham
nhũng từ trung ương đến địa phương đủ mạnh, có thực quyền, hoạt động có hiệu
quả.
Đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị.
Cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ
chức, hoạt động của Đảng. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động
của Quốc hội. Xây dựng bộ máy Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả. Sắp xếp tổ chức bộ máy Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo
hướng tinh gọn ở cấp trung ương, tỉnh, huyện.
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị, nội bộ.
Trong đổi mới công tác cán bộ, nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cao cấp - đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống
chính trị. Có ba giải pháp về nhiệm vụ này:
Thứ nhất, cần có chính sách, quy chế tôn vinh những người có năng
lực, hết lòng vì dân, vì nước, khuyến khích những người năng động, sáng tạo.
20


Thứ hai, triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng.
Thứ ba, thực hiện chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài.
Trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần bảo vệ Đảng cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức. Trước hết cần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ cương lĩnh, đường lối, chủ
trương… của Đảng.
Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng; nâng cao chất lượng đảng

viên. Phải làm cho tổ chức này trong sạch, vững mạnh vì tổ chức cơ sở Đảng
là nền tảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở. Cần có biện pháp củng cố tổ chức cơ
sở Đảng, đặc biệt là ở các đảng bộ, chi bộ yếu kém. Thực hiện tốt nguyên tắc
dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở. Thường xuyên kiểm tra, giám sát
đảng viên, đảng viên phải gương mẫu chấp hành sự quản lý của chi bộ. Nâng
cao chất lượng đảng viên trên ba mặt: tư tưởng chính trị, trình độ năng lực,
phẩm chất đạo đức, lối sống. Để nâng cao chất lượng đảng viên phải thường
xuyên sàng lọc đảng viên, chú trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt là tiêu
chuẩn giác ngộ lý tưởng của Đảng khi kết nạp đảng viên mới.
Đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát: công tác kiểm tra,
giám sát phải khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh
nha. Kiện toàn hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp, tăng cường cán bộ có chất
lượng, phương tiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp.
Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng
về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc dựa
trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức; phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, thực hiện vai trò giám
sát và phản biện xã hội.

21


Đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng. Khâu mấu chốt
là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp. Quán
triệt quan điểm Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước, không thay
đổi các chương trình, mục tiêu lớn của Nhà nước. Đối với Quốc hội phải giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo về quan điểm, chủ trương của
Ban chấp hành Trung ương Đảng với thẩm quyền quyết định của Quốc hội

trên những vấn đề này. Đối với Chính phủ, xác định rõ hơn thẩm quyền quyết
định của Chính phủ. Đối với các cơ quan tư pháp, Đảng lãnh đạo theo nguyên
tắc: “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp. Đối
với chính quyền địa phương, sự lãnh đạo của cấp ủy đảng là định hướng bảo
đảm để hội đồng nhân dân ấn định các mục tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương.
Đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phải phát huy tinh thần tự
chủ, sáng tạo của Mặt trận và đoàn thể.
Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Đảng theo hướng dân
chủ, kỷ cương.
Xây dựng và thực hiện chế độ báo cáo xin ý kiến. Bộ Chính trị, Ban Bí
thư phải báo cáo, xin ý kiến của Ban chấp hành Trung ương về hoạt động của
mình giữa hai kỳ họp Ban chấp hành Trung ương.

22


C. PHẦN KẾT LUẬN
Thành tựu, khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng cũng như toàn bộ
công cuộc đổi mới trong thời gian qua, có thể rút ra kết luận rằng: “thắng lợi
của công cuộc đổi mới tùy thuộc vào bản lĩnh, trình độ và năng lực lãnh đạo
của Đảng. Phải giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời thường
xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng” [4, tr. 392]. Sở dĩ phải kiên định sự
lãnh đạo của Đảng, coi đây là vấn đề nguyên tắc vì không có sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản thì không thể có độc lập dân tộc vững chắc, không có quyền làm
chủ thật sự của nhân dân, không có nhà nước của dân, do dân, vì dân và càng
không có chủ nghĩa xã hội. Lúc bình thường vai trò lãnh đạo của Đảng rất quan
trọng, ở những bước chuyển giai đoạn thì vai trò đó càng đặc biệt tăng lên.
Do vậy, để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng đúng đắn
và có hiệu quả, vấn đề đặt ra là Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh

đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh của Đảng về mọi mặt. “Thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn cũng là một quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng” [4, tr. 393].
Trong quá trình Đảng tự đổi mới và chỉnh đốn, Đảng phải kiên định và
phát triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng; chống các khuynh hướng: bảo thủ, cơ
hội, cực đoan; đổi mới nhưng không được dao động những vấn đề nguyên tắc,
không lẫn lộn những vấn đề chiến lược với sách lược; kiên định những vấn
đề có tính nguyên tắc nhưng có đổi mới, sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt
Nam.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng và nhằm xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo
đảm thực hiện có kết quả những nhiệm vụ chính trị, trong đó trọng tâm là
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
giữ vững ổn định chính trị, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, đổi mới và
23


chỉnh đốn Đảng phải gắn với đổi mới các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, trước hết là với quá trình thực hiện và hoàn thiện các chính sách và cơ
chế quản lý, với kiện toàn hệ thống chính trị, với phong trào hành động cách
mạng của quần chúng.
Phương hướng cơ bản của việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay là:
“Phát huy truyền thống vẻ vang, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và
tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thật sự mạnh về cả chính trị, tư
tưởng, phẩm chất, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên
hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm là đội tiên
phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới” [4, 395].

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

GS. Đặng Xuân Kỳ, PGS.TS. Mạch Quang Thắng, TS. Nguyễn Văn Hòa
(đồng chủ biên), Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

2.

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

3.

PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên), Các Đại hội đại biểu toàn quốc
và hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1930
- 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

4.

GS. Trần Nhâm (chủ biên), Có một Việt Nam như thế đổi mới và phát
triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

5.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

6.


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

7.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.

8.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.

9.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 4 (1986), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

25


×