Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.87 KB, 52 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Logo học viện

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Họ và tên học viên : NGUYỄN THỊ THU HẰNG
Mã số học viên: AP150621
Chức vụ, cơ quan công tác: Trưởng phòng Tư vấn và Đào tạo, Viện tin
học doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam
Lớp, khoá học : K66B07.

Hà Nội - Năm 2017
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong Đề án về “
Đổi mới và hoàn thiện Chính sách Phát triển bền vững doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở nước ta hiện nay” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với
các Đề án khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả Đề án

Nguyễn Thị Thu Hằng

2



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Phần 1: Mở đầu
1.1. Lý do lựa chọn đề án
1.2. Mục đích của đề án
1.3. Nhiệm vụ của đề án
1.4. Đối tượng của đề án
1.5 Phương p\háp luận
1.6 Phương pháp nghiên cứu
1.7 Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của Đề án.
Phần 2: Nội dung
2.1. Căn cứ xây dựng đề án
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
2.2. Nội dung đề án
2.2.1 Khái quát thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay.
2.2.2. Chính sách phát triển bền vững tại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện
nay.
2.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Việt nam.

2.3. Giái pháp về Đổi mới và hoàn thiện chính sách Phát triển bền vững
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt nam
2.3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách phát triển bền
vững doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

2.3.2. Các giải pháp và kiến nghị Đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển bền
vững doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Phần 3 : Kiến nghị và Kết luận.
3.1 Kiến nghị

3


3.2 Kết luận
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
ASEAN
DNNVV
CSR
FTA
PTBV
WBCSD
VBCSD
VCCI

5

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
: Hiệp định Thương mại tự do
: Phát triển bền vững
: Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển bền vững Thế giới
: Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt nam
: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam


MỞ ĐẦU

1.1 Lý do lựa chọn Đề án
Phát triển bền vững là một chủ trương lớn của Việt nam ngày càng được quan
tâm và ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua,
Chính phủ, các Bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực xây dựng và
triển khai các giải pháp theo định hướng của chương trình Nghị sự 21 góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường của Việt nam.
Khái niệm “ Phát triển bền vững” (PTBV) xuất hiện tử những thập niêm 70 của
thế kỷ 20. Hội đồng Thế giới về Môi trường định nghĩa Phát triển bền vững là “sự phát
triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp
ứng nhu cầu của thế hệ mai sau”.
Hội nghị thượng đỉnh trái đất về môi trường và phát triển diễn ra ở Rio de
Janeiro năm 1992 và Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tổ chức
tại Johannesburg năm 2002 đã xác định PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, gồm : Phát triển kinh tế
(nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ công bằng
xã hội, xóa đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là
xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng
chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên).

Hòa nhập với cộng đồng Quốc tế, trong quá trình đổi mới kinh tế và xã hội, phát
triển bền vững với những nội hàm phát triển toàn diện và có hiệu quả về kinh tế, đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường luôn luôn là mục tiêu
phát triển trong từng thời kỳ kế hoạch của đất nước.
Hiện nay trên thế giới đã có 191 nước xây dựng Chương trình PTBV (gọi là
chương trình nghị sự 21) cấp quốc gia và hơn 6500 chương trình nghị sự 21 cấp ngành
và địa phương. Ngày 17/8/2004, Chính phủ Việt nam đã thông qua Định hướng chiến
lược phát triển bền vững ở Việt nam. Định hướng này là một chiến lược khung, bao
gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ ngành, địa phương, các tổ
chức, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện, đồng thời thể hiện sự cam kết của Việt
nam với cộng đồng quốc tế. Ngày 27/9/2005, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định
thành lập Hội đồng Phát triển Bền vững Quốc gia. Ngày 24/02/2009, Thủ tướng chính

6


phủ ra quyết định số 248/QĐ-Ttg về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức của Hội đồng PTBV quốc gia. Đây là một quá trình quan trọng tiến tới tạo ra một
khuôn khổ liên kết trong đó đề cập đến phát triển bền vững là một nhân tố trung tâm,
phân bổ trách nhiệm và xây dựng giải pháp liên quan đến PTBV. Ngày 12/4/2012, Thủ
tướng Chính phủ ra quyết định 432/QĐ-Ttg phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững
Việt nam giai đoạn 2011-2020. Ngày 18/03/2014, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị quyết
19/NQ-CP về những nhiệm vụ giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia.
Phát triển bền vững cũng là một nội dung được triển khai trong thực hiện các
mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) của Việt nam đặc biệt là các mục tiêu về tăng trưởng
và xóa đói giảm nghèo, phòng chống HIV/AIDS, bảo vệ môi trường, tạo công ăn việc
làm, . . . Việc lồng ghép các mục tiêu đó vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội,
từng chương trình mục tiêu quốc gia, nhờ đó đã huy động được nhiều nguồn lực hơn,
với mức độ ưu tiên cao hơn cho quá trình thực hiện mục tiêu phát triển của Việt nam.

Việc thông qua Định hướng chiến lược PTBV ở nước ta là một bước đi chiến
lược, tạo ra một nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai.
Sự tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp vào việc thực hiện định hướng chiến
lược này thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam (VCCI) – tổ chức đại
diện cho cộng đồng doanh nghiệp và giới sử dụng lao động ở Việt nam – là nhân tố
quyết định sự thành công và tạo ra một quan hệ đối tác năng động liên kết chặt chẽ
giữa Chính phủ, doanh nghiệp và các thành phần khác trong xã hội vì mục tiêu, lợi ích
chung.
Nhằm hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp vừa và
nhỏ của nước ta nâng cao nhận thức và hiểu biết về PTBV, hỗ trợ doanh nghiệp Việt
nam triển khai các nội dung PTBV, hội nhập quốc tế, thực hiện chương trình Nghị sự
21 của Việt nam là điều rất cần thiết, và đó cũng là lý do mà tác giả đã lựa chọn đề án “
Đổi mới và hoàn thiện Chính sách Phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nước ta hiện nay” đề làm đề án tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị lớp Cao cấp

lý luận chính trị các cơ quan trung ương K66B07.
1.2. Mục đích của Đề án
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chính sách Phát triển bền vững
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay, thực trạng thực hiện chính sách

7


PTBV doanh nghiệp vừa và nhỏ và đề xuất các quan điểm, giải pháp hiệu quả
nhằm nâng cao hoạt động chính sách PTBV doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
nam.
1.3. Nhiệm vụ của Đề án
Để thực hiện được mục đích trên, Đề án có những nhiệm vụ sau đây:

- Trên cơ sở khái quát những vấn đề có tính lý luận về chính sách PTBV, Đề án phân

tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và vai trò của chính sách PTBV doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam.

- Tổng kết, đánh giá về thực trạng và phân tích nguyên nhân của thực trạng thực hiện
chính sách PTBV doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay.

- Đề xuất khuyến nghị 1 số giải pháp hoàn thiện chính sách và thực thi chính sách PTBV
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập
và phát triển kinh tế toàn cầu.
1.4 Đối tượng của Đề án
Đề án tập trung vào những vấn đề lý luận về chính sách PTBV doanh nghiệp
vừa nhỏ ở nước ta hiện nay.
Tại Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là loại hình chiếm đa số
trong cộng đồng DN Việt Nam. Thực tế DNNVV chiếm khoảng 90% trong 600.000
doanh nghiệp hiện nay đang còn hoạt động.
Tuy là nhỏ, nhưng thực tế DNNVV lại đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là
tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội
cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo…
Hiện nay DNNVV sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40%
GDP của toàn bộ nền kinh tế, hàng năm tạo thêm công ăn việc làm mới cho khoảng
gần nửa triệu người lao động. Vì vậy, không chỉ với Việt Nam, mà tất cả các nước
đang phát triển đều coi trọng loại hình DNNVV và tạo mọi thuận lợi cho hoạt động
của DNNVV.
1.5 Phương pháp luận

8


Đề án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bền vững; quan điểm, đường lối, chủ

trương chính sách của Đảng định hướng chiến lược phát triển bền vững (chương
trình nghị sự 21) để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững như Nghị quyêt Đại hội
Đảng toàn quốc đề ra và thực hiện cam kết quốc tế về phát triển bền vững. Vận
dụng lý luận chung về chính sách PTBV.
Trong Đề án này, mong muốn được làm rõ thêm dưới góc độ thực tiễn các yếu
tố cấu thành chính sách PTBV, vị trí của chính sách và ảnh hưởng của nó đến quá trình
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta hiện nay.
Đề án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.6 Phương pháp nghiên cứu
Đề án sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: Phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, định tính và định
lượng;
1.7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Đề án
Ý nghĩa lý luận
Đề án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chính sách PTBV nói chung và
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam nói riêng. Đồng thời đánh giá thực trạng
hoạt động chính sách PTBV doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta hiện nay, từ đó đề
xuất phương hướng, giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường hoạt động chính
sách trong thời gian tới. Đề án cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực
tế qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận của khoa học chính sách
công.
Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu chính sách PTBV doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ ra
được những khó khăn, hạn chế trong việc hoạch định và thực thi chính sách, đồng
thời kết quả nghiên cứu giúp cho lãnh đạo các bộ ngành, đơn vị liên quan, các nhà
hoạch định chính sách có cơ sở khoa học và thực tiễn để vận dụng, điều chỉnh chính
sách và tổ chức thực hiện chính sách PTBV cho doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp vừa nhỏ Việt Nam một cách hiệu quả hơn.


9


PHẦN HAI : NỘI DUNG
2.1 Căn cứ xây dựng Đề án
2.1.1 Căn cứ Khoa học và Lý luận
2.1.1.1 Khái niệm
Khái niệm chính sách PTBV đến nay ở nước ta vẫn là một khái niệm mới
chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm chính sách PTBV. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:
Khi tìm hiểu về chính sách PTBV thì trước hết chúng ta cần phải nắm rõ khái
niệm về chính sách. Đây là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống
xã hội, đặc biệt được sử dụng nhiều trong các vấn đề liên quan đến chính trị và pháp
quyền.
Nếu nhìn nhận chính sách như một hiệu tượng tĩnh và tương đối độc lập,
chính sách được hiểu là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn cần
hướng tới, cần đạt được.
Chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào
đường lối này, cương lĩnh chính trị của đảng cẩm quyền mà người ta định ra chính
sách.
Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách khác,
chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng cầm quyền và với bộ máy
quyền lực công- Nhà nước.
Chính sách PTBV đã được thể hiện trong đường lối quan điểm của Đảng,
chủ trương, chính sách của Nhà nước và được thể hiện rõ nét trong các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia cũng như của các ngành và
địa phương của Việt Nam.
Để thực hiện các mục tiêu PTBV ở Việt Nam, hàng loạt chính sách đã được
ban hành trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường và thực hiện các cam kết
quốc tế về PTBV mà Việt Nam đã ký kết. Trong các văn bản này, quan điểm PTBV

của Việt Nam đã được khẳng định, đặc biệt rõ nét trong Chiến lược Phát triển kinh

10


tế - xã hội 1991– 2000, Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX , X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2011- 2020 cũng nhấn mạnh “Phát triển nhanh gắn liền với PTBV, PTBV là
yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”. PTBV đã trở thành đường lối, quan điểm của
Đảng và chính sách của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu PTBV đất nước, Chính
phủ Việt Nam đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam" (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Chương trình của một số ngành và
địa phương cũng đã được xây dựng và ban hành. Trong giai đoạn vừa qua, Việt
Nam đã ký những công ước quốc tế có liên quan tới PTBV. Các cam kết này đã
được Chính phủ giao cho các Bộ, ngành có liên quan làm đầu mối, chịu trách nhiệm
quản lý, phối hợp tổ chức, lồng ghép trong các kế hoạch và chương trình phát triển
ở các cấp để thực hiện.
Tìm hiểu về khái niệm chính sách PTBV trước hết cần tìm hiểu các quan
niệm sau đây về PTBV:
Thuật ngữ “ Phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới (công bố bởi Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và
Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế- IUCN) với nội dung đơn giản“ Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”. Khái niệm
này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo
cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới- WCED.
Báo cáo này ghi rõ : Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những
nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai. Nói cách khác, phát triển bền vững phải đảm đảo có sự

phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng, môi trường được bảo vệ, giữ gìn.
Định nghĩa này có thể mở rộng ra với 3 cấu thành cơ bản về sự PTBV
Về mặt kinh tế : Một hệ thống bền vững về kinh tế phải tạo ra hàng hóa và dịch
vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát được, tránh sự mất cân đối giữa các
khu vực làm tổn hại đến sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.

11


Về mặt xã hội : một hệ thống bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công
bằng trong phân phối, cung cấp đủ các dịch vụ xã hội bao gồm : y tế, giáo dục, công
bằng giới, sự tham gia và trách nhiệm chính trị.
Về môi trường: Một hệ thống phát triển bền vững phải duy trì nền tảng
nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức. Điều này bao gồm việc duy trì sự đa
dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác. Trong đó, các
điều kiện có tính nguyên tắc về PTBV là : duy trì dân số ở mức tối thiểu, khai thác
tối ưu các nguồn tài nguyên (không thể tái tạo và có thể tái tạo được); ngăn cản sự
thoái hóa môi trường; cải thiện hiệu quả năng lượng.
Năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường và
Phát triển của Liên Hợp Quốc đã xác nhận lại khái niệm này, đã gửi đi một thông điệp
rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa
hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (Hội nghị
Rio +10) nhóm họp tại Johannesburg, Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh
đạo cũng như các chuyên gia kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc gia đã
tổng kết lại kế hoạch hành động về sự phát triển bền vững 10 năm qua và đưa ra
quyết sách liên quan đến các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp và
sự đang dạng sinh thái.
Theo tổ chức Ngân hàng phát triển Châu Á(ADB) : Phát triển bền vững là
một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và

nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các
nhu cầu của thế hệ trong tương lai.
Để xây dựng một xã hội PTBV. Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đã
đề ra 9 nguyên tắc:

1. Tôn trọng và quan tâm đến đời sống cộng đồng
2. Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người
3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
4. Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được
5. Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất
6. Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân
12


7. Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình
8. Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ.
9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.
Phát triển bền vững doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa nhỏ nói
riêng là sự phát triển hài hòa trong doanh nghiệp trên 3 mặt : Phát triển kinh tế (nhất
là tăng trưởng kinh tế)- Trách nhiệm xã hội – Bảo vệ môi trường để đáp ứng được
những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của doanh nghiệp hiện tại mà
không làm tổn hại và trở ngại đến nguồn tài nguyên khai thác trong tương lai,
không làm giảm chất lượng cuộc sống các thế hệ trong tương lai.
Với định nghĩa này, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ cần tuân thủ các chuẩn mực
sau :

1. Hiệu quả kinh tế : Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng
suất lạo động, nâng cao doanh thu và lợi nhuận, nâng cao uy tín và Thương hiệu của
doanh nghiệp trên Thương trường.


2. Bảo vệ môi trường: Sản phẩm sản xuất ra phải sử dụng công nghệ sạch, đảm bảo
sức khỏe người tiêu dùng, đảm bảo vệ sinh môi trường (trong việc xử lý nước
thải,. . .); chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao; ví dụ như sản xuất rau sạch, trái
cây sạch, (hạn chế tối đa sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, . .). Sản phẩm được
sản xuất ra từ áp dụng công nghệ sạch, quy trình sản xuất nhằm giảm thiểu chất
phát thải gây hiệu ứng nhà kính và bảo vệ môi trường chống biến đổi khí hậu.

3. Bảo vệ người lao động : Thực hiện bình đẳng về giới, tổ chức sản xuất an toàn lao
động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên (quyền lợi được học tập,
đào tạo, . .) không được sử dụng lao động chưa đến tuổi vị thành niên.

4. Chấp hành luật pháp: Chấp hành những quy định của Pháp luật trong việc đảm bảo
nộp thuế, đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động và nhiều quy định của quốc gia,
. . .thực hiện những quy định của luật doanh nghiệp…

5. Tham gia các công tác xã hội, cộng đồng, đóng góp từ thiện các chương trình giúp
“xóa đói giảm nghèo”; giúp thanh thiếu niên khó khăn có điều kiện đến trường, xây
nhà tình nghĩa,….thể hiện trách nhiệm đối với xã hội, thể hiện đạo đức kinh doanh của
một doanh nghiệp.
Như vậy, Chính sách PTBV doanh nghiệp vừa và nhỏ là việc Nhà nước sử
dụng những công cụ khác nhau để tác động có hệ thống và thường xuyên tới doanh

13


nghiệp nhằm trang bị cho cộng đồng doanh nghiệp những kiến thức nhất định, để từ
đó họ có những định hướng đúng đắn về PTBV doanh nghiệp trên 3 mặt (kinh tếxã hội- môi trường)
Định hướng chính sách phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ giai
đoạn 2011-2020

Trên nhiều diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế cũng như trong các
chính sách, chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển bền vững
đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Ở
Việt Nam, phát triển bền vững là một trong những nội dung cơ bản để thực hiện đổi
mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu
mà nền kinh tế hướng tới. Việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn 2011-2020 được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI với quan
điểm “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, Phát triển bền vững là yêu
cầu xuyên suốt trong Chiến lược” và tiếp tục khẳng định“ Khoa học và công nghệ
giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài
nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển
và sức cạnh tranh của nền kinh tế”
Định hướng chính sách PTBV DNNVV ở nước ta hiện nay cần bắt kịp với
Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan tạo nhiều cơ hội phát triển
cho các quốc gia, nhất là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử dụng hiệu quả
mọi nguồn lực, trước hết là nguồn nhân lực, tạo công ăn việc làm, giải quyết tốt các
vấn đề xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa có không ít thách thức. Một trong những thách thức
đó chính là việc thực hiện “ Trách nhiệm Xã hội của Doanh nghiệp”- CSR liên quan
đến một số nội dung chủ yếu thuộc lĩnh vực lao động, môi trường, thông qua những
“ Bộ Quy tắc ứng xử” ( Code of Conduct)
Trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp (CSR) là cam kết của doanh nghiệp
đang hoạt động góp phần vào Phát triển kinh tế bền vững thông qua việc làm với
người lao động, gia đình họ, cộng đồng với địa phương và xã hội nói chung nhằm
cải thiện cuộc sống bằng những cách có lợi cho việc kinh doanh và cho sự phát triển
( theo Công ty tài chính quốc tế)

14



Các khái niệm về kinh doanh có trách nhiệm, đạo đức kinh doanh, doanh
nghiệp bền vững, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, . . .dùng để chỉ các hành vi kinh
doanh có trách nhiệm. Các hành vi này được thể hiện qua ba yếu tố : Tuân thủ pháp
luật, tôn trọng quyền lợi của các bên có liên quan đến doanh nghiệp\toàn cầu LHQ
đưa ra 10 nguyên tắc trên 4 lĩnh vực : Quyền con người, tiêu chuẩn lao động, Môi
trường và chống tham nhũng. Mười nguyên tắc chung của Hiệp ước Toàn cầu, bao
gồm:
Quyền con người
Nguyên tắc 1: Doanh nghiệp phải ủng hộ và tôn trọng các Quyền con người đã
được Quốc tế công bố.
Nguyên tắc 2: Cam kết không đồng lõa với việc lạm dụng nhân quyền
Lao động
Nguyên tắc 3: Doanh nghiệp phải ủng hộ việc tự do thành lập hiệp hội và thừa
nhận quyền thương lượng tập thể.
Nguyên tắc 4: Loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt
buộc.
Nguyên tắc 5: Thật sự xóa bỏ tình trạng lao động trẻ em.
Nguyên tắc 6: Loại bỏ sự phân biệt đối xử trong tuyển dụng lao động và việc làm.
Môi trường
Nguyên tắc 7: Doanh nghiệp phải ủng hộ các phương án phòng ngừa đứng trước
thách thức về môi trường.
Nguyên tắc 8: Thực hiện các sáng kiến để nâng cao hơn nữa trách nhiệm đối với
môi trường.
Nguyên tắc 9: Khuyến khích phát triển và phổ biến công nghệ thân thiện với
môi trường
Chống Tham nhũng
Nguyên tắc 10: Doanh nghiệp phải chống lại nạn tham nhũng dưới mọi hình
thức, kể cả hối lộ và nhận hối lộ.

Có thể nói, trong quá trình cạnh tranh và phát triển bền vững, CSR sẽ tập trung
vào hai xu hướng:

- Doanh nghiệp cần thông qua sản phẩm và dịch vụ của mình tạo ra những hành vi và
phong cách sống bền vững trong xã hội

15


- Đổi mới và sáng tạo trong quá trình thích nghi với môi trường kinh doanh thay đổi sẽ
tạo ra những nguồn lực dồi dào và bền vững cho doanh nghiệp
Đánh giá được tầm quan trọng của CSR, trong Chiến lược phát triển bền
vững giai đoạn 2011-2020, Chính phủ luôn coi trọng việc thúc đẩy thực hiện CSR
như một biện pháp tăng cường năng lực quản lý và thực hiện phát triển bền vững
Việc thực hiện tốt CSR có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp Việt
nam.
Mặc dù đã có nhiều doanh nghiệp thực hiện tốt CSR, vẫn còn không ít doanh
nghiệp chưa nhận thức đúng đắn về CSR và chưa thực hiện CSR vào chiến lược dài
hạn của mình mà chỉ coi CSR đơn thuần là công cụ quảng bá hình ảnh. Bên cạnh
đó, việc thiếu thông tin về các chính sách của Nhà nước, các thông lệ tốt và kinh
nghiệm triển khai các hoạt động CSR cũng là các nguyên nhân dẫn đến tình trạng
nói trên.
2.1.2 Căn cứ Lý luận Chính trị và Pháp lý
Thứ nhất, ở nước ta Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, Đảng có
nhiều chủ trương biện pháp quan trọng. Nhà nước là cơ quan triển khai thực thi chính
sách, đồng thời doanh nghiệp là đơn vị trực tiếp, tiếp thu thực hiện chính sách PTBV.
Trải qua các Đại hội X (2006) và XI (2011) của Đảng, tư tưởng phát triển bền vững đã
trở thành chính sách xuyên suốt của Việt Nam trong phát triển đất nước. Mục tiêu tổng
quát của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là “Đạt được sự đầy
đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự

đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường”.
Như vậy, với những chủ trương và định hướng trên sự lãnh đạo của Đảng đã
trở thành điều kiện tiên quyết bảo đảm hoạt động chính sách PTBV doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng đạt hiệu quả.
Thứ 2, Nhà nước xác định chiến lược, chương trình, nội dung kế hoạch chính
sách PTBV cho các đối tượng doanh nghiệp. Nhà nước triển khai thực hiện chương
trình chính sách PTBV ở tất cả các cấp, các ngành, xây dựng và đào tạo đội ngũ cán
bộ, công chức quản lý và thực hiện chính sách PTBV. Nhà nước đảm bảo kinh phí,

16


cơ sở vật chất cho chính sách PTBV, tổ chức hệ thống thông tin, tuyên truyền pháp
luật, cung cấp các dịch vụ pháp lý.
Thứ 3, Tổ chức chính trị xã hội, hiệp hội ngành hàng trong đó có đảm bảo
hoạt động chính sách PTBV của doanh nghiệp, đó là Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt nam (VCCI) và hiệp hội ngành hàng. Hội đồng Doanh nghiệp vì sự
phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD) của VCCI đã tập hợp các doanh nghiệp,
các tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia, các hiệp hội ngành nghề liên quan đến sự
nghiệp phát triển bền vững để thực hiện các vai trò và chức năng chính sau:

- Góp phần thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp đi đầu trong việc thực hiện Định hướng
chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam;

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách về PTBV đến khối doanh
nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
cũng như quảng bá hình ảnh Việt Nam;


- Hỗ trợ các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp đề ra và thực hiện chính sách
phát triển bền vững, cũng như khuyến khích họ đề xuất mục tiêu và chương trình
hành động PTBV của từng đơn vị;

- Làm cầu nối giữa các cơ quan chính phủ và khu vực doanh nghiệp nhằm truyền tải
thông tin và phản ánh nhu cầu thực tế của doanh nghiệp trong quá trình triển khai
chương trình PTBV;

- Tăng cường vai trò tư vấn và kiến nghị chính sách;
- Tham gia các hoạt động của Chính phủ, của các Bộ, ngành và của Hội đồng Phát
triển bền vững quốc gia khi được yêu cầu.
Thứ 4, Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong thực hiện các mục tiêu
PTBV đất nước trên cả 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Sự phát triển mạnh
mẽ của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã có những đóng
góp quan trọng trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế và tiến trình PTBV của
Việt Nam. Thông qua việc thực hiện các chính sách, chương trình về phát triển KT XH và BVMT như “Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm
2020”; “Chương trình mục tiêu quốc gia Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
giai đoạn 2006 - 2015”; “Chương trình Tiết kiệm điện giai đoạn 2006 - 2010”; “Kế
hoạch quốc gia kiểm soát ô nhiễm môi trường đến năm 2010”… các doanh nghiệp
đã có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp PTBV của đất nước. Nhiều doanh
nghiệp đã đi tiên phong trong thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững, triển khai

17


áp dụng sản xuất sạch hơn và đã thu được lợi ích từ các hoạt động này. Nhiều doanh
nghiệp cũng đã tham gia tích cực trong các chương trình thúc đẩy thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Chương trình quốc gia về an toàn lao động, bảo
hiểm lao động… Việc thực hiện trách nhiệm xã hội vừa đem lại lợi ích cho doanh
nghiệp, vừa mang lại lợi ích cho xã hội, đặc biệt là nâng cao năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp, của quốc gia và hỗ trợ thực hiện tốt hơn pháp luật lao động tại
Việt Nam.
2.1.3 Căn cứ thực tiễn
Một là, Nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động chính sách PTBV cho mọi đối tượng doanh nghiệp
Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền và thực hiện chính sách PTBV vào doanh nghiệp.
Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách được thể chế hóa bằng luật và các
văn bản dưới luật nhằm thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững.
Trong giai đoạn kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, các chính sách tiếp tục hướng tới mục
tiêu phát triển nhanh và bền vững trong toàn nền kinh tế, các ngành và lĩnh vực,
cũng như các địa phương trong điều kiện hội nhập. Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã
kết thúc đàm phán và chính thức ký kết việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Việt Nam chính thức trở thành nước thành viên thứ 150 của WTO từ ngày
1/1/2007, đánh dấu một mốc quan trọng đưa Việt Nam tham gia sâu toàn diện vào
nền kinh tế thế giới, hội nhập cùng cộng đồng quốc tế. Các chính sách trong điều
kiện đó vừa hướng tới việc tiếp tục mở cửa thị trường thông thoáng hơn với thế giới
và cả trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á, với nhiều giải pháp chính sách quan
trọng hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế được cải thiện, một phần quan
trọng nhờ có chính sách kinh tế đúng và điều hành tốt của các cấp chính quyền, sự
ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng quốc tế cho doanh nghiệp Việt nam.
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như Nghị quyết của Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế, ngày 17 tháng
8 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam" (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Trong Định hướng
chiến lược, mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn
định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân

18



dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ
nần cho các thế hệ mai sau. Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt kết quả
cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng
và chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người
đều có cơ hội học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế
khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội,
nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa
các thế hệ trong một xã hội. Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường. Quyết
định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có
hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; khắc phục suy thoái và
cải thiện chất lượng môi trường. Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở
Việt Nam nêu lên những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề ra những
chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần
được thực hiện để phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Trên cơ sở hệ thống kế
hoạch hóa hiện hành, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam tập
trung vào 19 hoạt động ưu tiên cần được chọn lựa và triển khai thực hiện, bao gồm:
5 hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, 5 hoạt động trong lĩnh vực xã hội và 9 hoạt động
trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ
sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển
khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước
trong thế kỷ 21. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là căn cứ
để xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển của các ngành, địa
phương, nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất
nước. Trong quá trình triển khai, thực hiện, Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam thường xuyên được xem xét để bổ sung và điều chỉnh cho phù

hợp với từng giai đoạn phát triển.
Hai là, Quy định cơ sở pháp lý cho cơ chế phối hợp trong chính sách PTBV
Công tác tuyên truyền chính sách PTBV cho mọi đối tượng doanh nghiệp có
1 vị trí hết sức quan trọng, nó không chỉ giúp doanh nghiệp hiểu rõ về đinh hướng
mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển tốt trên 3 mặt kinh tế, môi trường

19


và trách nhiệm xã hội. Việc triển khai thực hiện chính sách PTBV cho doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp họ nâng cao nhận thức có một vai
trò hết sức quan trọng, đây không phải trách nhiệm riêng của doanh nghiệp mà cần
có sự tham gia của các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội.
Bảo đảm cơ chế trên là bảo đảm phát huy được sức mạnh tổng hợp và có
hiệu quả trong công tác thực hiện chính sách PTBV trong mọi đối tượng doanh
nghiệp cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, đoàn thể, trong đó chú
trọng đến việc phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể, rõ ràng với sự tham gia
của cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, của các cấp, các ngành để tránh
sự chồng chéo cũng như đùn đẩy trách nhiệm.
Điều kiện đảm bảo chính sách PTBV cho doanh nghiệp không thể thiếu kinh
phí, phương tiện vật chất để tiến hành các hoạt động cụ thể. Để có được điều này,
vấn đề không chỉ dựa vào chế độ của Nhà nước, các chủ thể chính sách PTBV là
doanh nghiệp mà đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam cần phát huy khả
năng sáng tạo, năng động, tích cực học hỏi mô hình, cải tiến và ứng dụng công nghệ
cao, nâng cao tầm nhìn lãnh đạo, . . .
Chính sách riêng về PTBV doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta là lĩnh vực rất
mới, do vậy muốn nâng cao được hiệu quả của công tác này thì việc đầu tư cả về
nhân lực và kinh phí là rất quan trọng.

2.2. Nội dung của Đề án

2.2.1 Khái quát thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, kinh tế thế giới phục
hồi chậm. Tình hình chính trị, an ninh quốc phòng diễn biến căng thẳng, có nhiều
xung đột. Ở tại cấp quốc gia như Việt Nam, vấn đề lạm phát đã được kiểm soát,
kinh tế vi mô ổn định hơn, tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi, môi trường kinh
doanh có bước được cải thiện, huy động và sử dụng ngày càng tốt hơn các nguồn
lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Cùng với đà tăng trưởng GDP, các
con số thống kê khác về kinh tế, lao động việc làm cho thấy bức tranh sáng sủa của
Việt Nam trong năm vừa qua. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,6%, chỉ số giá
tiêu dùng tăng 0,136%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 2.945 nghìn tỷ

20


đồng, đầu tư từ ngân sách đạt 108 nghìn tỷ đồng, tổng vốn FDI đăng ký đạt 20,2 tỷ
USD, xuất khẩu đạt con số kỷ lục từ trước tới nay 150 tỷ USD và xuất siêu 2 tỷ
USD. Về lao động việc làm, năm 2014 số doanh nghiệp được thành lập mới đạt
74.842 doanh nghiệp so với 67.823 doanh nghiệp bị giải thể trong cùng năm, vốn
đăng ký trung bình mỗi doanh nghiệp đạt 5,8 tỷ đồng và tạo ra hơn 1 triệu việc làm,
con số lao động thất nghiệp và thiếu việc làm giảm xuống tương ứng còn 2,08% và
2,45% (so với con số 2,18% và 2,75% năm 2013), tổng số lao động đang làm việc
là 53,02 triệu người trong đó 47% trong nông nghiệp, 21% trong công nghiệp và
32% trong dịch vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được trong năm vừa qua còn
có nhiều hạn chế, vướng mắc vẫn còn cần phải tiếp tục tháo gỡ trong những năm
tiếp theo. Thủ tục hành chính vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Sản xuất kinh
doanh còn gặp không ít khó khăn, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng vẫn chưa dễ
dàng. Năng lực tài chính và quản trị của phần lớn doanh nghiệp trong nước còn hạn
chế. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Tỷ trọng đầu tư của khu
vực ngoài nhà nước giảm.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) Việt Nam có vị trí quan trọng trong
phát triển kinh tế và xã hội, chiếm khoảng 97% tổng số DNNVV đăng ký thành lập,
là khu vực Doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển và đóng
góp vào ngân sách nhà nước. DNNVV có vốn đầu tư ban đầu tuy không lớn nhưng
được hình thành và phát triển rộng khắp ở cả thành thị và nông thôn, ở hầu hết các
ngành nghề, lĩnh vực; là khu vực khai thác và huy động các nguồn lực, tiềm năng,
tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư và tạo ra một thị trường cạnh
tranh lành mạnh hơn.
Trong chương trình đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn
chú trọng đến việc hình thành, phát triển DNNVV và coi đó là lực lượng chủ lực
của phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 khóa IX, đã đặt ra yêu cầu xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam
cùng với nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Đại
hội X của Đảng đã đặt ra yêu cầu xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển

21


DNNVV, trong đó đưa ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 cả nước có 500.000
DNNVV. Năm 2020 có 1triệu doanh nghiệp.
Trong bối cảnh của toàn cầu hóa, Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn
dân, Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/04/2013 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế
quốc tế. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước, có quan hệ
kinh tế - Thương mại với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, là thành viên của hầu
hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế và vai trò ngày càng được
khẳng định. Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới từ 2007,
31/2/2015 thành lập Cộng đồng ASEAN ( AEC), năm 2015 sẽ ký 7 Hiệp định FTA
và nếu kết thúc , Việt nam có FTA với 55 nền kinh tế (Hiệp định FTA EU- Việt
nam. Bao gồm 28 thành viên; Hiệp định FTA Việt nam- Hàn quốc; Hiệp định FTA

Việt nam- EFTA bao gồm Thụy sỹ, Lichtenstein, Nauy, Iceland; Hiệp định FTA
Việt nam liên minh thuế quan Nga- Kazachstan- Belarus ( VCUFTA); năm 2015 sẽ
ký TPP, RCEP dự kiến sẽ ký kết 2015..., đến 2018, theo cam kết WTO, nước ta
phải hoàn tất thể chế kinh tế thị trường ( KTTT). Như vậy, có thể nói nước ta sẽ hội
nhập đầy đủ với thị trường toàn cầu. Khi đó, DNNVV Việt Nam phải đối mặt với
các đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công
nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều
kiện mới (thị trường toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế
thương mại và luật pháp quốc tế). Nói cách khác, DNNVV Việt Nam đang phải đối
mặt với những thách thức thật sự to lớn.
Nhằm tiếp tục khuyến khích, trợ giúp phát triển DNNVV đáp ứng các yêu
cầu mới về hội nhập và phát triển, ngày 30 tháng 6 năm 2009, Chính phủ ban hành
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV thay thế Nghị định số
90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển
DNNVV.
Cơ chế thị trường là sự cạnh tranh không mang tính nhân nhượng, những
doanh nghiệp nào thích ứng được, tuân theo các quy luật của thị trường sẽ tồn tại
và phát triển. Môi trường luôn luôn biến động, vậy làm thế nào để đứng vững
được trong nên kinh tế thị trường đầy sự thay đổi này? Đó chính là lý do tại sao
doanh nghiệp nhất là DNNVV lại cần phải hoạch định một chiến lược phát triển
bền vững nhằm thích ứng với môi trường, tập trung mọi nguồn lực thực hiện

22


những mục tiêu đã đặt ra nhằm tận dụng tối đa các cơ hội và giảm thiểu các khó
khăn, thách thức để DNNVV phát triển bền vững cả về kinh tế - xã hội – môi
trường.
DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật,
được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng

nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
DNNVV) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ
thể như sau:

Khu vực

DN siêu nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ

Số lao động

Tổng
nguồn
vốn

Số lao
động

Tổng
nguồn vốn

từ trên
10 đến
200

từ trên 20
đến 100
tỷ đồng


I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản

10 người
trở xuống

20 tỷ đồng
trở xuống

II. Công nghiệp
và xây dựng

10 người
trở xuống

20 tỷ đồng từ trên 10
trở xuống đến 200

III. Thương mại
và dịch vụ

10 người
trở xuống

10 tỷ đồng
trở xuống

từ trên
10 đến

50

Doanh nghiệp vừa

từ trên 20
đến 100
tỷ đồng
từ trên 10
đến 50
tỷ đồng

Số lao
động
từ trên
200 đến
300
người
từ trên
200 đến
300
người
từ trên
50 đến
100
người

Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
- Khu vực DNNVV phát triển nhanh nhất về số lượng DNNVV và tạo việc làm
mới cho người lao động. Có thể nêu lên một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, do tác động của những đổi mới trong thể chế, chính sách, nhất là

tác động của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, số cơ sở sản xuất kinh doanh dân
doanh tăng khá nhanh. Sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp đã kéo theo sự gia
tăng về số lượng lao động (trong 5 năm qua, số lương lao động trong các cơ sở sản

23


xuât kinh doanh đã tăng 121,3%) góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho xã
hội.
Thứ hai, cơ cấu ngành của các cơ sở sản xuất kinh doanh đã có chuyển biến
tích cực, số DNNVV kinh doanh các ngành dịch vụ đã tăng lên.
Thứ ba, sự phát triển nhanh của DNNVV của mỗi tỉnh/thành phố đã phản ánh
kết quả cải thiện hoạt động điều hành kinh tế của chính quyền cấp tỉnh.
Xét về hiệu quả kinh doanh, tuy khu vực này chiếm tỷ trọng chi phối về số
DNNVV, lao động, vốn kinh doanh và doanh thu nhưng các chỉ tiêu về lợi nhuận
trước thuế và đóng góp cho ngân sách nhà nước lại có tỷ trọng thấp, khu vực
DNNVV chủ yếu phát triển nhanh về chiều rộng, giải quyết được nhiều việc làm,
góp phần quan trọng vào việc xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội cho đất
nước. Tuy nhiên, kết quả sản xuất kinh doanh cũng cho thấy, hầu hết các DNNVV
là các DNNVV vừa và nhỏ, kinh doanh còn nhỏ lẻ, hiệu quả còn thấp.
- Khu vực DNNVV có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tuy số lượng DNNVV ít,
nhưng phát triển nhanh về quy mô đầu tư và đặc biệt đạt hiệu quả kinh doanh cao
nhất trong các loại hình DNNVV.
- Khu vực DNNVV nhà nước ngày càng được thu hẹp về quy mô theo chủ
trương cổ phần hóa và sắp xếp lại của nhà nước để đảm bảo kinh doanh ngày càng
hiệu quả hơn.
2.2.2 Chính sách phát triển bền vững của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
hiện nay
a. Thực tế của việc hoạch định chính sách Phát triển bền vững DNNVV
Chỉ 2% doanh nghiệp (DN) nhỏ của nước ta phát triển thành DN vừa. Đó là

một thực trạng rất đáng báo động, nhất là trong xu hướng hội nhập đang diễn ra
ngày một mạnh mẽ hơn như hiện nay. Trước sức ép cạnh tranh đang gia tăng
nhanh chóng, làm sao để doanh nghiệp phát triển bền vững theo cả hai khía cạnh:
lớn mạnh và thân thiện với môi trường, cộng đồng là bài toán đặt ra với các nhà
hoạch định chính sách.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, mặc dù môi trường kinh doanh và
năng lực cạnh tranh của nước ta có bước được cải thiện nhưng so với các nước
trong khu vực thì vẫn còn thấp. Thể chế luật pháp, cơ chế chính sách, thủ tục hành
chính, thực thi công vụ... vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập gây khó khăn, phiền

24


hà, tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, trên thực tế,
các doanh nghiệp của nước ta thường khó khăn trong việc lớn lên.
Một số quy định không tạo thuận lợi cho DNVVV phát triển vẫn đang được
các cơ quan hoạch định chính sách ban hành. Ví dụ : theo TS Nguyễn Bá Ân, Tổng
Thư ký Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh,
thời gian nộp thuế của DN nước ta dù đã được cải thiện nhưng vẫn cao, hiện nay là
247 giờ/năm, gấp đôi mức trung bình của các DN trong ASEAN là 121 giờ/năm,
bảo hiểm xã hội còn 263 thủ tục. "Cần tiếp tục cải cách để rút ngắn thời gian thực
hiện các thủ tục hành chính của DN", TS Nguyễn Bá Ân nhấn mạnh.
Trong khi đó, dưới áp lực hội nhập, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, chuyên
gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, thời điểm thành lập cộng đồng AEC đã đến rất
gần, thị trường của DN không còn là thị trường của 90 triệu dân Việt Nam nữa mà
là thị trường ASEAN với 600 triệu dân, thậm chí là thị trường ASEAN + 6 chiếm
tới 40% dân số toàn cầu. Do vậy, DN nếu muốn tồn tại và phát triển mạnh phải
tính toán những chiến lược lớn. Nhưng hiện tại các DN Việt Nam hầu hết ở quy
mô nhỏ và vừa. Vốn đã hạn chế về quy mô lại gặp các đợt suy giảm kinh tế hồi
năm 2008 và 2012 nên đội ngũ DN đã teo đi đáng kể

b. Áp lực cho các nhà hoạch định chính sách phát triển bền vững doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Làm cách nào để doanh nghiệp phát triển bền vững, có thể lớn mạnh được
và đủ tiềm lực để đầu tư vào khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động và chọn
lựa được những công nghệ tốt thân thiện với môi trường là vấn đề đang được đặt
ra cấp bách.
Vào tháng 3-2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19 về những nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia. Nghị quyết đã đưa ra các mục tiêu và giải pháp cụ thể, yêu cầu các
bộ, ngành phải vào cuộc để rà soát lại các thủ tục, điều kiện, giảm thời gian và chi
phí thực hiện các thủ tục hành chính, thực hiện các giải pháp công khai, minh bạch
ở các cơ quan hành chính...TS Nguyễn Bá Ân cho rằng, sau một năm Nghị quyết
19 được ban hành và có hiệu lực, môi trường kinh doanh ở nước ta đã có những
cải thiện đáng kể. Thí dụ như Nghị quyết đề ra bảy giải pháp tổng thể và 49 giải

25


×