Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ và sự vận dụng tư tưởng đó ở thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.92 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHI HÙNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC
CỦA CÁN BỘ VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHI HÙNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC
CỦA CÁN BỘ VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết Học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐÌNH HÒA


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học
của TS. Nguyễn Đình Hòa. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của công trình
khoa học này.
Người làm luận văn

Nguyễn Phi Hùng


MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................4
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1........................................................................................................12
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC CỦA CÁN
BỘ: NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA...................................................................12
1.1.1. Khái niệm cán bộ.................................................................................................12
1.1.2. Sửa đổi lối làm việc............................................................................................14
Tiểu kết chương 1..........................................................................................................41
2.2.3. Sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở Thành phố phải đảm bảo nguyên tắc tổ chức
thực tiễn: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn; thường xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình.........................................70

KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn xác định, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của sự nghiệp cách mạng. Do đó, việc phát huy tính tích cực, vai trò chủ thể,
tự giác sáng tạo của đội ngũ cán bộ là vấn đề then chốt của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thời kỳ mà đất
nước đang bước sang giai đoạn phát triển mới, với những thời cơ, vận hội lớn
đan xen cùng những thách thức, nguy cơ rất nghiệt ngã, như “tình trạng suy
thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội chủ nghĩa cá nhân và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra
nghiêm trọng”[22, tr.65]; “Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách
nhiệm ở một số bộ phận công chức, nhất là ở cơ quan trực tiếp giải quyết
công việc của dân và doanh nghiệp, chậm được khắc phục” [22, tr.64]; tình
trạng: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu
kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong gương mẫu, vừa
không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ” [22, tr.66];… Đó là những biểu hiện
theo chiều hướng tiêu cực mà Đại hội X (năm 2006) Đảng ta đã chỉ ra. Tuy
nhiên, những biểu hiện đó hiện nay không hề giảm mà đến Đại hội XII (2016)
Đảng ta vẫn còn nhấn mạnh: “Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn
nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp… Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên chưa bị đẩy lùi”[227, tr.185]. Thêm vào đó là những biểu hiện xa
rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các
thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện “âm mưu diễn biến hòa bình”; “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp cả trong Đảng,
1



trong hệ thống chính trị và cả trong xã hội;… đã tác động không nhỏ đến
niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Trước thực tế đó, việc “xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức” [27, tr.202], trong đó có sửa đổi lối làm việc của cán bộ theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một việc làm rất quan trọng và rất cần
thiết, chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn có ý nghĩa cơ
bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng và nhân dân ta; để
đảm bảo Đảng ta là – Đảng lãnh đạo, cầm quyền – thực sự trong sạch, vững
mạnh, nâng cao được năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh cầm quyền
của Đảng, làm cho Đảng ta thực sự là lực lượng tiên phong, kết tinh và thể
hiện tinh hoa của dân tộc, ngang tầm nhiệm vụ cũng như xứng đáng với lòng
tin của nhân dân.
Thành phố Hồ Chí Minh “là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về
kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu
và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan toả lớn
của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả
nước”[8, tr.1], các ngành, các cấp và nhân dân Thành phố, mà đi đầu là lực
lượng cán bộ của Thành phố phải phát huy truyền thống cách mạng vẻ
vang, đã nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, năng động sáng tạo, chủ động nắm bắt
thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, giành những thắng lợi to lớn, toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo,
xây dựng Ðảng, an ninh quốc phòng, duy trì tốc độ phát triển hợp lý. Muốn
vậy, trước hết cán bộ Thành phố cần phải sửa đổi lối làm việc để có thể
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Thành phố, thật sự trở
thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền
vững của Thành phố, xứng đáng là trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục
và đào tạo của đất nước. Trước yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng
2



Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ và sự vận dụng tư tưởng
đó ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” để làm đề tài luận văn thạc sỹ
chuyên ngành triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khóa họp thứ 24 của Tổ chức khoa học, văn hóa và giáo dục của
Liên hiệp quốc (UNESCO) quyết định tôn vinh Hồ Chí Minh danh hiệu cao
quý: “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất” năm 1990,
đặc biệt từ khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam (tháng 6 - 1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động”[27, tr.127] thì việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai
sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều tác phẩm, công trình, đề tài khoa học
nghiên cứu công phu theo nhiều hướng khác nhau được công bố. Trong phạm
vi những nội dung có liên quan đến đề tài luận văn, có thể khái quát thành các
hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
tác phong của cán bộ nói chung. Có các công trình tiêu biểu đã công bố như:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, đề tài KX-02-08 thuộc chương trình
khoa học và công nghệ cấp Nhà nước – Tư tưởng Hồ Chí Minh (KX-02) do
PGS, PTS. Nguyễn Văn Truy (chủ nhiệm), Hà Nội, 1994. Trong công trình
này, các tác giả đã phân tích khá sâu về nguồn gốc, đặc điểm và nội dung tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh;
Cuốn sách “Từ Các Mác đến Hồ Chí Minh một dòng chảy văn hóa”
của tác giả Trần Đình Huỳnh (chủ biên), Nxb. Hà Nội, 2003. Cuốn sách đã
tập hợp các bài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều bình diện, hệ
thống theo trình tự thời gian, sự phát triển tư tưởng qua hoạt động thực tiễn
thành dòng chảy xuyên suốt từ Marx đến Hồ Chí Minh. Tiêu biểu trong số đó
3



có nội dung “Sửa đổi lối làm việc”. Trong nội dung này, các tác giả đã phân
tích khá sâu về mục đích, yêu cầu của “Sửa đổi lối làm việc”;
Công trình “Triết học văn hóa trong đạo đức Hồ Chí Minh” của GS,
TS. Hồ Sỹ Vịnh, Nxb. Dân Trí, 2014. Trong công trình này, tác giả đã nghiên
cứu, phân tích các bài nói, bài viết, thơ, văn chính luận của Hồ Chí Minh, từ
đó tác giả đã rút ra nhiều bài học về đạo đức và lối sống của Người là gương
sáng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân;
Cuốn sách “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh – một số vấn đề cơ bản”
do PGS,TS. Trần Văn Phòng và PGS, TS. Hoàng Anh biên soạn, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2015. Cuốn sách phân tích khái quát những nội dung về
tư tưởng triết học Hồ Chí Minh như cơ sở hình thành, thế giới quan, phép
biện chứng duy vật trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh; sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vấn đề Nhà nước và con người trong tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh; phong cách tư duy Hồ Chí Minh; và giá trị vận dụng của tư tưởng Hồ
Chí Minh thời đại ngày nay;
Cuốn sách “Học tập đạo đức Bác Hồ” của giáo sư Vũ Khiêu, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích
khá sâu những nội dung: Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nội dung cơ bản
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những vấn đề học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của nhân dân ta ngày nay. Từ
đó, tác giả đã rút ra những bài học nhằm góp phần nâng cao nhận thức của
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về giá trị to lớn của tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo ra những chuyển biến trong ý thức tu
dưỡng, rèn luyện và hành động theo tấm gương đạo đức của Người;
Công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Tư tưởng Hồ Chí
Minh và con đường cách mạng Việt Nam” (mã số KX.02.01) thuộc chương
4



trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX.02, do Đại tướng Võ Nguyên
Giáp (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 2015. Trong công trình này, các tác
giả đã trình bày một cách có căn cứ khoa học, toàn diện những vấn đề lý luận
cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, làm rõ
và có những đóng góp mới về quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đặc biệt các tác giả đã phân tích một cách hệ thống những luận
điểm sáng tạo lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về tư tưởng nhân văn, đạo đức,
văn hoá Hồ Chí Minh;
Cuốn sách “Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ” của Bảo tàng Hồ Chí
Minh, Nxb.Thanh niên. Cuốn sách đã phân tích làm rõ nguồn gốc và sự khác
biệt cơ bản giữa đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nêu lên
những chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, trong đó có đạo đức
của người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhằm đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu sự vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức, tác phong của cán bộ ở phạm vi một đối tượng, một địa phương,
một ngành, tiêu biểu có các công trình: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
giáo dục đạo đức cho sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của
ThS.Phạm Tấn Xuân Tước, PGS, TS. Huỳnh Thị Gấm, Nxb. Lý luận chính
trị, 2008. Trong công trình này, các tác giả đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên ở thành phố Hồ Chí
Minh. Chỉ rõ thực trạng đạo đức của sinh viên trong các trường ở thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay. Nêu lên sự cần thiết phải giáo dục tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh cho sinh viên, để đảm bảo tính toàn diện và cân đối giữa tài
năng và đạo đức trong họ trước sự chuyển mình của đất nước;
Trong cuốn sách: “Văn hóa Hồ Chí Minh” của các tác giả Nguyễn Hữu
Đảng, Lê Ngọc Y, Trần Thị Hồng Thúy, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
5



2014, gồm một số bài viết được chọn lọc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những
bài viết này vẫn còn nguyên giá trị thời sự và tính thiết thực trong công tác
quản lý, xây dựng đất nước và cuộc sống đời thường hiện nay. Ngoài ra, cuốn
sách còn tập hợp những bài nghiên cứu về sự nghiệp văn hóa, về tư tưởng đạo
đức cán bộ của Hồ Chí Minh đã được xuất bản trong những năm qua của các
chính trị gia và học giả nổi tiếng trong nước như Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng, cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Giáo sư Vũ Khiêu…;
Cuốn sách: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân - Giá trị lý
luận và thực tiễn” của Thượng tướng, PGS, TS. Tô Lâm, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2015. Trong cuốn sách này, tác giả nêu bật sự cần thiết phải
nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân; phân tích,
làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
đối với Công an nhân dân; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công an nhân
dân; sự cần thiết phải giữ vững bản chất giai cấp, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
trong Công an nhân dân; về tăng cường sự đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng
chiến đấu giữa Công an nhân dân với Quân đội nhân dân, các cấp, các ngành
và dựa vào nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội;
Công trình: “Hồ Chí Minh - sáng tạo, đổi mới” của PGS.TS. Bùi Đình
Phong, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2015. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt
của công trình là trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tác giả khẳng định rằng Hồ
Chí Minh đã có sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận đó vào hoàn cảnh
Việt Nam, một nước thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân
chiếm tỷ lệ nhỏ, khoa học kỹ thuật kém phát triển. Nhiều bài viết của tác giả
ở các chương đã toát lên tinh thần “dân là gốc, là chủ, là nền tảng của cách
mạng”. Trở lại những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh như: “sao cho được
lòng dân”, “chân lý là cái gì có lợi cho dân”, “Chính phủ là công bộc của
6



dân”, “lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”, “không sợ thiếu
chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên”, v.v.. tác
giả đã phân tích khá sâu sắc từ những điều căn bản nhất trong di sản Hồ Chí
Minh đến thực tiễn cuộc sống hôm nay. Cách phân tích của tác giả toát lên di
sản Hồ Chí Minh là sinh khí của một học thuyết, vì tư tưởng của Người đang
trả lời đúng nhiều câu hỏi của cuộc sống đặt ra và luôn hướng tới tương lai.
Tác giả dành một chương viết về Hồ Chí Minh - người khởi xướng sự nghiệp
đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh với khẳng
định: “Tìm về Hồ Chí Minh - cội nguồn của đổi mới hôm nay”. Đặc biệt tác
giả đã phân tích những tư tưởng sáng tạo và đổi mới của Hồ Chí Minh, trong
sáng tạo có đổi mới, trong đổi mới có sáng tạo, mà sáng tạo, đổi mới lớn nhất
là khắc sâu quan điểm “có dân là có tất cả, mất lòng tin của dân là mất tất cả”;
Công trình “Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo phường trong giai đoạn hiện nay” do TS. Nguyễn Duy Hùng
(chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, đã tổng kết thực tiễn, phân
tích làm rõ những căn cứ, cơ sở lý luận của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường nói riêng. Trên cơ sở
khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các phường thuộc địa bàn Thủ đô
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng từ năm 2000 đến
nay, tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá cũng như đề xuất một số giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng, hệ thống chính trị ở loại hình
phường phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới;
Cuốn sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá - Luận cứ và giải pháp”,
do TS. Lê Phương Thảo (chủ biên), Nxb. Lý luận chính trị. Hà Nội, 2005.
Công trình này là tập hợp những bài viết của các nhà nghiên cứu khoa học
7



xã hội về chủ đề xây dựng đội ngũ cán bộ người các dân tộc thiểu số ở nước
ta hiện nay. Các bài viết đã giới thiệu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cũng như tầm quan trọng của việc xây dựng đội
ngũ này. Phân tích thực trạng, những bất cập của đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số trên các địa bàn khác nhau của nước ta trong giai đoạn hiện nay, từ
đó đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ các dân
tộc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá;
Công trình “Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp huyện người các dân tộc Tây Nguyên”, do GS,TS. Lê Hữu Nghĩa
(chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2001. Trên cơ sở xác định tầm
quan trọng chiến lược của Tây Nguyên và vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện là người các dân tộc thiểu số của khu vực Tây Nguyên.
Từ kết quả điều tra, khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp huyện của các tỉnh Tây Nguyên, các tác giả đã chỉ ra những bất cập của
đội ngũ cán bộ này và kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới;
Trong cuốn sách: “Phong cách Bác Hồ đến cơ sở” của Hồng Khanh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, là tập hợp những lời kể của các đồng chí
nhiều năm được sống và làm việc cùng Bác, mà Nhà báo Hồng Khanh đã ghi
lại những câu chuyện Hồ Cí Minh đi thăm cơ sở, từ trên mặt trận, ra cánh
đồng, vào xưởng máy, dự lớp học đến vui đón Tết. Mỗi câu chuyện đều thể
hiện phong cách giản dị, gần gũi nhưng rất tinh tế của Người. Lối sống, tác
phong quần chúng của Hồ Chí Minh luôn là chuẩn mực nhân cách con người
cách mạng nhưng lại không xa lạ với mỗi con người bình thường, mà bất cứ
ai, đặc biệt là từng cán bộ cũng có thể soi mình, học tập, noi theo.

8



Nhìn chung, tất cả các ấn phẩm, các công trình, bài viết nêu trên đã đề
cập sâu sắc đến các góc độ khác nhau của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
tác phong làm việc của cán bộ. Vì vậy, đây thực sự là những tư liệu quan
trọng, có giá trị để tác giả làm cơ sở đi sâu tìm hiểu, làm rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ. Kế thừa những thành quả của các
công trình nghiên cứu trên, trong luận văn này tác giả trình bày một cách có
hệ thống nguồn gốc, nội dung và đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa
đổi lối làm việc của cán bộ, góp phần làm sáng tỏ sự vận dụng tư tưởng của
Người trong việc sửa đổi lối làm việc của cán bộ, mà cụ thể là cán bộ ở thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm
việc của cán bộ và sự vận dụng tư tưởng đó của cán bộ ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải giải quyết những nhiệm
vụ sau:
Một là, phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc;
Hai là, phân tích thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh;
Ba là, đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về
sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là tư tưởng Hồ Chí
Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ và việc vận dụng tư tưởng đó của cán
bộ ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
9



Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi
lối làm việc của cán bộ, chủ yếu qua tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” và sự
vận dụng tư tưởng đó ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, tác
giả còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành kết hợp với phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp phân
tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, diễn dịch và quy nạp, lôgích và lịch sử,
thống kê, khảo sát, hệ thống hóa, khái quá hóa để nghiên cứu đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, luận văn đã hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa
đổi lối làm việc của cán bộ, đồng thời phân tích làm rõ những nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ.
Về thực tiễn, luận văn góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn của học
viên về vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở
Việt Nam nói chung, cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong giai
đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
công tác giảng dạy, học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở lý luận để cán
bộ ở thành phố Hồ Chí Minh tham khảo nhằm thực hiện tốt cuộc vận động:
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” do Bộ Chính trị phát động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.

10



Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ:
Nội dung và ý nghĩa.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc
của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp.

11


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC CỦA CÁN
BỘ: NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA
1.1. Một số khái niệm cơ bản: cán bộ, sửa đổi lối
làm việc
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Trong Từ điển Tiếng Việt thông dụng do Nguyễn Như Ý (chủ biên), thuật
ngữ “cán bộ” được giải thích là “người làm việc cơ quan nhà nước; người có
chức vụ trong cơ quan nhà nước, phân biệt với nhân viên”[79, tr.102].
Luật Cán bộ - Công chức giải thích: “Cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung
là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”[68, tr 2].
Trong giai đoạn hiện nay, khái niệm “cán bộ” thường dùng để chỉ
“những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hoàn
thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công”[35, tr.14]. Hoặc
“Những người lãnh đạo, quản lý hoặc nhà chuyên môn, nhà khoa học hay
công chức, viên chức làm việc hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách Nhà nước
hoặc các nguồn khác được hình thành từ bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt

và phân công sau khi tốt nghiệp” [35, tr.15]. Theo TS. Nguyễn Văn Tài thì
cán bộ là “những người được lựa chọn. đào tạo, bồi dưỡng theo những tiêu
chuẩn chức danh quy định, được giao trọng trách lãnh đạo, quản lý hoặc đảm
nhiệm những công tác chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ chủ yếu trong hệ
thống tổ chức xã hội nhất định”[70, tr.33].
Có nhiều cách hiểu về khái niệm cán bộ nhưng tựu trung lại, có hai
12


cách hiểu cơ bản:
Một là, cán bộ là những người trong biên chế nhà nước, làm việc trong
các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ trung ương đến cơ sở.
Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay tổ
chức, cách hiểu này để phân biệt với những người không có chức vụ.
Theo chúng tôi, khái niệm cán bộ thường được dùng để chỉ những
người đứng đầu hoặc người làm công tác chuyên môn trong một tổ chức lãnh
đạo, quản lý xã hội có chức năng tổ chức, phối hợp hành động của các thành
viên trong một nhóm, một tập đoàn người nhằm đạt đến một mục tiêu nhất
định đã được đề ra.
Người cán bộ có bốn đặc trưng cơ bản là:
Thứ nhất, cán bộ là người được sự ủy thác của Đảng, Nhà nước và các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị - xã hội, lấy danh nghĩa của Đảng, Nhà
nước và các tổ chức đó để hoạt động.
Thứ hai, Cán bộ là người giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó
trong hệ thống chính trị nói chung.
Thứ ba, người làm cán bộ phải thông qua bầu cử, tuyển chọn, bổ
nhiệm, đề bạt hay phân công khi mới ra trường.
Thứ tư, người cán bộ được hưởng lương và các chính sách đãi ngộ căn
cứ vào nội dung và chất lượng hoạt động của họ.

Cán bộ là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện và gắn liền với sự phát triển
của xã hội loài người. Trình độ tổ chức của xã hội dẫn đến sự xuất hiện của
cán bộ, qui định và đòi hỏi người cán bộ phải đáp ứng những yêu cầu của nó.
Cán bộ là chủ thể hoạch định mục tiêu, chiến lược phát triển xã hội đồng thời
giữ vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành các tổ chức xã hội thực hiện những
mục tiêu đó. Bởi lẽ, trong xã hội có giai cấp, cán bộ luôn bị chi phối bởi một
13


lập trường tư tưởng, một mục tiêu giai cấp nhất định, không có cán bộ nào
đứng ngoài giai cấp, hành động ngoài mục tiêu của giai cấp cầm quyền.
Trong quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng Cộng sản Việt Nam, cán bộ là vấn đề liên quan tới vận mệnh của
Đảng, của đất nước, của chế độ, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng. V.I.Lênin đã chỉ rõ "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào”[37, tr.473]. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi "Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”[55, tr.487], muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”[55, tr.487]. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, để phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng của mình vào trong quần chúng, giáo
dục giác ngộ động viên và tập hợp đông đảo quần chúng cách mạng thành lực
lượng hùng hậu, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của mình, Đảng ta
phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và của cả hệ thống chính trị.
Xây dựng và phát triển một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ
luôn là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước ta từ khi thành lập đến nay.
1.1.2. Sửa đổi lối làm việc
Về khái niệm sửa đổi lối làm việc. Thuật ngữ “sửa đổi” trong cuốn Từ
điển Tiếng Việt do Vĩnh Tịnh biên soạn đã định nghĩa: “Sửa đổi là thay đổi

khác đi”[73, tr.816]. Trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý
(chủ biên) thì định nghĩa: “Sửa đổi là sửa chữa, thêm bớt cho phù hợp với yêu
cầu mới”[80, tr.874].
Thuật ngữ “Lối” trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Vĩnh Tịnh biên soạn
đã định nghĩa “Lối là cách thức”[73, tr.1406]. Trong cuốn Đại từ điển tiếng
Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên) định nghĩa “Lối là thói, cách thức”[80,
14


tr.954]. GS,TS. Huỳnh Khái Vinh, trong cuốn Những vấn đề thời sự văn hóa,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 1998, giải thích: “Lối
là phương thức, kiểu cách, cách thức và lề lối”[68, tr.192]. Cách giải thích ý
nghĩa của từ “lối” như vậy, theo chúng tôi là hoàn toàn phù hợp với sắc thái ý
nghĩa của nó trong một số ngữ cảnh mà Các Mác, Ph.Ăngghen và Hồ Chí
Minh đã sử dụng. Ví dụ: trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Các Mác, Ph.
Ăngghen viết, “… giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người
và người một quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo
múc”, “không tình không nghĩa”[49, tr.600]. “Lối” ở đây là cách thức, kiểu
cách trong ứng xử, trong quan hệ giữa người và người. Trong tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc của Hồ Chí Minh, từ “lối” cũng có nghĩa là cách thức, lề lối
(làm việc).
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Vĩnh Tịnh biên soạn, thuật ngữ “làm
việc” được giải thích là “hành động cho có kết quả”[73, tr.510]. Còn trong
cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên) lại định nghĩa khái
niệm làm việc là “Hoạt động nhằm đạt một hiệu quả nào đó”[80, tr.874].
Từ các định nghĩa về các khái niệm làm việc, sửa đổi, lối như trên,
chúng tôi có thể quan niệm: Sửa đổi lối làm việc là thay đổi cách thức làm
việc cho phù hợp với yêu cầu của thời đại để đạt hiệu quả cao.
Trong quan niệm trên, nói đến thay đổi cách thức làm việc, tức đồng
thời cũng là nói đến thay đổi cung cách, quy trình làm việc. Để kết quả làm

việc đạt hiệu quả cao, cán bộ cần phải thường xuyên thay đổi cung cách, quy
trình làm việc cũ, bằng cung cách quy trình làm việc mới cho phù hợp với yêu
cầu của thời đại, làm tròn sứ mệnh là người đầy tớ của nhân dân.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối
làm việc
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ
15


được thể hiện trong nhiều tác phẩm: “Đường cách mệnh” (năm 1927), “Đời
sống mới” (1947), “Tự phê bình và phê bình” (1955), “Đạo đức cách mạng”
(1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969),
“Di chúc” (1969),… Tuy nhiên, có thể nói, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về sửa đổi lối làm việc của cán bộ thể hiện nổi bật nhất trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” (1947). Trong phạm vi luận văn này, khi bàn về nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ, chúng tôi chỉ phân
tích những nội dung cơ bản nhất trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Hồ Chí Minh viết vào tháng 101947. Tác phẩm được xác định như một văn kiện có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc, nhằm xây dựng và củng cố Đảng thành một đảng Mác - Lênin
chân chính, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đến thắng lợi
vẻ vang. Ngay sau khi cách mạng thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, trước những nhiệm vụ lớn của cách mạng và của đất nước, Người
đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
Về mục đích, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nhằm nâng cao trình độ
lý luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm cách mạng, nâng cao phẩm chất đạo
đức, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng, nâng cao năng lực lãnh
đạo nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của cách mạng. Trong tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán “chủ nghĩa cá nhân” vì đó là
một thứ “vi trùng rất độc” nó sinh ra các khuyết điểm nghiêm trọng như bệnh
tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa

phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè, kéo cánh, bệnh cận thị
không biết nhìn xa, trông rộng... Đồng thời, Hồ Chí Minh vạch ra nguyên
nhân và phương hướng khắc phục. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” không
chỉ nhằm phê phán mà chủ yếu là cách mạng. Bởi vì, cách mạng mới là động

16


lực của lịch sử. Đảng là lực lượng tiên phong, ưu tú nhất của xã hội, là đầu tàu
của lịch sử.
Nghiên cứu tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, chúng tôi nhận thấy, nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ thể hiện nổi
bật nhất có thể khái quát ở các nội dung chính sau:
1.2.1. Tích cực học tập nâng cao trình độ
Tích cực học tập nâng cao trình độ lý luận, văn hóa, tri thức khoa
học,… của cán bộ đảng viên được Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu trong việc
sửa đối lối làm việc của cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng
Việt Nam. Bởi V.I.Lê-nin đã từng dạy rằng, người cộng sản phải biết làm
giàu trí tuệ của mình bằng kho tàng tri thức của nhân loại. Muốn nâng cao
trình độ trí tuệ của Đảng, điều đòi hỏi đầu tiên là phải nâng cao trình độ trí tuệ
của bản thân đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cách mạng muốn thành công phải
có “những lực lượng tiền tiến, ưu tú nhất của xã hội chính là đầu tầu của
động lực đó”[34, tr.139]. Những lực lượng đó không ai khác chính là cán
bộ, đảng viên. Do đó, cán bộ đảng viên phải là lực lượng tiêu biểu cho trí
tuệ của dân tộc và của thời đại; là lực lượng có giác ngộ lý tưởng cao đẹp
được vũ trang bằng một lý luận tiên tiến – chủ nghĩa Mác – Lênin. Muốn
thế cần thường xuyên nâng cao trình độ, trí tuệ cho bản thân.
Trong kho tàng tri thức đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết đến sự
cần thiết phải học tập và kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi chủ nghĩa Mác
-Lênin là thế giới quan và phương pháp luận cách mạng khoa học của giai cấp

vô sản và các lực lượng tiến bộ trong thời đại mới. Đánh giá chủ nghĩa Mác
-Lênin trong số các học thuyết, các trào lưu tư tưởng về cách mạng đang lan
truyền trên thế giới cũng như ở Việt Nam vào những thập niên đầu của thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh khẳng định: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
17


nghĩa Lênin. Vậy, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là thế nào? Hồ Chí Minh đã
giải thích một cách dung dị, cô đọng và dễ hiểu là “học tập cái tinh thần xử trí
mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình”; là học tập phương
pháp, nắm vững lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không phải là học
một cách máy móc, giáo điều. Người luôn nhắc nhở chúng ta rằng “chủ nghĩa
Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh
thánh”[57, tr.247] Học chủ nghĩa Mác-Lênin để nắm bắt được quy luật vận
động và phát triển của xã hội, để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
thực tế nước ta. Học chủ nghĩa Mác-Lênin để trung thành, bảo vệ nó và không
ngừng nâng cao, hoàn thiện nó.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” – cuốn sách viết ra để huấn
luyện lớp cán bộ đầu tiên của Đảng ta, Hồ Chí Minh đã coi lý luận là “trí
khôn” của Đảng, Người viết “không có lý luận lúng túng như nhắm mắt mà
đi”. Không chỉ có thế, theo người, lý luận còn giúp đảng viên cán bộ biết
sống với đồng bào đồng chí sao cho có tình, có nghĩa. Đã có lần người lưu
ý: Nếu thuộc bao nhiêu sách Mác – Lênin mà sống với nhau không có tình
có nghĩa thì cũng coi như không hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin. Có thể thấy
Hồ Chí Minh coi lý luận là “trí khôn”, là “tâm hồn” và “tình cảm” của mọi
cán bộ đảng viên. Chính vì vậy mà nó được coi là kim chỉ nam “chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế”. Nhưng thế nào là lý
luận tiền tiến, lý luận cách mạng? Theo Người, lý luận không phải là một
mớ giáo điều, là dập khuôn máy móc, là lý thuyết suông mà “lý luận là đem

thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét
so sánh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”[34, tr.139-140]. Hồ Chí
Minh cũng từng nhấn mạnh lý luận đúng là lý luận chỉ đạo hành động, lý
luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, là phải đem ra thực hành được
và phải đưa lại những bước tiến rõ ràng, chắc chắn cho cách mạng. Theo
18


Người, phải từ thực tế mà đúc rút kinh nghiệm, rồi phải từ kinh nghiệm mà
kết luận, đem kết luận đó chứng minh, thử nghiệm trong thực tế. Đó là sự
thống nhất biện chứng giữa lý luận và kinh nghiệm. Với quan niệm như
vậy sẽ khắc phục được cả bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa lẫn bệnh lý thuyết
suông. Người viết “có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt
sáng, một mắt mờ”, và, “lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý thuyết
suông”.
Hồ Chí Minh đã vạch rõ một trong những nhược điểm lớn của đội ngũ
cán bộ, đảng viên là sự yếu kém về trình độ lý luận. Ở một bộ phận cán bộ
đảng viên nảy sinh tư tưởng chủ quan, tự mãn về trình độ lý luận của mình,
không thấy rằng do yếu kém về lý luận nên trước nhiệm vụ cách mạng ngày
càng mới mẻ và phức tạp thì trong lãnh đạo, chỉ đạo tất sẽ không tránh khỏi
lúng túng, thậm chí là dẫn đến sai lầm. Lười biếng học lý luận cũng có nghĩa
là thiếu trách nhiệm và không hoàn thành nghĩa vụ của người đảng viên.
Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là điều cần thiết để nâng cao năng lực trí
tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhưng chưa đủ, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán
bộ, đảng viên phải học tập nghiên cứu “những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh
của Đoàn thể và Chính phủ”[57, tr.50], vì những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh
đó, rút cuộc, không chỉ là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh
Việt Nam mà còn là kết quả phản ánh khách quan hiện thực xã hội Việt Nam
trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng.
Ngoài những nguồn tài liệu lý luận trên, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh

đến tầm quan trọng và sự cần thiết phải nghiên cứu, xem xét những “tài liệu
thiết thực” khác, đó là “những kinh nghiệm do người học mang đến, kinh
nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại”. Người đánh giá “những
kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp lại tức là những bài học quý…”. [57,
tr.49]. Bởi lý luận không phải là một cái gì đó đối lập với kinh nghiệm, mà
19


ngược lại, lý luận chẳng qua là “sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử”[57, tr.499].
Như vậy, để sửa đổi lối làm việc của cán bộ trước tiên mỗi cán bộ phải
học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là trình độ lý luận - một thứ lý luận vừa
khoa học, vừa cách mạng như Hồ Chí Minh đã nói và đã làm. Bởi lẽ cán bộ
“vì kém lý luận cho nên gặp mọi việc không biết xem xét rõ, cân nhắc cho
đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý
mình nghĩ thế nào làm thế ấy kết quả thường thất bại”? Lý luận chỉ đạo cho
hoạt động. Trên cơ sở lý luận đúng mà “đặt khẩu hiệu, đặt chương trình làm
việc, chương trình tranh đấu, tuyên truyền…” và xác định “cách tổ chức và
cách làm việc”.
1.2.2. Sửa chữa khuyết điểm (phê bình), khắc phục bệnh quan liêu,
chủ quan, hẹp hòi, ba hoa
Khi đề cập đến hiệu quả hoạt động của toàn Đảng, của bộ máy Nhà
nước, Hồ Chí Minh rất coi trọng sự nỗ lực, tu dưỡng của từng cán bộ, đảng
viên. Bởi sự nỗ lực, tu dưỡng của từng cán bộ, đảng viên nó quyết định sự
chuyển biến của toàn Đảng, của bộ máy Nhà nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nói: “Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta. Đảng lớn lên là do mỗi chúng ta lớn
lên”[61, tr.463]. Mỗi một cán bộ, đảng viên mạnh là làm cho bộ máy quản lý
và chi bộ mạnh, cơ quan và Đảng bộ mạnh, bộ máy Nhà nước và toàn Đảng
mạnh. Ngược lại mỗi khuyết điểm của từng cán bộ, đảng viên đều có ảnh

hưởng xấu đến uy tín của Nhà nước và của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên làm
tốt nhiệm vụ được giao là nghĩa vụ, trách nhiệm và vinh dự của người cán bộ,
đảng viên. Do vậy, sửa đổi lối làm việc của cán bộ, Hồ Chí Minh còn yêu cầu
tất cả mọi người phải thường xuyên sửa chữa khuyết điểm (phê bình), khắc
phục bệnh quan liêu, chủ quan, hẹp hòi, ba hoa, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo,
20


quản lý. Cán bộ lãnh đạo, quản lý mắc những bệnh tật ấy, không hiểu được
chính cái mạnh, cái yếu của mình, do vậy không thể hiểu được người khác,
tựa “như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của
những cái mình trông. Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn
các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình. Mình càng
ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”[24, tr.277-278]. Đồng
thời, “Đảng không phải là một cái gì trừu tượng. Nó ở trong xã hội và bao
gồm những con người cụ thể, những đảng viên, cán bộ bằng xương, bằng thịt.
Do vậy, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của Đảng trong từng giai đoạn để
thường xuyên chỉnh đốn Đảng. Chỉnh đốn Đảng là tăng cường tự phê bình và
phê bình, coi đó như quy luật phát triển của Đảng. Phải phê bình từ trên
xuống dưới và tự dưới lên, đồng thời cần trân trọng lắng nghe những lời phê
bình chỉ dẫn của những người ngoài Đảng”[34, tr.143-144].
Sửa chữa khuyết điểm (phê bình) theo Hồ Chí Minh đó là việc làm dân
chủ và nhân đạo. “Bản chất của nó là xây dựng, là vươn tới sự hoàn thiện,
hoàn mỹ, thúc đẩy sự tiến bộ, là cách mạng và khoa học, là vì nhân dân”[34,
tr.149]. Do đó, bản chất của sửa chữa khuyết điểm (phê bình) là hướng về cái
tốt, cái đẹp. Chính vì vậy mà quan điểm phê bình của Hồ Chí Minh không
đồng nhất với phê phán và trừng trị. Với Người, phê phán chỉ là sự mổ xẻ một
bệnh mang ý nghĩa như là sự khởi nguyên của một quy trình để chữa lành con
bệnh làm cho con người tồn tại, phát triển khỏe mạnh. Mổ xẻ chỉ có thể có ý
nghĩa khi nó đạt tới cái thiện và cái đẹp. Còn Phê bình cốt là để phát huy ưu

điểm, sửa chữa khuyến điểm, để tư tưởng và hành động được đúng hơn, và tốt
hơn, để làm việc có hiệu quả hơn.
Đi đôi với sửa chữa khuyết điểm (phê bình), theo Hồ Chí Minh, cán bộ
cần phải khắc phục bệnh quan liêu, bệnh chủ quan, loại bỏ thói ba hoa. Quan
liêu, chủ quan là không đi sát với công việc thực tế, xa lánh, xem thường quần
21


×