Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN đạo đức CÁCH MẠNG TRONG tác PHẨM sửa đổi lối làm VIỆC của hồ CHÍ MINH và NHỮNG yêu cầu bồi DƯỠNG rèn LUYỆN đạo đức CÁCH MẠNG CHO cán bộ ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.55 KB, 30 trang )

ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỐI LỐI
LÀM VIỆC”
CỦA HỒ CHÍ MINH . NHỮNG YÊU CẦU BỒI DƯỠNG, RÈN
LUYỆN
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN
NAY
MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng
đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh
luôn quan tâm giáo dục đạo đức cách mạng cho mọi người. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng được thể hiện trong nhiều tác phẩm, nhiều bài viết,
bài nói khác nhau. Tuy nhiên, với tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, đạo đức cách
mạng được diễn đạt cô đọng công phu và sâu sắc không chỉ trong lý luận mà còn
được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn phong phú và sinh động của Người.
Hồ Chí Minh luôn quan niệm đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách
mạng. Ngay trang đầu của tác phẩm "Đường cách mệnh" (1927), Người đã nêu về tư
cách một người cách mệnh. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cầm quyền phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho Đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những
người kế tục xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".Tác phẩm “Sửa
đối lối làm việc” được Hồ Chí Minh viết vào tháng 10 năm 1947 là một văn kiện có


2

ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc nhằm giáo dục cán bộ, đảng viên; xây dựng và
củng cố Đảng ta thành một đảng Mác - Lênin chân chính, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.


Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, nhất
là trong nhân cách của người cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh luôn giành
nhiều thời gian cho việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng nói chung, cho cán bộ, chiến sỹ trong quân đội
nói riêng. Bản thân Người là một tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng,
mẫu mực để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân học tập và noi theo.
Nghiên cứu, học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói chung và trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nói riêng, cũng như rèn luyện phấn đấu theo tấm
gương đạo đức trong sáng của Người là nhiệm vụ, phương châm hành động của
mỗi cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” CỦA
HỒ CHÍ MINH.
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của
Hồ Chí Minh.
Tháng 10- 1947, tại thôn Điềm Mặc, xã Thanh Định, huyện Định Hoá,
tỉnh Thái Nguyên, Bác đã viết “ Sửa đổi lối làm việc” dưới bút danh X.Y.Z. Đầu
1948, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được in lần đầu và trở thành cuốn sách
gối đầu giường của các cán bộ Đảng viên. . Tác phẩm được in trong Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG. Hà Nội 1995, tr.(229 – 339).
Tác phẩm được viết trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiếu biến động lớn cụ
thể: Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, với sự thất bại của trục phát xít: Đức


3

- Ý - Nhật, các nước tiến hành phân chia quyền lực, lãnh thổ. Các Đảng Cộng
sản và Đảng Công nhân đã xác lập được mối liên hệ trên tinh thần quốc tế vô
sản, đề ra chiến lược, sách lược chung, đường lối và phương pháp cách mạng
riêng phù hợp với điều kiện lịch sử mới; Với sự ra đời Ban Chấp hành Quốc tế

Cộng sản ngày 15-5-1943 và đã ra nghị quyết tuyên bố giải tán Quốc tế cộng
sản. Tháng 9-1947, tại Vácxava, Đại biểu của 9 Đảng cộng sản của các nước xã
hội chủ nghĩa là chủ yếu đã lập ra cục thông tin quốc tế nhằm trao đổi thông tin
hoạt động. Cũng từ 1947-1948, Nam Tư không công nhận Liên xô can thiệp vào
nội bộ của mình, khi đó Liên Xô đã khai trừ Nam Tư ra khỏi hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa. Thời điểm này, phong trào công nhân quốc tế và phong trào
giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ. Nhiều nước sau khi giành được độc
lập đã tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Cũng trong thời gian này, chủ nghĩa cơ hội xét lại hiện đại xuất hiện
gây ảnh hưởng đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa ảnh hưởng đến
phong trào cộng sản và công nhân quốc như: Chủ nghĩa xét lại Braodơ, chủ
nghĩa xét lại Nam tư, chủ nghĩa xét lại hiện đại Khơrutxôp, chủ nghĩa Mao
và các trào lưu xã hội dân chủ.
Ở nước ta, sau thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Đảng ta lãnh đạo nhân
dân xây dựng chế độ xã hội mới trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Ngày 2-9 chúng ta tuyên bố độc lập, thì đến ngày Ngày 23- 9 thực dân Pháp quay trở
lại được sự giúp sức của quân đội Anh đã nổ súng đánh chiếm trụ sở ủy Ban nhân
dân Nam Bộ tại Sài Gòn. Ngày 26-9 qua đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, Bác Hồ
kêu gọi đồng bào Nam Bộ kiên quyết giữ vững nền độc lập. Sáng ngày 19-12-1946
thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu cầu trong 2 ngày phải


4

đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến và đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội
giao cho Pháp duy trì an ninh thành phố. 20h ngày 19-12-1946 thực dân Pháp tấn
công thủ đô Hà Nội. Ngày 18 và 19-12-1946 Hội nghị thường vụ trung ương Đảng
mở rộng được triệu tập tại làng Vạn Phúc, Hội nghị đã quyết định tiến hành cuộc
kháng chiến chống Pháp xâm lược. Bước sang năm mới, năm 1947 đánh dấu một thử

thách cực kỳ khó khăn đối với cách mạng Việt Nam.
Như vậy, sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta trở
thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đứng trước những vấn đề
hệ trọng thế giới, trong nước liên quan trực tiếp đến vận mệnh của cách mạng
Việt Nam; để xứng đáng là người lãnh đạo và hoàn thành sứ mệnh cao quý của
mình, Hồ Chí Minh nhận thấy, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, phát triển,
phải thực sự vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Vì thế, ngay trong cuốn
“Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng, “trước hết phải có
Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”1. Xây dựng Đảng phải được bắt đầu từ
chính con người, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên - yếu tố suy đến cùng để
tạo nên sức mạnh của Đảng. Hơn nữa, đại bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng ta
xuất thân từ nông dân, phần đông chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng tiểu nông,
tập quán, thói quen cổ hủ lạc hậu.
Tuy nhiên, sau 2 năm guồng máy hệ thống chính trị mới hoạt động, đội
ngũ cán bộ, đảng viên đã bộc lộ không ít những thói hư tật xấu mới trái với đạo
đức cách mạng. Nếu chậm khắc phục cách mạng không tiến lên. Trên thực tế, Hồ
Chí Minh sớm nhìn thấy những nguy cơ làm suy yếu Đảng, đó là chủ nghĩa cá
nhân, bè cánh, cục bộ; các chứng bệnh quan liêu, gia trưởng, công thần và nhiều
1

Hồ Chí Minh. Toàn tập. T.2. Nxb CTQG. Hà Nội. 2000. Tr.268.


5

chứng bệnh khác đang nảy sinh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy những sai
trái, tiêu cực của cán bộ, đảng viên chỉ mới xuất hiện, tác hại của nó chưa lớn
nhưng nếu không kịp thời khắc phục sẽ ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc của toàn dân tộc ta. Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thức được

rằng, khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng trở
thành cán bộ trong các cấp chính quyền, trong các ngành hoạt động khác nhau
của xã hội, nếu không bồi dưỡng, xây dựng phẩm chất đạo đức cách mạng thì
những thói hư tật xấu càng có điều kiện nảy nở, phát triển. Chính vì vậy, việc
giáo dục, xây dựng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ,
đảng viên lúc đó là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.
Xác định đúng vị trí vai trò tầm quan trọng đặc biệt của Đảng Cộng sản
trong hệ thống chính trị mà Hồ Chí Minh coi việc xây dựng và chỉnh đốn
Đảng là nhiệm vụ quan trọng, trong đó giáo dục và rèn luyện đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên có ý nghĩa quyết định đối với một đảng cầm
quyền như Đảng ta. Trong lúc toàn Đảng, toàn dân dốc toàn lực để chống giặc
đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; giữa lúc thực dân Pháp tập trung lực lượng
hòng bao vây, tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng chủ lực của ta ở căn cứ
địa Việt Bắc, Hồ Chí Minh vẫn giành thời gian viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc”. Mục đích của tác phẩm là nâng cao trình độ lý luận, tình cảm cách
mạng cho đội ngũ Đảng viên làm cơ sở giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và của Đảng ta.
2. Nội dung cơ bản về đạo đức cách mạng trong “Sửa đổi lối làm việc”
của Hồ Chí Minh.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” gồm 6 phần; Phần 1 “Phê bình và sửa
chữa” đề cập đến vấn đề học tập và phương pháp làm việc của Đảng; phần 2


6

“Mấy điều kinh nghiệm”, Hồ Chí Minh đề cập đến vai trò của đội ngũ cán bộ và
kinh nghiệm công tác; phần 3 “Tư cách và đạo đức cách mạng” bàn về nghĩa vụ,
trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phần 4 “Vấn đề cán bộ” đề cập toàn
diện đến công tác cán bộ, khái quát những vấn đề có tính nguyên tắc trong các
khâu, các bước của việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ; phần 5 “Cách

lãnh đạo” làm rõ những yêu cầu của công tác lãnh đạo, giải quyết mối quan hệ
giữa lãnh đạo và quần chúng, giữa cán bộ và nhân dân; phần 6 “Chống thói ba
hoa” lý giải những căn bệnh thường gặp của cán bộ, đảng viên, cách sửa chữa và
lý giải về tác phong công tác của cán bộ, đảng viên. Nhìn chung xuyên suốt tác
phẩm Hồ Chí Minh trình bày toàn diên, sâu sắc nội dung sửa đổi lối làm việc của
cán bộ, đảng viên nói riêng và Đảng ta nói chung. “Sửa đổi lối làm việc” không
phải là tác phẩm chuyên bàn về đạo đức cách mạng nhưng nó hàm chứa những
tư tưởng hết sức sâu sắc về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh .
*Quan niệm Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức đối với người cách
mạng.
Đề cập đến vai trò của đạo đức đối với người cán bộ cách mạng, Hồ Chí
Minh cho rằng; đạo đức cách mạng là “gốc” của người cách mạng, là nền tảng
tinh thần vững chắc, là lý tưởng sống, là lẽ sống của người cách mạng. Đạo đức
cách mạng là động cơ bên trong, là động lực thôi thúc lớn nhất, mạnh mẽ, bền bỉ
nhất giúp người cán bộ có đủ sức mạnh để suốt đời hy sinh phấn đấu cho mục
tiêu lý tưởng của Đảng. Đạo đức cách mạng là nền tảng cho những năng lực, tài
năng của người cách mạng nảy nở và hướng đích cho những năng lực, tài năng
ấy phục vụ lợi ích cách mạng, tổ quốc và nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo


7

đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng
cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không
có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì?”2. Người cho rằng, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề, một cuộc đấu tranh lâu dài,
phức tạp, gian khổ. Cũng như người có sức mạnh mới gánh được xa, người cách

mạng có đạo đức làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng không có nghĩa là tuyệt
đối hoá mặt “Đức”, coi nhẹ mặt “Tài”. Trong nhân cách của người cách
mạng, đạo đức luôn quan hệ chặt chẽ với tài năng. Sự kết hợp chặt chẽ giữa
“Đức” và “Tài”, giữa “Hồng” và “Chuyên” đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối
với mỗi cán bộ, đảng viên. Người căn dặn: “Có tài mà không có đức...thì
chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội
nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng
cũng không có lợi gì cho loài người.” 3
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Nhờ có đạo đức cách mạng mà người cách mạng
không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình, khi cần thì hy sinh
cả tính mạng của mình cho cách mạng cũng không tiếc. Có đạo đức cách mạng
thì khi gặp thuận lợi và thành công hay gặp khó khăn và thất bại đều một lòng
quyết tâm vì lợi ích của Đảng, của cách mạng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà
tổ chức giao cho.

2
3

Hồ Chí Minh. Sđd. Tr.252,253.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr . 172


8

Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng chính là vũ khí tinh
thần sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu

tranh cách mạng vĩ đại của mình; là cơ sở vững chắc để tập hợp đoàn kết quần
chúng lao động trong đấu tranh cách mạng; là nguồn lực tinh thần vô tận cổ vũ,
động viên, lôi kéo quần chúng nhân dân vào cuộc đấu tranh cách mạng nhằm
giải phóng mình. Quan niệm này hoàn toàn thống nhất với lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin: “Cuộc đấu tranh giai cấp còn tiếp tục và nhiệm vụ của chúng ta là
làm cho tất cả mọi lợi ích phụ thuộc vào cuộc đấu tranh này. Và đạo đức cộng
sản của chúng ta cũng phải phục tùng cuộc đấu tranh này. Chúng ta nói rằng: đạo
đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn
kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã
hội mới của những người cộng sản”4.
*Xét về bản chất, đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là đạo đức mới
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức
cách mạng. Đạo đức được gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng chế độ mới, nền
văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Đạo đức cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh khác hẳn về chất so với nền đạo đức cũ của phong kiến và
tư sản. Đạo đức phong kiến trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo hủ
bại khắt khe, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ty trật tự hết sức hà khắc của
giai cấp phong kiến. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần
kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo
để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho

4

V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1977. T.41. Tr.369.


9

cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân" 5. Đạo

đức cách mạng cũng đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản, kìm hãm và làm
tha hoá con người trong cách sống thực dụng, vì đồng tiền, coi đồng tiền là tất
cả. Hồ Chí Minh đã xây dựng nên một nền đạo đức mới đối lập với đạo đức cũ.
Người chỉ rõ “Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như
người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai
chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” 6. Về đạo đức mới, Người
cho rằng "Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người" 7.
Như vậy, đạo đức mới do Hồ Chí Minh đề xướng và dầy công bồi dưỡng,
xây dựng, củng cố là đạo đức mang bản chất của giai cấp công nhân, kết hợp với
những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của
nhân loại. Nền đạo đức ấy ngày càng phát triển cùng với sự vận động của thực
tiễn cách mạng Việt Nam, trở thành một bộ phận hết sức quan trọng góp phần
khắc hoạ nên bộ mặt của nền văn hoá Việt Nam. Đạo đức cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh được biểu hiện hết sức sinh động trong hiện thực và được đề
cập một cách toàn diện tới mọi đối tượng trong xã hội; từ anh công nhân trong
các nhà máy xí nghiệp đến những người nông dân cần mẫn trên ruộng đồng;
đến trí thức, văn nghệ sỹ; đến mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giaó, tín
ngưỡng, miền xuôi hay miền ngược; từ những cán bộ, đảng viên, những nhà
quản lý đến những chiến sỹ đang cầm súng ngoài mặt trân…trên tất cả các
quan hệ xã hội của con người. Đạo đức đó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 321
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 320,321
7 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 252
5
6



10

Đảng và của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội, vì sự tiến bộ của nhân loại trên toàn thế giới.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, đạo đức
mới hoàn toàn phản ánh lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
toàn nhân loại, nó là vũ khí tinh thần để giai cấp công nhân, nhân dân lao động
giải phóng mình và giải phóng nhân loại. Đạo đức cách mạng gắn bó chặt chẽ sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Đảng là đội tiền phong chiến đấu có tổ chức của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Lý tưởng và mục tiêu chiến đấu của Đảng vì thế mà là biểu
hiện cao nhất của đạo đức cách mạng. Lợi ích của đảng thống nhất với lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. “Ngoài lợi ích của dân tộc,
của Tổ quốc thì Đảng không có lợi ích gì khác” 8. Vì thế, đặt lợi ích của Đảng, của
cách mạng, của dân tộc lên trên hết sẽ trở thành chuẩn mực đạo đức và bổn phận mà
mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải nghiêm túc thực hiện.
Như vậy, Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh là đạo đức mới, nó khác
về chất so với đạo đức cũ, “đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo
đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” 9. Đạo đức cách mạng chính là đạo
đức cộng sản, cơ sở của đạo đức cách mạng là lợi ích của Đảng thống nhất chặt
chẽ với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn xã hội.
Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng là tuyệt đối trung thành với Đảng,
với nhân dân, suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng,
8
9

Hồ Chí Minh. Sđd. Tr. 250.
Hồ Chí Minh. Sđd Tr. 252.



11

của dân tộc. Hồ Chí Minh yêu cầu yêu cầu cán bộ, đảng viên phải luôn luôn
nhận thức: Lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích của Đảng, lợi ích của mỗi bộ
phận phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Điều đó có nghĩa là phải đặt lợi ích của
Đảng lên trên hết, quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đặt
lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá
nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân đấu tranh quên
mình. Người viết: “Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt
lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất
của Đảng... Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của
cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi
cần đến tính mệnh của mình thì cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng”10.
Đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh là đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Người ví chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, rất nguy hiểm
đối với sức mạnh của Đảng. Do mắc phải chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ, đảng
viên ta sinh ra các thứ bệnh như: Bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu
ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh
hữu danh vô thực, bệnh cá nhân chủ nghĩa... Những biểu hiện đó là trái với bản
chất cách mạng của Đảng, đi ngược lại lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Nó là những biểu hiện của tàn dư đạo đức cũ, đối lập với đạo đức
cách mạng. Đạo đức cách mạng, do đó, đòi hỏi phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
cùng với những biểu hiện đa dạng của nó.
Theo Hồ Chí Minh nâng cao đạo đức cách mạng đi liền với quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Vần đề này không chỉ được trình bày trong tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc” mà còn xuất hiện ở nhiều bài viết, bài nói chuyện khác. Năm 1969, Hồ
10


Hồ Chí Minh. Sđd. Tr. 251.


12

Chí Minh có riêng một bài báo nói về “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân”. Chủ nghĩa cá nhân đối lập với đạo đức cách mạng, do chủ
nghĩa cá nhân mà người cán bộ dẫn đến tham ô, hũ hoá, lãng phí, xa hoa, vơ vét
của công, kèn cựa địa vị, tham danh trục lợi, tìm cách “làm quan phát tài”, tự cao
tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền, quan
liêu mệnh lệnh... Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu, là kẻ thù hung ác của
đạo đức cách mạng, là bạn đồng minh của các kẻ thù khác. Theo Hồ Chí Minh:
“Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho
nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”11. Ngược lại, nếu thường xuyên giáo dục, rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, luôn đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá
nhân, theo lẽ sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Thì khó nhiễm vi
trùng độc của chủ nghĩa cá nhân. Vì thế từ xã hội cũ sang xã hội mới, những cái
xấu xa, lạc hậu của đạo đức cũ không phải đã mất ngay đi được, mà no còn tồn
tại, có khi lại phát triển trong xã hội mới, dưới những hình thức khác. Do đó,
phải thường xuyên giáo dục, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên là rất quan trọng trong điều kiện Đảng ta là một đảng cầm
quyền.
Đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh phải kiên quyết đấu tranh, chống
mọi kẻ địch; tích cực học tập nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện. Luôn luôn
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu
trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ địch, trước những cám dỗ tầm thường về vật
chất, tinh thần, giữ vững thể diện, khí tiết người cộng sản. Đánh thắng kẻ thù trong
mọi điều kiện hoàn cảnh. Đạo đức cách mạng còn là ra sức học tập chủ nghĩa Mác Hồ Chí Minh. S.đ.d. Tập 9. Tr. 291.


11


13

Lê nin, luôn tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao phẩm chất cách mạng và năng
lực công tác của mình và của đồng chí mình; là luôn tôn trọng kỷ luật Đảng, tuyệt
đối chấp hành sự phân công của Đảng và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng
giao cho; là giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng...
*Hồ Chí Minh xác định những chuẩn mực đạo đức của người cán
bộ, đảng viên.
Muốn có xã hội mới tốt đẹp, cần phải có những cán bộ, đảng viên thấm
nhuần đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là yếu tố cơ bản, nền tảng của xã
hội mới. Để xây dựng đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên của Đảng phải phấn
đấu thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức, thực hiện tốt cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Có vậy họ mới làm tròn được trách nhiệm, bổn phận của
mình với cách mạng, với Tổ quốc và nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải “Làm đúng cần, kiệm, liêm, chính để cho dân tin, dân phục, dân
yêu”12 . Có vậy, cán bộ đảng viên mới liên hệ mật thiết được với dân chúng và
lãnh đạo được dân chúng làm cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, những chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên
phải được thể hiện: “Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì
mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ
ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy
gồm có năm điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”13.
NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ, DŨNG, LIÊM là những đức tính không thể
thiếu được đối với người cán bộ cách mạng chân chính. Những đức tính này
cũng chính là những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên.

12

13

Hồ Chí Minh. Sđd. Tập 5. Tr. 251.
Hồ Chí Minh. Sđd. Tập 5. Tr. 251.


14

NHÂN nghĩa là phải thật thà yêu thương con người, hết lòng giúp đỡ đồng
chí và đồng bào, kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng,
đến nhân dân, là sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau
thiên hạ... Như vậy “nhân” là lý tưởng, là lẽ sống của người cách mạng, nó trở
thành động cơ bên trong làm cho người cán bộ cách mạng có đủ dũng khí để suốt
đời đấu tranh với sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, đem lại
hạnh phúc cho nhân dân, trong đó có hạnh phúc của bản thân mình. Vì thế mà
sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ, không
ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.
NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc
gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan.
Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Hiểu nghĩa
và làm theo nghĩa, người cách mạng sẽ có phương châm sống và hành động
đúng đắn vì lợi ích chung của Đảng, của Tổ quốc. Thấy việc phải thì làm, thấy
việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác
cũng luôn luôn đúng đắn.
TRÍ nghĩa là không bị mù quáng, đầu óc trong sạch, sáng suốt. Sáng suốt để
hiểu lý luận, để tìm phương hướng, để biết xem người, xét việc, biết làm việc có
lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng
người gian. “Trí” - theo Hồ Chí Minh là sự hiểu biết, nhưng những hiểu biết ấy
phải gắn với nhiệm vụ cách mạng, phải giúp cho người cách mạng hoàn thành
tốt nhiệm vụ, bổn phận của mình

DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm
có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những
sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính


15

mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.vượt được qua
mọi khó khăn thử thách, dám hy sinh bản thân vì cách mạng.
LIÊM là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình, là người quang minh chính đại, không bao giờ
hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
NHÂN, NGHĨA, TRÍ, DŨNG, LIÊM là một thể thống nhất bên trong trong
mỗi con người cán bộ, đảng viên, tạo nên đạo đức cách mạng của họ, đây chính
là sự khái quát một cách sâu sắc những phẩm chất cần có của người cán bộ cách
mạng, là cơ sở để phát triển năng lực, tài năng của người cách mạng. Hồ Chí
Minh đã sử dụng và đưa vào những khái niệm về đạo đức của Nho giáo những
nội dung mới, hình thành những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu
của đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Nếu cán bộ, đảng viên của Đảng có đầy
đủ những đức tính tốt đẹp ấy, họ sẽ có nền tảng tinh thần vững chắc, giúp họ đủ
sức vượt qua mọi khó khăn thử thách hoàn thành tốt bổn phận của mình trước
Đảng, Tổ quốc và nhân dân.
Như vậy, đạo đức cách mạng không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo
đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Như Hồ Chí Minh đã từng ví, sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân
tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo
đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?

Đạo đức cách mạng là lý tưởng cao đẹp mà loài người vươn tới, nên nó
còn là cơ sở để Đảng ta định ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn lãnh


16

đạo cách mạng, đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
“Đạo đức cách mạng vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và loài người”, do
vậy nó còn góp phần nhân đạo hoá các quan hệ xã hội, giáo hoá con người,
hướng con người đến những giá trị cao đẹp: chân, thiện, mĩ.
Từ những vấn đề trình bày trên, có thể khái quát: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đối lối làm việc” bao gồm hệ thống
những quan điểm về đạo đức cách mạng, những phẩm chất đạo đức cần có của
người cách mạng và vai trò của nó đối với cán bộ, đảng viên; đối với công tác
xây dựng Đảng và sự nghiệp cách mạng. Đạo đức cách mạng chính là nền tảng
tinh thần, xây dựng ý chí quyết tâm, suốt đời hy sinh phấn đấu cho Đảng, cho
cách mạng... Từ đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức phấn đấu, giữ
nghiêm kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích
của Đảng, của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình, gương
mẫu trong mọi việc; không ngừng học tập, phầm đấu theo tiêu chí vừa “hồng”
vừa “chuyên”, để có đủ đức, tài phục vụ cách mạng, phục vụ đoan thể, phục vụ
nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc” là một tài sản vô giá của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong đó, Người
không chỉ làm rõ thế nào là đạo đức cách mạng, người cách mạng cần phải có
những đức tính gì, mà Người còn chỉ ra và cảnh báo những căn bệnh nguy hiểm
mà Đảng có thể mắc phải, làm tổn hại đến thanh danh và sức chiến đấu của
Đảng. Chính vì vậy “Sửa đổi lối làm việc” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất
quan trọng trong gioá dục, rèn luyện xây dựng đạo đức mới - đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.



17

II. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG YÊU CẦU BỒI DƯỠNG, RÈN
LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY.
1. Thực trạng, nguyên nhân đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng
viên hiện nay.
Tư tưởng đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của
Hồ Chí Minh từ khi ra đời đến nay luôn phát huy tác dụng, là cơ sở để mọi cán
bộ, đảng viên tự soi mình vào đó để tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu. Đồng thời nó
cũng là thứ vũ khí sắc bén trong đấu tranh chống lại những suy nghĩ, hành động
đi ngược lại với những giá trị chuẩn mực đạo đức.
Trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình trong nước và quốc
tế; nhất là từ khi đất nước đổi mới thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế thế giới. Bên cạnh mặt thuận
lợi, tích cực là những tiêu cực thách thức trực tiếp tác động đếm mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, về đạo đức, lối sống…vấn đạo đức của cán bộ, đảng viên
trở thành một trong những vấn đề nổi cộm trên nhiều phương diện. Tại đại hội
VII, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đại hội VIII, IX, X, Đảng ta đã chỉ rõ tệ
quan liêu tham nhũng đang làm biến chất một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hiện
nay tình trạng này còn diễn ra phổ biến hơn, tinh vi, nghiêm trọng hơn, nhất là
tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống lại rơi và những
người có chức, có quyền, những người làm việc trong các cơ quan nhà nước,
trong các đơn vị kinh tế... điều này đã làm cản trở việc thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, gây bất bình và làm giảm lòng tin
trong của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đánh giá
một trong những nguy cơ, thách thức của đất nước ta hiện nay là: “Tình trạng
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận



18

không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong
bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn
đe doạ sự sống còn của chế độ ta”14.
Biểu hiện của sự suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên được biểu hiện
trên một số những vấn đề cơ bản sau :
1. Lập trường tư tưởng thiếu vững vàng, dao động, mất lòng tin và chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí
phấn đấu, từ đó làm nảy sinh khuynh hướng cơ hội xét lại dưới nhiều biến tướng
khác nhau.
2. Ngại học tập nâng cao trình độ chuyên môn, giảm sút ý chí phấn đấu
vươn lên, tự mãn với những thành tích đã có cử các thời kỳ trước. Do vậy, năng
lực chuyên môn bị giảm sút, không đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ mới,
nhưng cũng muốn rời bỏ vị trí công tác, kimhãm sự vận động của co quan đơn
vị. Hơn thế nữa nhiều khi tình trạng yếu về năng lực se gây ra những hiệu quả
nguy hại khôn lường.
3. Tư tưởng trung bình chủ nghĩa, cầu an, thích nhàn hạ, ngại đấu tranh
trước những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội “gió chiều nào, che chiều
ấy”; thái độ thờ ơ với, vô trách nhiêm, “sống chết mặc bay”, chỉ lo an phận đang
tao nên môi trường thuận lợi cho những biểu hiện tiêu cực sinh sôi nảy nở.
4. Tư tưởng cộng sản nhân chủ nghĩa, háo danh, kèn cựa địa vị, vơ vét
cho mình, địa phương chủ nghĩa gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ đã khiến cho
nhiều người chỉ thấy công việc của mình là to lớn, chỉ mình có công lao và đòi
hỏi nhà nước, tập thể đãi ngộ “xứng đáng”, còn công việc của người khác là nhỏ

14

ĐCSVN, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb CTQG. H. 2001. Tr. 76.



19

bé, ít có giá trị, có ít đóng góp cho xã hội , cho đơn vị. Từ đó, hoặc là đòi hỏi,
hoặc là không chịu từ bỏ đực quyền đặc lợi.
5. Tham những tham ô hối lộ, lợi dụng chức quyền vơ vét cho cá nhân
và gia đình mình, làm giàu một cách bất minh, lãng phí tài sản của nhân dân .
Thậm chí một số kẻ khi đã có của dễ kiếm trong tay thì bắt đầu ăn chơi sa đoạ,
sống trác táng phi nhân tính, trong khi cuộc sống của đồng bào, của nhân dân
cong đang gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân của sự suy thoái phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ,
đảng viên có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Vốn đã
quen sống và làm việc nhiều năm trong cơ chế thị trường tập trung quan liêu bao
cấp nay chuyển sang sống và làm việc trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cử,
hội nhập, nhiều cán bộ, đảng viên chưa đủ trình độ năng lực và kiến thức để nắm
bắt tình hình, nhanh chóng thích nghi và làm chủ. Hơn thế nữa cơ chế thị trường
với nhiều thành phần kinh tế khác nhau và xu thế hội nhập quốc tế mang theo
những mặt trái khó khắc phục, có thể gây ra những tác động xấu đến phẩm chất
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nhất là với những người thiếu bản lĩnh
chính trị và lập trường đạo đức.
Tính chất đan xen hết sức phức tạp của các loại hình kinh tế nước ta
đang tồn nên sự đan xen, hoà quyện bài trừ lẫn nhau giữa các hệ giá trị, chuẩn
mực đạo đức khác nhau trong đời sống xã hội.. Điều đó làm cho sự suy thoái,
xuống cấp của cán bộ, đảng viên có thêm những cơ họi phát triển và biểu hiện
dưới những hành vi khác nhau. Trong điều kiện như vậy một số chính sách , chế
độ của Đảng và Nhà nước bất cập trong đười sống xã hội còn chậm đổi mới.
Chính sách phân phối chưa bảo đảm xoá bỏ kịp thời những bất công trong xã
hội. Trong công tác quản lý vĩ mô còn nhiều sơ hở cho tệ tham ô, lãng phí biển



20

thủ công quỹ, tiêu phí “tiền chùa” một cách tuỳ tiện mà không bị kiểm soát hoặc
sử lý nghiêm minh. Một số kẻ lợi dụng để “đục nước béo cò”, làm giàu bất
chính, sống vô độ, chà đạp lên những chuẩn mực giá trị đạo đực.
Việc cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu tính kiên quyết, hiệu quả
thấp. Cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, phát hiện nhân tài
còn chưa hoàn thiện. Nhiều chính sách trong công tác cán bộ bất hợp lý khiến
cho tình trạng bất mãn, không nhiệt tinhg công tác, thậm chí chỉ lo cho bản thân
khi giữ chức vụ để có thể nhàn hạ, dư dật khi nghỉ việc, vẫn còn khá nhiều trong
cán bộ, đảng viên. Những bất cập và thiếu sót như vậy không thể không gây ảnh
hưởng đến đội ngũ cán bộ , đảng viên đang công tác, làm giảm ý chí phấn đấu,
rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của họ.
Mặt khác, sự chống phá của các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội đang
diễn ra hết sức phức tạp thông qua chiến lược “diễn biến hoà bình”. Sau khi chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tiếp đó chúng coi Việt Nam là một
tâm điểm chống phá. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách
mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo
đức, lối sống…Từ tha hoá cán bộ, đảng viên của Đảng ta với ý đồ làm suy yếu
ngay từ nội bộ đảng đến đẩy cách mạng nước ta “tự diễn biến” và mất chế độ.
Điều này đặt ra cho Đảng ta phải không ngừng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho cán bộ đảng viên và coi đó là nhiệm vụ cấp bách trực tiếp, đồng thời
cũng là nhiệm vụ lâu dài gắn liền với quá trình cách mạng nước ta.
Vì vậy, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh trở thành nhiệm
vụ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng, có ý nghĩa quyết định đến sự sống
còn của Đảng ta hiện nay.



21

2. Một số nguyên tắc cơ bản và yêu cầu bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tinh thần “Sửa đối lối làm việc”.
*Một số nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên.
Coi việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời; Bởi Đạo đức cách mạng
không phải là tự nhiên, sẵn có mà là sản phẩm của quá trình hoạt động tự giác
thường xuyên liên tục, bền bỉ, lâu dài của tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể và
sự tự giác trong tu dưỡng rèn luyện của mỗi con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong"15. Mặt khác, rèn luyện đạo đức cách mạng là một
quá trình đấu tranh gạt bỏ cái xấu, cái lỗi thời lạc hậu đã ăn sâu vào tiềm thức
của mỗi người, xây dựng cái mới, cái tiên tiến, cách mạng. Vì vậy, tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng là một công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải được
tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi
hoạt động, mọi mối quan hệ và trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
Quá trình tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho mọi người nói
chung, cán bộ chiến sĩ trong quân đội nói riêng theo Hồ Chí Minh phải trên tinh thần tự
giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người
cách mạng phải ý thức được đạo đức cách mạng là góp phần vào giải phóng con
người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, từ đó xác định động cơ, tinh thần trách
nhiệm để vươn lên. Đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm và khuyết
điểm. Vấn đề là phải nhận rõ khuyết điểm và cố gắng, kiên trì để sửa chữa. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: "Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải
chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu
15

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 293



22

bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì
cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ"16. Với mọi cán bộ, chiến sỹ trong quân đội, để
rèn luyện đạo đức cách mạng đòi hỏi mọi người phải có tinh thần nỗ lực, cố gắng cao
độ, bền bỉ, thận trọng, thường xuyên trong suốt cuộc đời; làm cho mỗi công tác, mỗi
hoạt động của tổ chức và cá nhân đều mang theo giá trị đạo đức sâu sắc, ý nghĩa nhân
văn cao cả của một quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân, vì dân.
Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, nói đi đôi với làm, nhận thức
luôn đi đôi với thực hành là đặc trưng tồn tại và phát triển của đạo đức cách
mạng. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn giáo dục mọi người, nhất là đối với cán bộ,
đảng viên phải miệng nói, tay làm, tai lắng nghe. Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí
Minh luôn gắn bó chặt chẽ và thực hiện nói đi đôi với làm; Người nói nhiều về
đạo đức và nêu gương thực hành nhiều hơn cả những điều mà Người đã viết và
nói về đạo đức cách mạng.
Trong lĩnh vực đạo đức, lời nói phải luôn đi đôi với việc làm thì mới
đem lại hiệu quả thiết thực cho bản thân của mỗi cá nhân và tập thể. Nếu nói
nhiều, làm ít, hoặc nói mà không làm, thậm chí nói một đàng làm một nẻo thì
chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng. Người dạy: “cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, bộ đội, công an vũ trang phải gương mẫu,...phải thiết thực, miệng
nói tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì vô ích. Đó
là một tật xấu”17. Nói mà không làm là đạo đức của giai cấp bóc lột. Lời nói
phải đi đôi với việc làm, người cán bộ phải làm kiểu mẫu trong mọi công việc;
đó là đạo đức của người cách mạng, là vốn văn hoá phương Đông. Hồ Chí
Minh viết: "Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối
với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên

16

17

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 448
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 136


23

truyền"18. Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản"
mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo
đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt
chước... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã. Người dạy: "Đảng
viên đi trước, làng nước theo sau, việc khó đến đâu cũng làm được hết".
Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức phải được quán triệt trong tất
cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực: trong Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đến nhà
trường, gia đình, xã hội... Với tấm gương đạo đức trong sáng của Hồ Chí
Minh, lời nói luôn đi đôi với việc làm thực sự có một sức thu hút mãnh liệt
khiến cho cả dân tộc, nhiều thế hệ, các giai tầng xã hội đều tin tưởng đi theo
tiếng gọi của Người.
Xây đi đôi với chống, nâng cao đạo đức cách mạng gắn liền với quét sạch
chủ nghĩa cá nhân. Với cách nhìn biện chứng, Hồ Chí Minh đã nhận thấy trong
mỗi con người bao giờ cũng tồn tại đan xen của hai mặt đối lập, giữa cái tốt và cái
xấu, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái lạc hậu và cái tiên tiến. Nhưng cái thiện, cái
tốt, cái tiên tiến trong đạo đức của mỗi người không phải được hình thành một cách
tự nhiên mà nó luôn là sản phẩm của xã hội. Quá trình xây dựng các phẩm chất tốt
đẹp ấy là một quá trình lâu dài, khó khăn, bền bỉ và luôn gắn bó chặt chẽ giữa xây
và chống. Xây dựng các giá trị phẩm chất đạo đức cách mạng tốt đẹp và chống, loại
bỏ các tư tưởng đạo đức cũ, lạc hậu là một nguyên tắc cơ bản trong rèn luyện đạo
đức cách mạng. Nếu tổ chức xây tốt thì cũng có nghĩa là chống tốt và ngược lại. Vì
vậy, xây dựng đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh phải luôn gắn với đấu tranh

phê phán những tư tưởng đạo đức lạc hậu và những biểu hiện phi đạo đức. Người
đã nêu nên phương hướng cơ bản trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng là
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người ngày càng phát triển và phần xấu được mất
18

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 263.


24

dần. Xây dựng đạo đức cách mạng là xây dựng những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
trong nhân cách của mỗi một con người. Quá trình ấy, phải luôn gắn với đấu tranh
khắc phục và loại bỏ những tư tưởng lạc hậu trong đạo đức của người cách mạng
mà chủ yếu là chủ nghĩa cá nhân; đây chính là căn nguyên của mọi “bệnh tật”dẫn
đến tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh có ba kẻ địch: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy
hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở
cách mạng tiến bộ. Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân. Với Người, "cái gì trái
với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân"19. Do đó, xây dựng "Đạo đức
cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống
mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục,
không chịu cúi đầu"20. Xây dựng đạo đức cách mạng vì thế mà phải luôn gắn chặt
với việc đấu tranh phê phán những tư tưởng đạo đức cũ lạc hậu, kìm hãm sự nghiệp
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Những nguyên tắc cơ bản nêu trên là một thể thống nhất, gắn bó chặt chẽ
với nhau, tác động tương hỗ lẫn nhau. Đó là các nguyên tắc xây dựng, rèn luyện
đạo đức cách mạng của mọi cán bộ, đảng viên nói chung, mọi quân nhân cách
mạng nói riêng. Đồng thời, đó cũng là những nguyên tắc cơ bản để Đảng ta xây
dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng ở Việt Nam.
* Yêu cầu bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng

viên hiện nay theo tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh
Một là, Giáo dục mọi người nhận thức đúng đắn ý nghĩa tầm quan trọng
của việc học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân

19
20

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 448.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 287.


25

Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội ở đất nước ta có nhiều khởi sắc: kinh tế tăng trưởng khá; văn hoá, đời sống nhân
dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng
và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng;
hệ thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội
nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy
nhiên, bên cạnh những thuận lợi căn bản cũng còn tiềm ẩn những khó khăn, thách
thức mới nảy sinh. Cùng với sự chống phá từ nhiều phía của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch, mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang làm băng hoại những
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, trái với nền tảng đạo đức mà Hồ Chí Minh và
Đảng ta dày công xây dựng. Một thực tế hiện nay là không hiếm những biểu hiện
hư hỏng về đạo đức, lối sống trong một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Các tệ
nạn xã hội, buôn lậu, tham nhũng, làm ăn phi pháp đang diễn ra phổ biến ở nhiều
nơi. Sự biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên đang làm giảm sút uy tín của
Đảng, Nhà nước và trở thành những tấm gương xấu trong nhân dân. Trong văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu rõ tình trạng: "Thoái hoá, biến

chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm
trọng, kéo dài…"21. Do đó, việc giáo dục, nâng cao nhận thức về sự cần thiết xây
dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên không những là một yêu cầu
thường xuyên mà còn là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết
đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ phải "đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 263264
21


×