Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Nghiên Cứu Đa Dạng Cây Thuốc Thuộc Ngành Mộc Lan (Magnoliophyta) Ở Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Xuân Liên, Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 68 trang )

Header Page Số
1 ofhóa
126.bởi trung tâm học liệu

/>
VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

PHAN CAO CƯỜNG

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÂY THUỐC THUỘC
NGÀNH MỘC LAN (Magnoliophyta) Ở KHU
BẢO TỒN THIÊN NHIÊN XUÂN LIÊN
TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Thực vật học
Mã số : 62 42 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thế Bách

HÀ NỘI – 2012

[Type text]
Footer Page 1 of 126.


Header Page Số
2 ofhóa
126.bởi trung tâm học liệu

/>


VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

PHAN CAO CƯỜNG

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÂY THUỐC THUỘC
NGÀNH MỘC LAN (Magnoliophyta) Ở KHU
BẢO TỒN THIÊN NHIÊN XUÂN LIÊN
TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

HÀ NỘI – 2012

[Type text]
Footer Page 2 of 126.


Header Page Số
3 ofhóa
126.bởi trung tâm học liệu

[Type text]
Footer Page 3 of 126.

/>

1
Header Page 4 of 126.


MỞ ĐẦU
Tài nguyên cây thuốc là một trong những nguồn tài nguyên vô giá mà
thiên nhiên đã ban tặng cho con ngƣời. Trong cuộc sống ngày nay khi mà
khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển những vấn đề về sức khỏe con ngƣời
ngày càng đƣợc quan tâm hơn bao giờ hết nhằm hƣớng tới một cuộc sống mà
ở đó có sự phát triển bền vững. Những sản phẩm đƣợc con ngƣời ƣu tiên sử
dụng là những sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên.
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm nên
có mọt thảm thực vật phong phú và đa dạng, chứa đựng trong đó một kho
dƣợc liệu tự nhiên vô cùng hữu ích. Trong số 11.373 loài cây có hoa ở Việt
Nam có tới 3.870 loài đƣợc sử dụng làm thuốc[14].
Từ xa xƣa cho đến ngày nay đồng bào các dân tộc anh em trên đất nƣớc
ta đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu, sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc
chữa bệnh. Cùng với kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc, sự phát triển của
khoa học kỹ thuật đã minh chứng cơ sở khoa học của những cây thuốc qua
thành phần hóa học, tác dụng kháng khuẩn… chúng ta càng thấy rõ tác dụng
của nó. Các cây thuốc phân bố rộng và đa dạng, số loài cây thuốc đƣợc ghi
nhận vào năm 2007 là 3948 loài trong hệ thực vật Việt Nam[12]. Ngày nay,
song song với quá trình phát triển kinh tế xã hội là những tác động gây ô
nhiễm môi trƣờng nghiêm trọng, ảnh hƣởng tới sức khỏe con ngƣời, sự gia
tăng bệnh tật ngày càng nhiều. Đã có nhiều bệnh mà y học hiện đại không thể
sử dụng thuốc tây điều trị, trong khi đó một số bài thuốc y học cổ truyền lại
có khả năng chữa khỏi mà không gây tác dụng phụ, công thức pha chế và
cách thức sử dụng cũng hết sức đơn giản, nguyên liệu lại có sẵn trong tự
nhiên. Chính vì vậy, nền y học hiện đại đã quay lại tìm các hợp chất có trong
tự nhiên từ các loài thực vật dùng làm thuốc kết hợp kinh nghiệm dân tộc để
chữa bệnh.
Cũng nhƣ nhiều Khu bảo tồn thiên nhiên và Vƣờn quốc gia khác trong
nƣớc, Khu bảo tồn thiên thiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa có hệ thực vật nói
chung, tài nguyên cây thuốc nói riêng đang bị suy giảm cả về số lƣợng cũng

nhƣ chất lƣợng. Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên cho đến đang tiến
hành thực hiện Điều tra, lập danh lục khu hệ động, thực vật rừng theo Quyết
định 1895/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, các công trình
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 4 of 126.

/>

2
Header Page 5 of 126.

nghiên cứu về cây thuốc vẫn chƣa đƣợc quan tâm và chú ý nhiều. Xuất phát
từ vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đa dạng cây
thuốc thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta) ở khu bảo tồn thiên nhiên
Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa” để hoàn thiện nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp
của mình.
Mục tiêu tổng quát của đề tài là đánh giá sự đa dạng tài nguyên cây
thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc thái đen ở trong
khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
Mục tiêu cụ thể của đề tài là tập hợp một cách hệ thống các loài cây
thuốc thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta) ở khu BTTN Xuân Liên, tỉnh
Thanh Hóa.
Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị;
cung cấp thông tin một số bài thuốc của đồng bào dân tộc Thái đen ở khu
BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
Ý nghĩa khoa học của đề tài là cung cấp dữ liệu khoa học về đa dạng
cây thuốc thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta) ở khu BTTN Xuân Liên,
tỉnh Thanh Hóa.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Làm cơ sở khoa học để bảo tồn, phát triển

các loài cây thuốc tại khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
Làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lƣợc trong các chƣơng trình quy
hoạch, quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên thực vật của khu BTTN Xuân
Liên, tỉnh Thanh Hóa.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 5 of 126.

/>

3
Header Page 6 of 126.

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nƣớc trên
thế giới
Thực vật dân tộc đã đƣợc hình thành ngay từ khi xuất hiện con ngƣời để
sống và đấu tranh hòa nhập với thiên nhiên. Con ngƣời đã sử dụng cây cỏ phụ
vụ cho cuộc sống của mình (nhƣ cây làm thức ăn, làm nhà ở, cây làm thuốc,
cây lấy tinh dầu…). Các loài cây và các bài thuốc gia truyền gắn liền với đời
sống anh em các dân tộc. Sự phát triển của loài ngƣời, mỗi dân tộc, mỗi Quốc
gia đều có những nền y học cổ truyền riêng. Những ghi chép đầu tiên về cây
thuốc đƣợc tìm thấy cách đây hơn 5 ngàn năm, đó là những nét khắc trên đất
sét của ngƣời Sumeria, thuộc Mesopotamia cổ xƣa (là Irắc ngày nay), đề cập
đến sử dụng cây carum và cây húng tây. Cũng thời gian này, kinh nghiệm sử
dụng cây thuốc cũng bắt đầu hình thành và phát triển ở Trung Quốc và Ấn
Độ. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy kinh nghiệm sử dụng
cây thuốc xuất hiện từ rất lâu đời. Rễ của cây Thục Quỳ (Althea officinalis),

cây Lan Dạ Hƣơng (Hyacinthus sp) và cây Cỏ thi (Achillea millefolium) đƣợc
cất giữ quanh bộ xƣơng ngƣời có niên đại vào thời kỳ đồ đá ở Irắc. Cho đến
nay giá trị làm thuốc của ba loài thực vật kể trên vẫn đƣợc thừa nhận. Điều
này cho thấy, trên thực tế, thực vật đƣợc dùng làm thuốc xuất hiện trƣớc khi
có sự ghi chép của sử sách.
Sử dụng cây thuốc đƣợc các quốc gia trên thế giới tiến hành ở các mức
độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Nền y học Trung
Quốc đƣợc xem là cái nôi của y học cổ truyền, các bài thuốc đƣợc xem nhƣ
hình thành sớm nhất từ đây. Từ năm 3216 trƣớc công nguyên, Thần Nông –
một nhà dƣợc học tài năng đã chú ý tìm hiểu tác động của cây cỏ đến sức
khỏe con ngƣời. Ông đã thử nghiệm tác dụng các loài cây thuốc trên chính
bản thân bằng uống, nếm rồi ghi chép tất cả những hiều biết vào cuốn sách
”Thần nông bản thảo” gồm 365 vị thuốc rất có giá trị. Trong đó, nhiều bài
thuốc vẫn đƣợc sử dụng cho tới ngày nay nhƣ cây Gai mèo (Cannabis sp) để
chống nôn, cây Đại Phong Tử (Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa bệnh
phong. Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hƣơng, Tử đinh
hƣơng để chế hƣơng nang (túi thơm) để phòng chống và chữa trị bệnh lao
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 6 of 126.

/>

4
Header Page 7 of 126.

phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc
gối (hƣơng chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời
nhà Hán (năm 168 trƣớc Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp
phƣơng” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ

XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cƣơng
mục”.
Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền đƣợc hình thành cách đây hơn 3000 năm,
khi đó nhân dân ấn độ đã biết dùng lá cây Ba Chẽn (Desmodium triangulare)
sao vàng sắc đặc để trị kiết lỵ và tiêu chảy [18]. Chủ trƣơng của ngƣời Ấn là
ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu
thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi
Vedas đƣợc viết vào năm 1.500 TCN và cuốn Charaka samhita đƣợc các thầy
thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo
dƣợc. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dƣợc nhƣ tổng hợp
chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm
độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con ngƣời.
Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây
thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dƣợc của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên
cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Những hiểu biết về thảo mộc của ngƣời Hy Lạp và Roma gắn liền với
nền văn minh phát triển từ rất sớm của họ. Ngƣời Hy Lạp cổ xƣa chịu ảnh
hƣởng của ngƣời Babylon, Ai Cập, Ấn Độ. Hippocrat (460 – 377 TCN) là
thầy thuốc nổi tiếng ngƣời Hy Lạp đƣợc mệnh danh là cha đẻ của y học hiện
đại khi ông là ngƣời đƣa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của bạn là thuốc và
thuốc chính là thức ăn của bạn”.
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu đƣợc
các thầy tu sƣu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về
thảo mộc bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn
sách “A Physical Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The
English Physician”. Đây là cuốn dƣợc điển có giá trị và là một trong những
cuốn sách hƣớng dẫn đầu tiên dành cho nhiều đối tƣợng sử dụng, ngƣời
không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang chăm sóc sức khỏe. Cho đến
nay, cuốn sách này vẫn đƣợc tham khảo và trích dẫn rộng rãi.
Số hóa bởi trung tâm học liệu


Footer Page 7 of 126.

/>

5
Header Page 8 of 126.

Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan
trọng đối với sức khỏe của hàng triệu ngƣời. Tỷ lệ ngƣời làm nghề thuốc cổ
truyền và các bác sĩ đƣợc đào tạo ở các trƣờng Đại học có liên quan tới toàn
bộ dân số của các nƣớc châu Phi. Ƣớc tính số lƣợng thầy lang ở Tanzanmia
có khoảng 30.000 – 40.000 ngƣời, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng
600 ngƣời. Tƣơng tự ở Malawi có khoảng gần 20.000 ngƣời làm nghề thuốc
cổ truyền nhƣng số lƣợng bác sĩ rất ít [26]. Nền y học cổ truyền ở các quốc
gia Châu Phi có ảnh hƣởng lớn đến sức khỏe cộng đồng.
Cùng với phƣơng thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà
khoa học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất
hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có
giá trị. Các nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng
sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn
do các hợp chất tự nhiên có mặt phổ biến trong thực vật nhƣ phenolic, antoxy,
các dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp
chất tự nhiên đã đƣợc giải mã về cấu trúc, những hợp chất này đƣợc chiết xuất
từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc đƣợc giải mã, ngƣời ta có thể tổng
hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall (1950) đã phân lập đƣợc
chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất này có tác dụng với vi
khuẩn lao ở ngƣời và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã
chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn
nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), ngƣời ta

đã chiết xuất đƣợc berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các
hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập
đƣợc một hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhƣng lại có tác
dụng kháng khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng
kháng khuẩn gram+ và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp
đƣợc chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfia spp.). Đặc biệt, Vinblastin và
Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa có tác dụng làm thuốc chống ung
thƣ, đƣợc chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin đƣợc chiết xuất từ cây Dƣơng
địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin đƣợc chiết xuất từ cây Sừng dê
(Strophanthus spp) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên cứu cấu
trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa
bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 8 of 126.

/>

6
Header Page 9 of 126.

Dƣợc lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt tính
chữa bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng chữa
bệnh của cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây thuốc.
Chẳng hạn nhƣ chất khoáng, vitamin, tinh dầu glycosid và nhiều chất khác
đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cƣờng hoặc hỗ trợ các đặc tính chữa
bệnh của cây thuốc, bảo vệ cơ thể của các tác nhân gây độc. Trong khi đó, các
hợ chất đƣợc phân lập và tổng hợn có khả năng chữa bệnh hiệu quả nhƣng vì
thiếu đi các hợp chất tự nhiên khác nên chúng có khả năng gây độc đối với cơ
thể. Trƣớc đây, việc sử dụng thảo dƣợc để chữa bệnh thƣờng bị hiểu lầm với

phép thuật và mê tín dị đoan. Ngày nay, khoa học hiện đại đã chứng minh
đƣợc khả năng chữa bệnh của thảo mộc. Vì vậy, thế giới ngày càng quan tâm
tới cây thuốc cũng nhƣ phƣơng pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), có trên 20.000 loài thực
vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp đƣợc sử dụng trực tiếp làm
thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc. Trong đó, vùng
nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500
loài thực vật có hoa đƣợc dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dƣợc
ngày càng cao.
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phƣơng
pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ.
Trung Quốc là nƣớc đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển
nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000
loài) là đƣợc sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đất nƣớc
này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét
ban đầu đƣợc điều trị tại chỗ bằng thảo dƣợc. Tỷ lệ dân số tin tƣởng vào hiệu
quả sử dụng thảo dƣợc và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng
đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, và một số
nƣớc khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế
từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phƣơng thuốc có nguồn gốc
thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại
thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla.
Theo số liệu của Trung tâm Thƣơng mại Quốc tế từ năm 1976, các nƣớc
công nghiệp phát triển đã nhập khẩu hơn 300 triệu USD và đến năm 1980 con
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 9 of 126.

/>


7
Header Page 10 of 126.

số này đã tăng lên 551 triệu USD. Chỉ tính riêng 12 loại dƣợc liệu có nhu cầu
sử dụng cao ở Mỹ là Bạch quả, Sâm Triều Tiên, Tỏi, Valeriana officinalis, …
từ năm 1998 đã đạt doanh số bán lẻ là 552 triệu USD. Đến năm 2003, thị
trƣờng thảo dƣợc toàn cầu đã vƣợt mức 60 tỷ USD hàng năm và con số này
vẫn tiếp tục tăng.
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con ngƣời trong việc chăm sóc sức
khỏe ngày một tăng, nhƣng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm.
Nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các
hoạt động trực tiếp và gián tiếp của con ngƣời. Theo tổ chức Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài
thực vật mà cơ quan này lƣu giữ thông tin có tới 30.000 loài đƣợc coi là đang
bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều loài là cây
thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn nhƣ ở Bangladesh, một số
cây thuốc quý nhƣ Tylophora indicia (để chữa hen), Zannia indicia (thuốc tẩy
xổ)…trƣớc đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi. Loài Ba gạc
(Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh, Thái
Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trƣờng Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên
tục nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số
bang ở Ấn Độ đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này. Ở Trung Quốc, loài
Dioscorea sp đã từng có trữ lƣợng lớn và từng đƣợc khai thác tới 30.000 tấn,
nhƣng hiện nay số lƣợng bị giảm đi rất nhiều, có loài đã phải trồng lại. Một
vài loài cây thuốc dân tộc quý nhƣ Fritillaria cirrhosa làm thuốc ho, phân bổ
nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh Tứ Xuyên nay chỉ còn phân bố ở 1 đến 2 điểm với
số lƣợng ít ỏi.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lƣợng của các
loài cây thuốc trƣớc hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dƣợc

liệu và do môi trƣờng sống của chúng bị hủy diệt bở các hoạt động của con
ngƣời. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa
dạng sinh học cao của thế giới nhƣng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu
của tổ chức Nông Lƣơng (FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940
– 1980), diện tích của các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ƣớc tình
khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 10 of 126.

/>

8
Header Page 11 of 126.

Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dƣợc đang ngày càng đƣợc
khám phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây
thuốc nói riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm phục
vụ cho mục đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con ngƣời.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu đời, nhiều phƣơng
thuốc bào chế từ cây thuốc đƣợc áp dụng chữa bệnh trong dân gian. Những
kinh nghiệm này đã đƣợc ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và lƣu
truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng
và ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ƣớc tính, nƣớc ta
có khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm
và hơn 2.000 loài tảo [5], [10], [11]. Có khoảng trên 3.000 loài thực vật bậc
cao dùng làm thuốc.
Trong cuốn sách “Nam Dƣợc Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tƣ Y
Thƣ” của Tuệ Tĩnh đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại

bệnh trong đó 37 đơn thuốc chữa bệnh thƣơng hàn. Hai cuốn sách này đƣợc
xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đến thế
kỷ 18, Hải Thƣợng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông
Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết vệ thực vật, các đặc
tính chữa bệnh [40].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 – 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam
chịu nhiều ảnh hƣởng của dƣợc học phƣơng Tây. Các phƣơng thức chữa bệnh
mới đƣợc mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc
đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây
thuốc nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cƣơng Đông Dƣơng” của
Lecomte xuất bản cuối thể kỷ XVIII đầu thể kỷ XIX đã mô tả và phân loại
hơn 7.000 loài thực vật. Đến năm 1952 tác giả tái bản lại cuốn sách, bổ sung
và đặt tên mới là “Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam” gồm 4
tập, 1.050 trang và thống kê khoảng 1.480 loài thực vật. Tuy nhiên cuốn sách
này chƣa hoàn thiện về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dƣợc lý của
các loại thảo mộc.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 11 of 126.

/>

9
Header Page 12 of 126.

Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dƣơng đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ
Việt Nam” vào năm 1980 đã giới thiệu đƣợc công dụng làm thuốc của nhiều
loài thực vật [16]. Đỗ Tất Lợi (1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” và tái bản vào năm 2000 [14]. Công trình này thống kê

gần 800 loài cây, con và vị thuốc, trong đó nhiều loài thực vật đã đƣợc mô tả
về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công
dụng và liều dùng.
Cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, do Võ Văn Chi (1991) biên soạn
đã mô tả đƣợc 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài
thuộc 1.050 chi, đƣợc xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan [6].
Tác giả đã trình bày về cách nhận biết, các bộ phận đƣợc sử dụng, nơi sống và
thu hái, thành phần hóa học, tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực
vật. Đến năm 2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách
“Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mô tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có
mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng [6].
Trần Đình Lý (1995) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có
ích”. Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76
loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 chứa
tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong
số các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có công dụng làm thuốc.
Nhiều cuốn sách có giá trị về tài nguyên cây thuốc đƣợc các nhà khoa
học của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam biên soạn. Trong đó, đáng chú ý là những cuốn sách “Tài nguyên
thực vật có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001 –
2002) các tác giả đã trình bày giá trị sử dụng làm thuốc của nhiều loài thực
vật có tinh dầu của Việt Nam [15]. Năm 2005, Lã Đình Mỡi và cộng sự giới
thiệu tiếp công trình “Những cây chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học” đây
đƣợc coi là những ghi chép đầu tiên, có hệ thống và tƣơng đối hoàn chỉnh về
nguồn tài nguyên thực vật có chứa các chất có hoạt tính sinh học đƣợc sử
dụng làm thuốc ở nƣớc ta [16].
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Cẩm
nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam” [1]. Cuốn sách
đã trình bày đầy đủ các thông tin về tên khoa học, tên thƣờng gọi, nhận dạng,
Số hóa bởi trung tâm học liệu


Footer Page 12 of 126.

/>

10
Header Page 13 of 126.

phân bố, dạng sống – sinh thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho
việc tra cứu danh pháp các loài thực vật.
Trong những năm qua, nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu tƣ
cho công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền,
phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các
ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ bản,
đặc biệt là chƣơng trình điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dƣợc liệu –
Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm vi toàn quốc. Đến nay ở nƣớc ta có khoảng
3.948 loài cây thuốc đƣợc ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc
cao và bậc thấp, bao gồm cả nấm.
1.3. Tình hình nghiên cứu thực vật ở thanh hóa
Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích rừng lớn, phong phú và đa dạng. Các
khu rừng chạy dọc theo dãy Pù Luông và tiếp giáp với dãy trƣờng sơn, đƣợc
đánh giá là một trong những trung tâm về đa dạng sinh học. Nhƣng việc
nghiên cứ hệ thực vật ở đây chủ yếu theo hƣớng điều tra ở thành phần loài
từng vùng nhƣ các công trình nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn
Anh Đức (năm 2002), đánh giá thành phần loài và sự phân bố của thực vật
Bến En [27], Đỗ Ngọc Đài và cộng sự (năm 2007), đánh giá thành phần loài
của hệ thực vật trên núi đá vôi ở Bến En [28], Averyanov L. và cộng sự. đã
điều tra thành phần loài cũng nhƣ đánh giá đa dạng ở khu bảo tồn thiên thiên
Pù Luông [29].
1.4. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc

ở Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên – Thƣờng Xuân – Thanh Hóa.
Tại khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa đời sống của nhiều ngƣời
dân nơi đây còn gặp rất nhiều khó khăn. Cuộc sống nơi đây vẫn mang tính tự
cung tự cấp, trong những năm trở lại đây do chính sách của đảng và nhà nƣớc
có sự điều chỉnh và quan tâm nhiều đến bà con vùng cao nên đời sống của họ
đã phần nào bớt đi đƣợc những khó khăn. Cuộc sống nơi những vùng núi cao
cũng đã bắt buộc họ phải sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, trong cuộc sống
mỗi khi ốm đau ngƣời dân nơi đây vẫn vào rừng tìm kiếm những loài cây
trong rừng về làm thuốc. Trải qua bao thế hệ, những kinh nghiệm đó đã ngày
càng đƣợc ngƣời dân nơi đây tích lũy. Sự hiểu biết về các loài cây thuốc của
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 13 of 126.

/>

11
Header Page 14 of 126.

ngƣời dân nơi đây đƣợc thể hiện thông qua việc sử dụng chúng trong việc trị
bệnh cho ngƣời ốm, việc thu hái, địa điểm thu hái cũng nhƣ cách thức chế
biến chúng.
Khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa đƣợc thành lập theo Quyết định
số 1476/QĐ-UB ngày 15 tháng 6 năm 2000 tuy nhiên việc nghiên cứu tài
nguyên cây thuốc vẫn chƣa đƣợc chú trọng. Mới đây, một số chƣơng trình dự
án có liên quan đang đƣợc tỉnh cũng nhƣ các cơ quan chức năng khác đầu tƣ
và thực hiện: Dự án “Xây dựng cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học và an toàn sinh
học tỉnh Thanh Hóa” theo Quyết định số 967/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND
tỉnh Thanh Hóa; dự án “Điều tra, lập danh lục khu hệ động, thực vật rừng ở
khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa” theo Quyết định số

1895/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa và Chƣơng trình quan
trắc tài nguyên môi trƣờng tỉnh Thanh Hóa – Quan trắc đa dạng sinh học
thành phần loài tại các khu bảo tồn thiên nhiên và vƣờn Quốc gia.
Nhƣ vậy, cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nghiên cứu nào về
vấn đề tài nguyên cây thuốc mà đƣợc đồng bào dân tộc nơi đây sử dụng. Dƣới
sự hƣớng dẫn của các thầy tại Viện Sinh thái Tài nguyên và Sinh vật tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cao học của mình.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 14 of 126.

/>

12
Header Page 15 of 126.

Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Các loài cây thuốc thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta) và một số bài
thuốc của một số ông lang, bà mế có kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Thái
đen ở khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 11 năm 2012.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Đa dạng thực vật: Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên, xây dựng
danh lục, phân tích, đánh giá đa dạng các bậc taxon (lớp, họ, chi) của các loài
cây thuốc và các bài thuốc đƣợc đồng bào dân tộc Thái đen sử dụng ở khu
BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa .
Vấn đề sử dụng cây thuốc: Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài

cây thuốc. Một số bài thuốc chữa bệnh của các ông lang, bà mế.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Điều tra thực địa theo tuyến:
Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra. Tuyến
đƣợc chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trƣng cho
khu bảo tồn. Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là những điểm
chốt đặc trƣng nhất để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (Theo
Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân
tộc Thái Đen sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5 - 6 tiêu
bản. Các tuyến điều tra thực địa:
+ Bản Vịn, xã Yên Nhân.
+ Bản Lửa, xã Yên Nhân.
+ Hón Mong, xã Yên Nhân.
+ Bản Khẹo, xã Bát Mọt.
+ Hang Cáu, xã Vạn Xuân, huyện Thƣờng Xuân
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 15 of 126.

/>

13
Header Page 16 of 126.

Ảnh 2.1. Điều tra thực địa và thu hái
mẫu tại Bản Moong

Ảnh 2.2. Điều tra thực địa và thu hái
mẫu cây quế thanh tại bản Khẹo


Ảnh 2.3. Điều tra thực địa và thu hái
mẫu tại Bản Lửa cùng ngƣời bản địa

Ảnh 2.4. Xử lý mẫu vật sau khi thu mẫu
tại hiện trƣờng

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 16 of 126.

/>

14
Header Page 17 of 126.

2.3.2. Điều tra tình hình khai thác sử dụng dƣợc liệu
Điều tra tình hình khai thác và sử dụng cây thuốc chính là phƣơng pháp
điều tra nhanh về thị trƣờng dƣợc liệu. Mục đích chủ yếu là nắm những loài
cây thuốc đang có nhu cầu sử dụng và khối lƣợng sử dụng của mỗi loại hàng
năm là bao nhiêu. Căn cứ vào kết quả điều tra để giới thiệu cho khai thác và
sử dụng. Phƣơng pháp chung để tiến hành điều tra là phƣơng pháp phỏng vấn
trực tiếp.
Đối tƣợng phỏng vấn bao gồm: những ngƣời thƣờng xuyên đi khai thác
cây thuốc, ngƣời sử dụng cây thuốc làm dƣợc liệu chữa bệnh. Để thu thập các
cây thuốc và bài thuốc dân tộc một cách tốt nhất, nên giải thích rõ mục đích
phỏng vấn cà tạo niềm tin để họ cung cấp đầy đủ và chính xác mọi loại thông
tin.
- Các ông Lang bà mế đã phỏng vấn
+ Ông Hà Văn Luông, bản Lửa, Xã Yên Nhân.

+ Ông Lục Văn Nhƣng, bản Khẹo, xã Bát Mọt
+ Ông Lục Văn Táu, Hón Mong, xã Yên Nhân
+ Bà Lang Thị Quynh, xã Yên Nhân
+ Bà Lƣơng Thị Lan, Bản Vịn
+ Lang Thị Phúc, bản Vịn
2.3.3. Thu thập số liệu, tài liệu:
Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cây nhƣ các
báo cáo khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet, ….
Sử dụng phƣơng pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của ngƣời dân
(PRA): Phỏng vấn các ông Lang, bà Mế, các cán bộ làm công tác quản lý tại
khu bảo tồn và cộng đồng dân cƣ địa phƣơng thông qua bảng hỏi đã đƣợc xây
dựng sẵn. để sƣu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây thuốc sử dụng theo kinh
nghiệm dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc nều có mẫu thu và ghi chép các
thông tin cần thiết nhất công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng của cây.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 17 of 126.

/>

15
Header Page 18 of 126.

2.3.4. Xử lý số liệu.
Phƣơng pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia đặc
biệt là các vật đề nhƣ xác định tên khoa học các mẫu đã thu hái.
Phƣơng pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa
thìn, 1997). Các tiêu bản tƣơi đƣợc thu thập ngoài thực địa tiếp tục xử lý
trong phòng thí nghiệm tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên

sinh vật. Các mẫu sau khi sấy khô đƣợc ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa
0,3-0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và chống côn trùng phá hại. Các mẫu tiêu bản
đƣợc sây khô, ép khẳng, trình bày và khâu trên giấy bìa cứng kích thứoc 28
cm x 42 cm.
Xác định tên khoa học, kiểm tra, chỉnh lý tên theo các tài liệu chính là
các tập Thực vật chí Việt Nam, Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam.
Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lƣợng họ, chi theo hệ thống của bộ
Sách “Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam”. Danh lục đƣợc xây dựng theo
nguyên tắc sự phát triển của các ngành thực. Các chi loài đƣợc xếp theo vần
ABC. Ngành Mộc lan do khối lƣợng lớn nên chia thành 2 lớp Mộc lan và lớp
Hành. Sau đó cũng xếp tƣơng tự nhƣ trên. Trên cơ sở danh lục thực vật, căn
cứ vào Sách đỏ Việt Nam, 2007; Danh lục các loài thực vật quý hiếm của
IUCN, 2009; Nghị định số 32 của chính phủ về các loài động thực vật quý
hiếm để lập danh sách các loài quí hiếm ở khu BTTN Xuân Liên. Danh lục
ngoài tên khoa học, tên Việt Nam của các loài còn có các thông tin khác nhƣ
dạng sống, công dụng, môi trƣờng sống, bộ phận sử dụng làm thuốc theo
mẫu.
Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ
phận, về số lƣợng các bộ phận sử dụng làm thuốc, nhóm bệnh,...
Bản đồ phân bố các loài thực vật quý hiếm: Căn cứ vào các điểm đã
phát hiện đƣợc cây thuốc ngoài thực địa (đã đƣợc xác định vị trí bằng GPS và
đánh dấu vào bản đồ điều tra), đánh dấu điểm phân bố của loài trên bản đồ
(theo Nguyễn Thƣợng Dong và cộng sự, 2006).
Xác định các loài quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt: Trên cơ sở danh lục
thực vật, lập danh sách các loài quí hiếm ở khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 18 of 126.


/>

16
Header Page 19 of 126.

Hóa. Các loài đƣợc xác định quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào tiêu chí
của các công trình sau:
- Sách đỏ Việt Nam, 2007;
- Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2004;
- Nghị định số 32 của chính phủ về các loài động thực vật quý hiếm.
Các nhóm bệnh đƣợc phân chia theo tài liệu của Lê Trần Đức (1995)
“Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu”. Chi tiết nhƣ
sau:
- Nhóm 1: Bệnh ngoại cảm (gồm Cảm mạo phát sốt ớn lạnh, nghẹt mũi,
Cảm cúm hơi sốt sợ lạnh, đau mỏi, Cảm gió lạnh, rét run, Cảm nóng rét nắng
mƣa thời khí hỗn tạp, Cảm về mùa hè nôn đầy, Cảm cúm mùa hè sốt dai đau
mình, Cảm nắng hay sốt nóng đơn thuần, Nóng rét qua lại, Sốt rét cơn, Sốt dị
ứng, phát ngứa sƣng phù, Bệnh ôn nhiệt sốt hè thu, Trúng gió méo mồm lệch
mắt, Trúng phong thấp hôn mê co cứng, Trùng phong hàn hôn mê quyết
lạnh).
- Nhóm 2: Bệnh về hô hấp (Ngạt mũi, sổ mũi, hắt hơi, Viêm mũi dị ứng, Ho,
viêm họng, Ho đờm, Ho khan, viêm phế quản, Viêm phổi, sƣng phổi, Hen
phế quản, Hen suyễn, Suyễn thở, Ho lao).
- Nhóm 3: Bệnh về huyết mạch (gồm Các loại chảy máu, Huyết áp cao,
Huyếp áp thấp, Hạ đƣờng huyết, Mạch máu xơ cứng (tắc mạch, giãn mạch),
Đau tim).
- Nhóm 4: Bệnh về tâm thần (gồm Khó ngủ hồi hộp, Ngủ lờ mờ không sâu,
dễ tỉnh, Điên cuồng, Tinh thần phân liệt (sấu uất), Động kinh, Kinh giản).
- Nhóm 5: Bệnh về tiêu hoá (Nghẹn nuốt khó, Nấc cụt, Ợ, Nôn oẹ, Nôn mửa,
Đau bụng không tiêu, Đau bụng lạnh dạ, Nóng ruột chán cơn, Táo bón, Ỉa

chảy phân loãng, sống phân, Ỉa xối ra nƣớc không dứt, Lỵ mới phát, Lỵ ra
máu, có sốt, Lỵ mạn tính, Thổ tả, Đau bụng giun quấy, Trục giun, Ngộ độc,
Đau dạ dày, Viêm đại tràng mạn tính, Lòi dom và trĩ mới phát).

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 19 of 126.

/>

17
Header Page 20 of 126.

- Nhóm 6: Bệnh về tiết niệu và gan thận (gồm Tiểu tiện không thông, Đái
buốt, đái đục, Đái dƣỡng trấp, Đái ra cát sỏi, phủ thũng, viêm cầu thận cấp,
Thấp thũng, Viêm gán, truyền nhiễm, sƣng gan (Áp-xe), Viêm gan mạn tính,
Xơ gan mạn tính, Xơ gan cổ trƣớng, Viêm túi mật, sỏi mật, Đái tháo nhạt
không rõ nguyên nhân, Đái tháo đƣờng, Viêm tiền liệt tuyến, Vô niệu do
nhiễm độc hay uất hoả).
- Nhóm 7: Bệnh về sinh dục (gồm Thận hƣ, tinh yếu, Di mộng tiết hoạt tinh,
Liệt dƣơng).
- Nhóm 8: Bệnh suy nhƣợc không đau (gồm Cơ thể hƣ nhƣợc, Tinh thần
suy nhƣợc, Tự ra mồ hôi khi ra gió, Ra mồ hôi ở tay chân, Bốc nóng giữa
đỉnh đầu).
- Nhóm 9: Các bệnh đau nhức (Đau đầu chóng mặt, Đau đầu ê ẩm, nặng
đầu, Đau đầu nhƣ búa bổ, Đau nửa đầu liền với mắt, Mắt đau sƣng đỏ, Đau
mắt trắng, mặt mờ, Đau răng, viêm lợi, Đau ngang lƣng (thần kinh hông),
Phong thấp, Tê thấp, Thấp thở, Phong nhiệt nhức nhói, Đầu gối sƣng đau, Tê
phù, Đau lƣng trên, bà vai, cánh tay, Nổi hạch, viêm hạch, lao hạch, Viêm
tinh hoàn (sa đì), Bại liệt nửa ngƣời, Xuất huyết dạng thấp (Thấp cơ).

- Nhóm 10: Bệnh ngoài da (gồm Đơn độc sƣng tấy, Mụn nhọt, Lở ngứa các
loài, Thuốc dùng ngoài đối với từng loại lở ngứa, Lở nấm, Tổ đỉa, Chín mé,
Hắc lào, Lở chàm, Ghẻ, Lang ben, lang trắng, Mụn cóc, Bƣớc cổ, Phong hủi,
lở cùi, Tràng nhạc hay lao hạch).
- Nhóm 11: Bệnh ngoại thƣơng (gồm Bị thƣơng, bị ngã, Bị thƣơng chảy
máu, Bị bỏng, Rắn cắn).
- Nhóm 12: Bệnh phụ nữ (gồm Kinh không đều, thấy sớm kỳ, Kinh thấy
chậm kỳ, Kinh loạn kỳ, Kinh nguyệt gián đoạn thất thƣờng, Kinh bế, Rong
kinh, Băng huyết nhẹ do cơ năng; Khí hƣ, bạch đới, Viêm phần phụ, Viêm âm
hộ, âm đạo sƣng đau, Sa sinh dục (sa dạ con), U xơ tử cung, Mót đái do viêm
các cơ quan sinh dục, Vô kinh do giảm chức năng buồng trứng, Tắc tia sữa,
Viêm tuyến vú, U xơ tuyến vú, Áp xe vú, Nhọt vú, Vú bị lở, đứt cổ gà, Nôn

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 20 of 126.

/>

18
Header Page 21 of 126.

nghén, Động thai, Phòng sẩy thai, Sau khi đẻ say máu; Sau khi đẻ cảm sốt,
Sau khi đẻ phù nề).
- Nhóm 13: Bệnh trẻ em (gồm Ợ, nấc cụt, trớ sữa; Ói sữa; Trẻ ỉa chảy phọt
toé ra nƣớc; Ỉa chảy phân loãng, Ỉa phân sống; Cam tích; Cam tƣớt; cam lỵ;
còi xƣơng; Suy dinh dƣỡng; Cam thũng; Quai bị; Ho gà; Sởi; Thủy đậu, Sốt
bại liệt, Viêm màng não B và di chứng, Sổ xuất huyết do muỗi, Sƣng amidan,
Viêm tai, Thấp tim, Đái dầm, Thoát vị thừng tinh, Lở chàm, Chốc đầu – mô
đầu, Rôm rảy, tƣa lƣỡi, Lở mồm).


Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 21 of 126.

/>

19
Header Page 22 of 126.

Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
KHU BTTN XUÂN LIÊN, TỈNH THANH HÓA
3.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên khu vực nghiên cứu
3.1.1. Vị trí địa lý
Khu BTTN Xuân Liên thuộc địa bàn hành chính huyện Thƣờng Xuân
cách Thành phố Thanh Hoá 60km về hƣớng Tây Nam, có vị trí tiếp giáp Khu
BTTN Pù Hoạt (Nghệ An) và Khu BTTN Nậm Xam nƣớc CHDCND Lào đã
tạo ra một hệ tam giác khu hệ động vật phong phú và đa dạng về hệ sinh thái.
Toạ độ địa lý: 19051’52’’-19059’00’’ vĩ độ Bắc; 104057’00’’105019’20’’ kinh độ Đông.
+ Phía Bắc giáp đƣợc giới hạn bởi sông Khao;
+ Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An giới hạn bởi ngọn Bù ta leo;
+ Phía Tây giáp tỉnh Nghệ An và Phần còn lại của xã Bát Mọt;
+ Phía Đông đƣợc giới hạn bởi ngọn Bù Khang và đập Thuỷ điện
Cửa đặt.
3.1.2. Diện tích quy hoạch
Diện tích tự nhiên của khu bảo tồn là: 27.123,20 ha bao gồm: Diện tích
rừng đặc dụng là 26.303,6 ha (diện tích đã quy hoạch giao quản lý, sử dụng
ổn định: 23.475,0 ha; diện tích ngập nƣớc lòng hồ đang tạm giao: 2.828,6 ha)
và diện tích rừng sản xuất giao quản lý ổn định lâu dài: 819,6 ha.

- Phân chia theo phân khu chức năng:
+ Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 10.846,1 ha.
+ Phân khu phục hồi sinh thái: 12.362,9 ha.
+ Phân khu hành chính dịch vụ: 3.094,6 ha.
Vùng đệm đƣợc quy hoạch với diện tích: 36.420,59 ha, thuộc 4 xã có
diện tích rừng và đất rừng quy hoạch cho Khu bảo tồn: Bát Mọt, Yên Nhân,
Xuân Cẩm, Vạn Xuân và ba xã Lƣơng Sơn, Xuân Cao, Luận Khê có đƣờng
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 22 of 126.

/>

20
Header Page 23 of 126.

giáp ranh với ranh giới của vùng lõi khu bảo tồn. Trong đó có ba dân tộc sinh
sống: Dân tộc Thái chiếm 69,0%, dân tộc Kinh chiếm 18,5%, dân tộc Mƣờng
chiếm 12,5%.
3.1.3. Đặc điểm tự nhiên, địa hình, thủy văn
Khu BTTN Xuân Liên nằm trên dãy núi Sầm Nƣa ở Lào đến các huyện
Thƣờng Xuân, Nhƣ Xuân của tỉnh Thanh Hóa. Các núi này có khá nhiều đỉnh
cao nhƣ núi Tà Leo 10400 m, Bù Chó 1563 m, đỉnh cao nhất 1605 m nằm ở
phía Nam bản Vịn, xã Bát Mọt... Nền địa chất của vùng rất đa dạng bao gồm
đá trầm tích, đá phiến, spilite, aldezit, và nhiều loại đá biến chất khác nhƣ đá
lửa, đá kính.
Địa hình của khu vực này đặc trƣng bởi dãy núi cao từ 800m đến 1600m
đƣợc chia cắt bởi các thung lũng sâu và hẹp, các sƣờn dốc từ Tây sang Đông.
Địa hình phía đông đặc trƣng là vùng chân núi có độ dốc vừa phải, nhiều
trong số hàng loạt các sông suối trong vùng này chảy tƣơng đối phẳng lặng

mang phù sa cho các nhánh của nó. Sông Chu là con sông hình thành từ Lào,
chảy qua Nghệ An trƣớc khi chảy qua khu bảo tồn thiên nhiên.
Bảng 3.1. Số liệu khí tƣợng ghi ở trạm thủy văn Bái, Nhƣ Xuân,
Quỳ Châu
Stt Yếu tố khí hậu

Bái Thƣợng Nhƣ
Xuân

Quỳ Châu

1

Nhiệt độ trung bình năm

2303

2303

2301

2

Nhiệt độ cực tiểu

206

301

006


3

Nhiệt độ cực đại

4105

4107

4102

4

Tốc độ gió trung bình năm

1937,3

1790,4

1734,5

5

Lƣợng mƣa ngày lớn nhất

314,8

376,7

290,1


6

Số ngày mƣa phùn

26

35

20

7

Số ngày có mƣa

149

124

150

8

Số ngày có sƣơng mù

16

22

68


9

Độ ẩm không khí bình quân

85

85

86

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 23 of 126.

/>

21
Header Page 24 of 126.

10 Độ ẩm cực tiểu

17

16

17

11 Lƣợng bốc hơi


783

926

704

12 Tọa độ: Kinh độ Đông

105023

105034

105007

13 Vĩ độ Bắc

19054

19038

19038

21

10

87

14 Độ cao tuyệt đối
3.1.4. Tài nguyên thiên nhiên


Sự đa dạng địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thảm thực vật với các kiểu
rừng chính:
- Rừng kín thƣờng xanh á nhiệt đới núi thấp: Đặc trƣng nhƣ Pơ mu
(Fokienia hodginssi), Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Vù hƣơng
(Cinnamomum balnansae), Dẻ tùng sọc trắng (Amentotaxus argotaenia)...
- Rừng kín thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới: Đặc trƣng bởi các loài thuộc họ
Đậu (Leguminoisae), Thầu dầu (Euphorbiaceae)…(Nguồn tài liệu: Kết quả
điều tra của BirdLife 1999).
Nhân tố địa hình cũng đã tạo cho Khu BTTN Xuân Liên có những hệ
sinh thái rừng đặc trƣng gồm:
+ Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi: Với nhiều hang động là nơi cƣ trú và sinh
cảnh sống của các loài thuộc bộ Linh trƣởng, sự ƣu thế của các loài Chò chỉ
(Shorea chinensis), Đinh (Markhamia stipudata), Thông nàng (Podocarpus
impricatus), Thông tre (Podocarpus pilgeri)...
+ Hệ sinh thái rừng nguyên sinh núi đất cao trên 800 m: Các họ chiếm ƣu thế
Long não (Lauraceae), Mộc lan (Magnoliaceae), Sến (Sapotaceae), Thầu dầu
(Euphorbiaceae)….
+ Hệ sinh thái rừng thứ sinh núi đất cao trên 800 m mà đặc trƣng bởi các loài
thuộc các họ: Họ Đậu (Fabaceae), họ Thiên lý (Asclepiadaceae), họ Cà Phê
(Rubiaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Dẻ (Fabaceae), họ Dầu
(Diperocarpaceae)…
+ Hệ sinh thái rừng thứ sinh núi đất dƣới 800 m với các họ chiếm ƣu thế: Họ
Đậu (Fabaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Cam quýt (Rutaceae), họ Hồ đào

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 24 of 126.

/>


22
Header Page 25 of 126.

(Juglandaceae)…và 2 loài Nứa (Neohouzeana dulloa),
(Dendrocalamus patellaris) thuần loại trong hệ sinh thái này.

Giang

+ Hệ sinh thái trảng cỏ cây bụi thứ sinh: Các cá thể trong các họ sau chiếm ƣu
thế Thầu dầu (Euphorbiaceae), Mua (Melastomaceae), Cỏ roi ngựa
(Verlenaceae), họ Cúc (Asteraceae)…[33].
3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Dân số và phân bố lao động
Dân số: Tổng số hộ trong 7 xã là 7002 hộ, 39746 nhân khẩu. Trong đó:
Dân tộc Thái chiếu 69%, dân tộc kinh chiếm 18%, Mƣờng 12%.
Lao động và phân bố lao động trong vùng: Theo số liệu điều tra năm
2010, trong vùng có 13.153 lao động, chiếm 33,3 % dân số. Lao động nam
6.232 ngƣời chiếm 47%, lao động nữ 6.921 ngƣời chiếm 53%.
Sản lƣợng lƣơng thực: 2.551 tấn/năm trong đó lúa 894 tấn, màu 240 tấn,
sắn 1.417 tấn.
Qua điều tra trong vùng, tỷ lệ hộ nghèo và hộ đói vẫn còn cao, chiếm
46,6 %.
Chăn nuôi
Chăn nuôi là thế mạnh của vùng của vùng do có nhiều diện tích đồng cỏ
và diện tích rừng rộng lớn. Nhƣng do thiếu nguồn vốn đầu tƣ, công tác thú y
chƣa đƣợc chú trọng quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền trong hỗ trợ
chính sách về về vốn, Chuyển giao khoa học là nguyên nhân dẫn đến sự hạn
chế sự phát triển chăn nuôi trong vùng.
Sản xuất lâm nghiệp

Chính sách giao đất lâm nghiệp đã đƣợc thực hiện trên địa bàn các xã từ
năm 2000, với số hộ tham giao nhận đấu từ 4.520 hộ trong tổng số 7002 hộ
chiếm 51%.
Tuy nhiên, nhận thức của ngƣời dân về nghề rừng còn nhiều hạn chế, dẫn
đến công tác đầu tƣ trồng rừng, bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng của
ngƣời dân còn nhiều bất cập; ngƣời dân chủ yếu lợi dụng khai thác vốn rừng
tự nhiên sẵn có là chính, diện tích đất trồng rừng vẫn còn khá lớn. Trong vùng
Số hóa bởi trung tâm học liệu

Footer Page 25 of 126.

/>

×