1
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I. LÊNIN VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
--- --Chính sách kinh tế mới của Lênin ra đời là cẩm nang thần kỳ cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô- viết, bởi nó đã chỉ ra sự cần
thiết của việc phát triển kinh tế hàng hoá như thế nào; xác định chính sách
thuế lương thực ra sao; sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước với tư cách là
phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội như thế nào cho có hiệu quả. Do đó,
nghiên cứu, nắm vững những tư tưởng cơ bản của Lênin trong “Chính sách
kinh tế mới” vẫn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn và mang tính thời
sự sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta hiện
nay.
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Sau thành công của cách mạng tháng Mười năm 1917, nước Nga đi vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một điểm xuất phát thấp: nền kinh tế
tồn tại nhiều thành phần với năm thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế tiểu nông
gia trưởng; kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế chủ nghĩa tư bản tư nhân;
kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước; kinh tế chủ nghĩa xã hội. Nền sản xuất nhỏ
là phổ biến với 82,4% là nông dân, quan hệ sản xuất tiền tư bản là chủ yếu,
lực lượng sản xuất lạc hậu, đúng như Lênin nhận định “chế độ ruộng đất lạc
hậu nhất cùng với tình trạng nông thôn dốt nát”. Sau cuộc nội chiến cách
mạng (1918 - 1921), nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế chính
trị - xã hội rất trầm trọng. Về kinh tế- xã hội, nước Nga đang đứng trước bờ
vực thẳm của sự sụp đổ; nông dân bất bình trước những chính sách thời chiến
được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp của thời bình là không phù hợp; sản
xuất công nghiệp đình đốn, xa sút nghiêm trọng, phần lớn các xí nghiệp đóng
cửa thiếu nhiên liệu; tổng sản lượng công nghiệp năm 1920 giảm 7 lần so với
năm 1913; giai cấp công nhân năm 1913 là 2,5 triệu đến năm 1921 chỉ còn 1,4
triệu; nguy cơ giai cấp công nhân phân hoá, phân tán, có bộ phận tha hoá. Sản
xuất nông nghiệp tiêu điều, sản lượng nông nghiệp giảm sút nghiêm trọng:
tổng sản lượng nông nghiệp năm 1921 chỉ đạt một phần hai so với năm 1913;
2
bình quân lương thực 400 kg một người trên một năm (năm 1913) nay giảm
suống còn 200 kg một người trên một năm ( năm 1921); nạn đói diễn ra triền
miên, ruộng đất bỏ hoang, nông dân không tiến hành sản xuất; giao thông vận
tải bị tàn phá nghiêm trọng, năng lực vận tải chỉ còn 20% so với trước chiến
tranh; hệ thống tài chính tiền tệ lâm vào tình trạng rối loạn nghiêm trọng, bội
chi ngân sách, đồng tiền rúp mất giá hàng chục lần. Về mặt chính trị: có
những diến biến hết sức phức tạp, bọn địa chủ và phản động chạy ra nước
ngoài làm tay sai cho đế quốc; tư tưởng nông dân tiểu tư sản nổi lên điển hình
là cuộc bạo loạn của Cronstat, các lực lượng phản động trong và ngoài nước
chống phá quyết liệt hòng bóp chết nhà nước xã hội chủ nghĩa xô- viết non
trẻ. Trong khi đó một bộ phận đảng viên giao động tư tưởng trước khó khăn
Trước tình hình đó, chính sách cộng sản thời chiến được áp dụng từ năm
1918 đã bộc lộ những khiếm khuyết, hạn chế, không còn phù hợp với thời kỳ
đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, gây cản trở đối với sự phát triển
của sản xuất, Lênin chỉ rõ: “Chính sách kinh tế của ta lâm vào tình trạng, ở
phía thượng tầng của nó, bị tách rời cơ sở và không dẫn đến việc phát triển
lực lượng sản xuất… chính sách trưng thu lương thực thừa ở nông thôn đã
làm trở ngại việc phát triển lực lượng sản xuất và đã tỏ ra là nguyên nhân chủ
yếu gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị sâu sắc”1.
Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, chính trị - xã hội trầm trọng, trước sự
bao vây chống phá Chính quyền xô- viết và để tìm ra con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội phù hợp, cũng như để trả lời câu hỏi đặt ra làm gì? làm như
thế nào? Lênin khẳng định rằng phải bắt đầu từ nông nghiệp để tập trung tháo
gỡ bởi lẽ có trên 80% nhân dân sống bằng nông nghiệp. Mặt khác, bắt đầu từ
nông nghiệp, từ nông dân về mặt chính trị chính là tạo ra sự liên minh vững
chắc giữa giai cấp công nhân và nông dân trong cách mạng. Tại Đại hội X
Đảng Cộng sản Bôn sê vích Nga (từ ngày 8 đến ngày 16 tháng 3 năm
1921),“Chính sách kinh tế mới” của Lênin chính thức được tuyên bố với tính
cách là một đường lối xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa.
II. Nội dung cơ bản và thực chất “Chính sách kinh tế mới” của
Lênin
Tư tưởng cơ bản của “Chính sách kinh tế mới” là phát triển lực lượng sản
xuất và củng cố liên minh công - nông thông qua cơ chế kinh tế và các hoạt
1
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr 199
3
động kinh tế. Thực chất của “Chính sách kinh tế mới”, Lênin chỉ rõ là: “Phát
triển đến mức tối đa các lực lượng sản xuất và cải thiện tình cảnh của công
nhân và nông dân, sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân và hướng nó vào con
đường chủ nghĩa tư bản nhà nước”2. Trong “Chính sách kinh tế mới” Lênin đề
cập đến nhiều vấn đề có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với nước Nga
xô- viết nói riêng đối với các nước xã hội chủ nghĩa nói chung trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Qua nghiên cứu “ Chính sách kinh tế mới” của Lênin, bản thân tôi nhận
thức sâu sắc một số nội dung cơ bản sau. Đặc biệt, ý nghĩa của nó đối với sự
vận dụng của Đảng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới đất
nước hiện nay biểu hiện trên các vấn đề sau:
1. Thay đổi chính sách trưng thu lương thực thừa bằng chính sách
thuế lương thực và tự do, trao đổi mua bán lương thực của nông dân
Để tháo gỡ những khó khăn kinh tế của nước Nga trước bờ vực thẳm,
Lênin xác định nhiệm vụ trước tiên là phải tập trung vào nông nghiệp - nông
dân; chọn nông nghiệp là lĩnh vực cần phải đột phá và chỉ ra hai lý do phải tập
trung đột phá vào lĩnh vực nông nghiệp: thứ nhất nếu không thể khôi phục
nông nghiệp thì sẽ không giải quyết các vấn đề khác vì chính nông nghiệp
giải quyết vấn đề đói hiện nay trong khi nước Nga có trên 80% là nông dân
sống nhờ nông nghiệp. Thứ hai, về chính trị phải nôi kéo giai cấp nông dân
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô- viết; tạo sự liên minh
vững chắc giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Lênin chỉ rõ: “ Chúng ta phải hiểu rằng, trong điều kiện cuộc
khủng hoảng của kinh tế nông dân, chúng ta không thể tồn tại được bằng cách
nào khác là dựa vào kinh tế nông dân đó để giúp đỡ thành thị và nông thôn”3.
Lênin xác định, trong nông nghiệp phải thay đổi chính sách trưng thu
lương thực thừa bằng chính sách thuế lương thực và tự do; thay đổi mua bán
lương thực của nông dân xác định đây là nội dung rất quan trọng trong
“Chính sách kinh tế mới”. Vấn đề đặt ra là tại sao phải thay đổi chính sách
này? theo Lênin, xuất từ mấy lý do sau: Một là, chính sách trưng thu lương
2
3
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr 309
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr 29
4
thực chỉ phù hợp với thời chiến nếu tiếp tục kéo dài sẽ làm nông dân bất bình
không phấn khởi sản xuất. Hai là, thay đổi chính sách là nhằm giải quyết yêu
cầu cấp bách về đời sống của toàn xã hội và khôi phục phát triển kinh tế. Ba
là, thay đổi chính sách là nhằm để lôi kéo nông dân tham gia xây dựng chủ
nghĩa xã hội và củng cố khối liên minh công nông. Về nội dung cụ thể của
chính sách thuế, lương thực là: nông dân sản xuất ra lương thực chỉ phải nộp
một khoản thuế, lương thực cho nhà nước, số còn lại do nông dân toàn quyền
sử dụng mua bán, trao đổi với nhà nước hoặc trên thị trường nhưng không
được đầu cơ tích trữ. Mức thuế được quy định với từng vùng và căn cứ vào
năng xuất chất lượng mùa màng và hoàn cảnh gia đình người nông dân. Cụ
thể đối với bần nông với mức 1,2 %; trung nông là 3,6%; phú nông là 5% sản
lượng; với nông dân nghèo được miễn thuế trong một thời gian. Sản lượng
được giao trước cho nông dân và ổn định trong một năm để đánh thuế ổn
định. Số lượng thu thuế lương thực xác định nhà nước chỉ tính nuôi đủ quân
đội,công nhân và lực lượng hành chính sự nghiệp, số này ít hơn phần trưng
thu thời chiến tranh. Mặt khác, khi thực hiện thuế lương thực, phần lương
thực còn lại dôi dư được tự do trao đổi trên thị trường. Mục đích của việc tự
do trao đổi, mua bán lương thực nhằm đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của nông
dân và toàn xã hội. Thông qua con đường trao đổi mua bán nhà nước giải
quyết được vấn đề lương thực một cách vững chắc; đồng thời thông qua trao
đổi mua bán mà làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã
hội ở thành thị và nông thôn.
Từ những vấn đề trên trong “ Chính sách kinh tế mới”, Lênin đặt ra
những vấn đề: Thứ nhất là phần lương thực dư thừa được tư do buôn bán sẽ
nảy sinh ra nhiều vấn đề, thái độ và cách giải quyết của nhà nước chuyên
chính như thế nào? câu hỏi là có cho nông dân tự do buôn bán không? nếu
cho buôn bán thì vấn đề gì đặt ra? Lênin trả lời: tự do buôn bán lương thực là
cần thiết để khuyến khích sản xuất tiểu nông làm ăn. Mặt khác là lợi ích trực
tiếp của người sản xuất, là động lực thúc đẩy họ tăng năng xuất lao động. Câu
hỏi khác: nếu cho tự do buôn bán, nhà nước chuyên chính vô sản phải làm gì?
Lênin trả lời: nhà nước chuyên chính vô sản phải chủ động trao đổi buôn bán,
mua bán với nông dân phải để nắm lương thực; và nhà nước chuyên chính vô
sản muốn trao đổi được phải có hàng hoá, do đó phải khôi phục tiểu công
5
nghiệp thủ công nghiệp; phải mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ và thực hiện
được phải phát triển thương nghiệp đây là điều kiện chủ yếu và căn bản nhất.
Lênin xác định và coi thương nghiệp là mắt xích mà nhà nước chuyên chính
vô sản phải đem toàn bộ sức lực để nắm lấy; và ngoài hàng hoá, thương
nghiệp phải có đồng tiền vững mạnh- sức mạnh ổn định, do đó phải tích luỹ
hàng hoá và tính vòng. Từ những chính sách đúng đắn trên sau một năm nhân
dân Nga đã khắc phục được nạn đói; tự nguyện thực hiện chính sách thuế của
nhà nước. Mặt khác trong vấn đề thứ hai Lênin đặt ra là: làm như vậy có tạo
điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phục hồi phát triển và có sợ vấn đề này
không? vấn đề này Lênin chỉ rõ: chúng ta không được nhắm mắt trước sự thật
là tư do buôn bán lương thực thừa, tất nhiên về sự tự do phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Ngược lại, Lênin khẳng định: không vì thế mà ta sợ và đưa ra
cách khắc phục là chủ động hướng phát triển tự do buôn bán vào trong quy
đạo phát triển của chủ nghĩa xã hội bởi lẽ, có lợi thế là nhà nước xã hội chủ
nghĩa; có nền đại công nghiệp; giao thông phát triển. Cách giải quyết vấn đề
này Lênin chỉ rõ: thứ nhất, nhà nước chuyên chính phải tìm được hình thức
trung gian quá độ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội và hướng sự
buôn bán vào trạm trung gian đó để dẫn dắt nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội;
và chạm trung gian đó chính là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thứ hai, những
người cộng sản phải tự học buôn bán một cách nghiêm túc và trở thành nhà
buôn xỉ( buôn lớn).
2. Sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước
Trong “ Chính sách kinh tế mới” Lênin tập trung làm rõ cơ sở tất yếu
khách quan phải sử dụng hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước; những đặc
trưng của chủ nghĩa tư bản nhà nước và các hình thức của chủ nghĩa tư bản
nhà nước. Về tính tất yếu phải sử dụng các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà
nước, Lênin chỉ rõ: xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nền kinh tế nhiều thành
phần tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó phải điều chỉnh
lại nhận thức về các hình thức tư bản nhà nước về con đường, hình thức,
phương pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, sử dụng các
hình thức tư bản nhà nước đây chính là biện pháp ngăn chặn các khuynh
hướng tự phát đi lên chủ nghĩa xã hội và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về
6
những đặc trưng của chủ nghĩa tư bản nhà nước là tổ chức kinh doanh tiên
tiến hơn so với sản xuất nhỏ khi sử dụng nó nhà nước phải chấp nhận sự bóc
lột và cho phép nhà nước tư bản thu một phần lợi nhuận có mức độ kiểm soát
điều tiết của nhà nước chuyên chính vô sản. Về các hình thức của chủ nghĩa
tư bản nhà nước Lênin chỉ ra gồm: hình thức tô nhượng: “Tô nhượng là hình
thức hợp đồng giữa nhà nước và một nhà tư bản trong đó nhà tư bản sẽ phải
cam kết tổ chức hoặc hoàn thiện sản xuất ( chẳng hạn như đẵn và chở gỗ, khai
thác than, dầu lửa khoáng sản, vv..trả cho nhà nước một phần sản phẩm sản
xuất ra, và nhận một phần khác dưới danh nghĩa là lãi” 4. Hình thức hợp tác xã
của những người sản xuất nhỏ: đây là hình thức trung gian quá độ giữa hình
thức sản xuất nhỏ lên hình thức nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Lênin chỉ
rõ: “ Chuyển từ chế độ hợp tác xã của những nhà sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa
xã hội là chuyển từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất, nghĩa là một bước quá độ
phức tạp hơn, nhưng nếu thành công, lại có thể bao gồm những khối quần
chúng nhân dân đông đảo hơn”5. Hình thức đại lý: chính là hình thức cho nhà
tư bản với tư cách là nhà buôn trả cho họ một phần hoa hồng để họ bán sản
phẩm cho nhà nước và mua sản phẩm của những người sản xuất nhỏ. Hình
thức cho thuê nhà cửa, cho thuê xí nghiệp, cửa hàng, đất đai nhưng nhà nước
đóng vai trò chủ cho thuê, để đề phòng trường hợp mất quyền sở hữu. Trong
bốn hình thức đó thì hình thức tô nhượng là hình thức đơn giản nhất, rành
mạch nhất, sáng tỏ nhất, có hình thù rõ rệt nhất- đương nhiên là quan trọng
nhất. Lênin chỉ rõ: “ áp dụng một cách có chừng mực và thận trọng, chính
sách tô nhượng nhất định sẽ giúp chúng ta cải thiện nhanh chóng( đến mức độ
nào đó không cao lắm) tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân và nông
dân”6. Mặt khác, Lênin khẳng định rằng: tô nhượng cũng là một hình thức đấu
tranh, là tiếp tục của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ tuyệt nhiên
không phải là sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hoà bình giai cấp. Thực tiễn sẽ
chỉ rõ phương thức đấu tranh. Hơn nữa trong lý luận bàn về chủ nghĩa tư bản
nhà nước, Lênin tập trung làm sáng tỏ một số nội dung sau:
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 299
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 299
6
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 270
4
5
7
Thứ nhất là, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một tất yếu
khách quan của sự phát triển kinh tế hàng hoá.
Lênin đi từ sự phân tích tình hình nước Nga vào cuối năm 1920 là vẫn
tồn tại 5 thành phần kinh tế đó là: “1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa
là một phần lớn có tính chất tự nhiên; 2) Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao
gồm đại đa số nông dân bán lúa mì); 3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4) Chủ
nghĩa tư bản nhà nước; 5) Chủ nghĩa xã hội”7 mà “Chính sách kinh tế mới” có
nghĩa là thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chế độ thu thuế, là
chuyển sang khôi phục chủ nghĩa tư bản ở một mức độ nhất định vì trong đó
“Nông dân chiếm tuyệt đại bộ phận trong tổng số dân cư và trong toàn bộ nền
kinh tế, vì vậy chủ nghĩa tư bản không thể không phát triển trên miếng đất tự
do mậu dịch đó”8.
Như vậy là, Lênin cũng đã thừa nhận rằng: cả về lý luận và thực tiễn việc tự
do trao đổi, buôn bán lương thực không thể tránh khỏi sự phục hồi các nhân tố của
chủ nghĩa tư bản. Nhưng Lênin chỉ rõ, chính quyền đã nằm trong tay giai cấp
công nhân, nhà nước của giai cấp vô sản nắm giữ những cơ sở kinh tế then chốt
thì các nhân tố của chủ nghĩa tư bản là không đáng sợ, Người chỉ rõ vấn đề không
phải là ngăn cấm, xoá bỏ buôn bán và trao đổi, việc ngăn cấm tự trao đổi là không
thể được: “Hoặc giả tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của
sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của
chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người
sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp
dụng nó; Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực
hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất
định sẽ bị phá sản”9.
“Chính sách kinh tế mới” chủ trương phát triển trao đổi hàng hoá dựa
trên cơ sở quan hệ hàng - tiền, cho phép “tự do buôn bán”, cho phép tư
thương tồn tại, hoạt động, mở các trung tâm thương mại, hội chợ, sử dụng tư
bản thương nghiệp dưới các hình thức đại lý... Song, Lênin cũng đã nhận ra
những mặt hạn chế, tiêu cực của quá trình này và xác định cần phải điều tiết
được xu hướng phát triển tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa. Phải phát
triển thương nghiệp quốc doanh để có đủ sức nắm khâu bán buôn, chi phối
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 248
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 200
9
V. I. Lênin, Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 267
7
8
8
khâu bán lẻ, điều tiết thị trường, phát huy vai trò của hợp tác xã (mua - bán),
tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, kiểm kê kiểm soát, thực hiện quá
trình cải tạo và sử dụng các thành phần kinh tế một cách chủ động, có kế
hoạch.
Theo Lênin, ở nước Nga lúc bấy giờ các quan hệ tiểu tư sản chiếm ưu
thế nên bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiến hành kiểm kê,
kiểm soát của toàn dân đối với việc sản xuất, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự
hiện diện của những mối quan hệ hợp đồng chặt chẽ giữa nhà nước xã hội chủ
nghĩa và nhà tư bản, giúp cho việc chuyển từ một nền sản xuất nhỏ thô sơ lên
nền sản xuất lớn.
Lênin cho rằng sự phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước là cần thiết khách
quan: “Chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ
nghĩa xã hội, bởi vậy trong một mức độ nào đó chủ nghĩa tư bản là không thể
tránh khỏi”10, do vậy phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ
nghĩa tư bản nhà nước. Người luôn trăn trở, suy nghĩ làm sao tìm ra được những
mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia
trưởng, từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, đó là sử dụng chủ nghĩa tư bản
để phục vụ chủ nghĩa xã hội thông qua các hình thức khác nhau. Lênin phê phán
quan niệm cho rằng chủ nghĩa tư bản là xấu, chủ nghĩa xã hội là tốt, những lý luận
ấy là sai vì nó không đếm xỉa tới toàn thể các kết cấu kinh tế - xã hội hiện có.
Lênin viết: chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa tư bản lại là
tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình
trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên.
Ngay từ năm 1918, Lênin đã khẳng định: “Chỉ có phát triển chủ nghĩa tư
bản nhà nước, chỉ có tổ chức một cách chu đáo việc kiểm và kiểm soát… mới
dẫn chúng ta đi tới chủ nghĩa xã hội” 11. Để phát triển sản xuất theo hướng
khôi phục và phát triển chủ nghĩa tư bản phục vụ cho nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa cần phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước bởi chủ nghĩa tư bản
nhà nước sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh hơn, là công cụ để
liên hiệp nền sản xuất lại, khắc phục tình trạng phân tán. Thông qua chủ nghĩa
tư bản nhà nước, những người lao động có thể tận dụng được vốn, kỹ thuật
của cả trong và ngoài nước; phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước còn là
10
11
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 276
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 311
9
phương pháp cải tạo giai cấp tư sản và phát triển đội ngũ công nhân, từ đó
Lênin khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là phương tiện mà
còn là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các nước tiền tư bản, của các
nước chậm phát triển; chủ nghĩa tư bản nhà nước là khâu trung gian giữa nền
sản xuất nhỏ và chủ nghĩa xã hội.
Theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một bước tiến so với tình hình
hiện nay trong nước Cộng hoà xô - viết chúng ta. Nếu chẳng hạn trong khoảng
nửa năm nữa mà ở nước ta đã thiết lập được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì đó sẽ
là thắng lợi to lớn và là điều đảm bảo chắc chắn nhất rằng một năm sau, chủ
nghĩa xã hội nước ta sẽ được củng cố và trở nên vô địch. Với cách tiếp cận như
vậy nên về mặt chính trị Lênin khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhà nước không có
gì là đáng sợ đối với chủ nghĩa xã hội mà còn là điều “đáng mong đợi”, vì nhà
nước Xô - viết là một nước mà trong đó chính quyền của công nhân và nông dân
nghèo đã được bảo đảm. Vì vậy, dù phải trả học phí cho chủ nghĩa tư bản nhà
nước thì cũng là một việc đáng giá: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước vẫn là một bước
tiến lớn… chúng ta phải trả một khoản lớn hơn hiện nay, bởi vì trả “học phí” là
một việc đáng giá, vì cái đó có ích cho công nhân, vì việc chiến thắng được tình
trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan
trọng hơn hết, vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tư hữu tiếp tục
tồn tại là một mối nguy lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt
vong (nếu chúng ta không chiến thắng nó) một cách dứt khoát, còn trả một
khoản lớn hơn cho chủ nghĩa tư bản nhà nước thì điều ấy không những không
làm cho chúng ta bị diệt vong, trái lại, nó sẽ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội
bằng con đường chắc chắn nhất”12.
Thứ hai là, bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lênin cho
rằng:bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chuyên chính
vô sản, đó là một thứ chủ nghĩa tư bản đặc biệt, là một thứ chủ nghĩa tư bản
mà do giai cấp vô sản tự giác cho phép tồn tại: “Không đại diện cho giai
cấp tư sản mà đại diện cho giai cấp vô sản” 13, do nhà nước vô sản nắm giữ
và điều tiết.
Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản nhà nước là phương thức kinh doanh tiên
tiến so với tiểu tư hữu, chấp nhận nó là chấp nhận sự bóc lột ở một mức độ
12
13
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 251, 252
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 344
10
nào đó. Toàn bộ sự hoạt động và phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước đặt
dưới sự kiểm soát, điều tiết của nhà nước chuyên chính vô sản. Vậy đó là một
hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước tự giác cho tồn tại trong sự kiểm soát,
nếu chủ nghĩa tư bản nhà nước phát triển mà nhà nước chuyên chính vô sản
lại yếu thì nó sẽ tự phát chệch hướng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Do
vậy, hơn bao giờ hết phải nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của mỗi
nước và Lênin là một tấm gương mẫu mực về sự vận dụng, bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử nước Nga lúc đó. Như vậy là bên
cạnh việc thừa nhận chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần kinh tế,
Lênin còn coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là con đường, là cách thức để tiến
tới chủ nghĩa xã hội. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó khẳng định
rằng con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là con đường thích hợp đối
với các nước không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba là, từ những quan niệm trên về chủ nghĩa tư bản nhà nước,
Lênin chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bằng việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Theo Lênin, khi chúng ta
thừa nhận trao đổi là thừa nhận kinh tế hàng hoá, kinh tế hàng hoá tất yếu
được vận động theo cơ chế thị trường và các quy luật của kinh tế hàng hoá.
Đối tượng sản xuất hàng hoá là trung nông, nên tính tự phát tư bản chủ nghĩa
cao, để ngăn cản bớt tình trạng tự phát này và vẫn bảo đảm xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản chúng ta phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước. Lênin cho rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến so với tiểu
tư hữu vì chủ nghĩa tư bản nhà nước là mắt xích trung gian giữa tiểu sản xuất
hàng hoá nhỏ và xã hội chủ nghĩa.
Từ nhận định trên Người đi đến khẳng định, những nơi nào có thành
phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, tự do buôn bán hoạt động thì ở đó có chủ nghĩa
tư bản nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhất thiết phải sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để cải tạo kinh tế tư bản tư nhân, tiêu diệt
giai cấp tư sản và sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản. Mặt khác Lênin chỉ rõ:
“Hướng sự phát triển không thể tránh được (đến một trình độ nào đó và
trong một thời gian nào đó) của chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa
tư bản nhà nước; là đặt ra những điều kiện cần thiết cho công việc ấy và
11
bảo đảm sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản nhà nước sang chủ nghĩa xã
hội trong một tương lai gần” 14.
Thứ tư là, Lênin chỉ ra nội dung và các hình thức của chủ nghĩa tư bản
nhà nước.Về nội dung của chủ nghĩa tư bản nhà nước là: sản phẩm tất yếu của
các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nội dung của nó bao gồm có sự kiểm
kê, kiểm soát của nhà nước; các hình thức kinh tế quá độ dựa trên hình thức
sở hữu hỗn hợp về vốn giữa nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và
ngoài nước.Về hình thức gồm có các hình thức cơ bản sau: tô nhượng; hợp
tác xã của người sản xuất nhỏ; đại lý gia công; nhà nước cho nhà tư bản thuê xí
nghiệp, đất đai, hầm mỏ…Trong bốn hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước
thì hình thức tô nhượng là chủ yếu. Xét về phương diện kết cấu kinh tế - xã hội
thì tô nhượng là: “Một giao kèo, một sự liên kết, một liên minh giữa chính
quyền nhà nước Xô - viết, nghĩa là nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản nhà
nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu” 15. Người nhận tô nhượng là nhà tư
bản, trong hợp đồng họ được sử dụng một số tư liệu sản xuất của nhà nước như:
nguyên vật liệu, hầm mỏ, đất đai, xí nghiệp… để tổ chức sản xuất và kinh doanh
thu lợi nhuận rồi nộp cho nhà nước xã hội chủ nghĩa một phần sản phẩm tô
nhượng. Những vấn đề này, chúng ta nắm được rõ nhất và có thể định hướng
được sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước vì ta có hợp đồng trực tiếp,
biết được cái lợi và cái hại, biết thời hạn chuộc lại.
Hình thức thứ hai là hợp tác xã, Lênin khẳng định: “Các hợp tác xã cũng là
một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù
ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn”16, theo Lênin các hợp tác xã của những người sản
xuất hàng hoá nhỏ tất yếu sẽ sản sinh ra những quan hệ tư bản, được dựa trên cơ
sở tiểu công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công và khi thành công sẽ có vai trò
“Giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế
nhỏ quá độ - trong một thời hạn nhất định - lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự
nguyện kết hợp”17.
Lênin đã so sánh hình thức tô nhượng với hợp tác xã: “Tô nhượng dựa trên cơ
sở đại công nghiệp cơ khí hoá; chế độ hợp tác thì dựa trên cơ sở tiểu công nghiệp,
trên nền sản xuất thủ công mà một bộ phận thậm chí còn có tính chất gia trưởng…:
chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978 , tr 268
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978 , tr 269
16
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 271
17
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 273
14
15
12
xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác. Chuyển từ chế độ hợp tác xã của
những nhà sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ tiểu sản xuất sang đại sản
xuất, nghĩa là một bước quá độ phức tạp hơn, nhưng nếu thành công, lại có
thể bao gồm được những khối quần chúng nhân dân đông đảo hơn, nhổ được
những gốc rễ sâu xa hơn và dai dẳng hơn của những quan hệ cũ tiền xã hội
chủ nghĩa, thậm chí tiền tư bản, là những quan hệ phản kháng mọi sự “đổi
mới” một cách kịch liệt hơn”18.
Phát triển hình thức tô nhượng sẽ có lợi như thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển hoặc sản lượng tăng ngay hoặc trong một thời gian ngắn.
Lênin viết: “Áp dụng một cách có chừng mực và thận trọng, chính sách tô
nhượng nhất định sẽ giúp chúng ta cải thiện được nhanh chóng tình trạng
sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân” 19. Lênin còn chỉ ra là cần
thiết phải thực hiện phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ trong
công nghiệp mà cả trong nông nghiệp, tập trung củng cố một số cơ sở
then chốt, số còn lại cho tư bản nước ngoài thuê dưới hình thức tô
nhượng.
Khi nghiên cứu, đề cập đến chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lênin cũng đã chỉ
ra những bất lợi khi sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, đó là: chúng ta chấp
nhận để cho giai cấp tư sản bóc lột một phần, giai cấp tư sản lấy đi một phần tài
nguyên. Trong quá trình sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, nếu chúng ta
không có một đội ngũ cán bộ trung thành, có phẩm chất và năng lực tốt thì
chúng ta sẽ mất đi cán bộ, trong các hợp đồng ký kết dễ bị mất mát, gây thiệt
hại cho đất nước… Song, những bất lợi đó nếu chúng ta biết nhận thức đúng,
có hướng phát triển phù hợp thì sẽ khắc phục được và không làm suy yếu đi
bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản. Cái khó khăn nhất ở đây là phải
suy nghĩ kỹ, cân nhắc hết mọi điều khi ký kết hợp đồng, sau đó phải theo dõi,
kiểm tra việc chấp hành những hợp đồng đó. Sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước chỉ có lợi khi mà giai cấp vô sản nắm vững được chính quyền và nắm
vững những vị trí kinh tế then chốt (giữ vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa)
“Mức độ và những điều kiện trong đó tô nhượng sẽ có lợi và không nguy hại
cho chúng ta, là tuỳ thuộc vào sự so sánh lực lượng; chính cuộc đấu tranh sẽ
18
19
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 272, 273
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 270
13
quyết định điều đó, vì tô nhượng cũng là một hình thức đấu tranh, là sự tiếp tục
của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ tuyệt nhiên không phải là
sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hoà bình giai cấp” 20.Trong tác phẩm, Lênin
chú trọng một vấn đề : “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật
chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội” 21 nó
là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội.
Về giải quyết vấn đề cấp bách trong lưu thông, phân phối. Lênin chỉ ra vì sao
phải giải quyết vấn đề lưu thông, phân phối bởi lẽ: Thứ nhất, nhằm đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi từ phân phối bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Thứ hai, nhằm đáp ứng
mực đích của chính sách kinh tế mới là thiết lập liên minh kinh tế giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân. Về biện pháp để giải quyết vấn đề lưu thông,
phân phối. Lênin chỉ ra các biện pháp cơ bản như: mở rộng giao lưu hàng hoá; tổ
chức lại hệ thống ngân hàng, phát hành đồng rúp và phát hành công trái; sử dụng tín
dụng thương mại.
Như vậy, thực chất “ Chính sách kinh tế mới” của Lênin: về mặt chính trị là
củng cố được khối liên minh công nông vững chắc- đây là nguyên tắc tối cao của
chuyên chính vô sản. Lênin cho rằng: “ Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế
mới là xây dựng khối liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân, coi
đó là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản, là cơ sở của Chính quyền xôviết, là điều kiện quan trọng nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi” 22. Mặt
khác thực chất của chính sách kinh tế mới là sự tiếp lối của cuộc đấu tranh giai cấp
nhằm giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa. Về mặt kinh tế để sử dụng các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường nhằm
phát triển nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa dưới sự điều tiết của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Sử dụng hình thức trung gian quá độ để cải tạo xã hội chủ nghĩa và
phát triển lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa. Xây dựng cơ chế quản lý kinh tế và
hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế. Đồng thời giải quyết đúng đắn các lợi ích kinh tế
giữa nhà nước tập thể và người lao động theo sự tiến bộ và công bằng xã hội.
III. Ý nghĩa lịch sử và hiện thực “Chính sách kinh tế mới” của Lênin
Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin ra đời như một tất yếu khách quan,
có ý nghĩa lớn lao, mang tính nguyên tắc đối với toàn bộ lý luận và thực tiễn của
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 270.
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr 256
22
V. I. Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ M, 1978, Lời tựa tr3
20
21
14
chủ nghĩa Mác - vấn đề khả năng và sự cần thiết của bước quá độ gián tiếp lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất hàng hoá nhỏ. Chính sách
kinh tế mới của Lênin ra đời không những có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô- viết mà còn là một giải pháp
đúng đắn quan trọng, mang tính chiến lược để mở ra con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là chìa khoá để phát triển nông nghiệp nói riêng và thúc đẩy sản
xuất nói chung, là điều kiện để phát triển và trao đổi hàng hoá, phát triển kinh
tế hàng hoá và phát triển các ngành khác như công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp… Mặt khác,“Chính sách kinh tế mới” ra đời nó còn mang ý nghĩa chính
trị to lớn nhằm củng cố liên minh công - nông trên cơ sở kinh tế, khôi phục
lòng tin của quần chúng nhân dân lao động đối với Đảng Bôn sê vích và
Chính quyền xô - viết non trẻ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội .
“Chính sách kinh tế mới” ra đời đã đóng góp quan trọng trong việc vạch ra kế
hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong việc luận chứng tính tất yếu phải chuyển
sang chính sách kinh tế mới ở nước Nga; trong điều kiện lịch sử nước Nga hết sức
khó khăn, phức tạp đứng bên bờ vực thẳm, khủng hoảng về kinh tế- xã hội; đặc biệt
về chính trị. Do vậy, ý nghĩa của nó lại càng có giá trị luận chiến sâu sắc, chĩa mũi
nhọn vào bọn Men- sê- vích và bọn cơ hội xét lại, đập tan mọi âm mưu và hành
động chống phá của chúng. Đồng thời thông qua tác phẩm đã củng cố niềm tin của
nhân dân Nga vào chế độ; tăng cường khả năng cách mạng của liên minh công nông, vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn sê vích
Nga. Những luận điểm được Lênin trình bày trong tác phẩm là những vấn đề
mang tính quy luật của toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nó có
giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với các Đảng Cộng sản nói chung, Đảng
ta nói riêng trong việc vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
mỗi nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội . Điều đó nó có ý nghĩa to lớn đối
với các nước có nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cũng như phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội nước
ta. Đối với nước Nga xô- viết “Chính sách kinh tế mới” là lối thoát để ra
khỏi tình trạng khủng hoảng, đã giúp nước Nga vượt qua thời kỳ khó khăn
nhất, đưa nền kinh tế phát triển. Những vấn đề căn bản về kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội đã được giải quyết; đời sống của quần chúng nhân dân lao
động và giai cấp công nhân được cải thiện; liên minh công - nông ngày càng
15
được củng cố vững chắc; nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
chế độ xã hội chủ nghĩa; từng bước làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước hòng tiêu diệt
nước Nga xô- viết non trẻ. Những tư tưởng kinh tế trong chính sách kinh tế
mới còn có ý nghĩa to lớn trong việc bổ sung và phát triển lý luận kinh tế
chính trị Mác- Lênin; là cơ sở lý luận quan trọng để đổi mới tư duy và cách
thức xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất là đối với những nước đi lên chủ nghĩa
xã hội mà đa số quần chúng là tiểu nông thì phải áp dụng rộng rãi các hình
thức, biện pháp quá độ trung gian để đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn
đúng và hợp quy luật khách quan.
Một lần nữa có thể khẳng định rằng “Chính sách kinh tế mới” có tầm
quan trọng đặc biệt và ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga, bởi nó không những cứu nước Nga thoát khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - chính trị - xã hội mà còn mở ra khả năng hiện thực cho nước Nga
trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội gặt hái được những thành công rực
rỡ.
Chính sách kinh tế mới của Lênin là một mẫu hình mới cho sự kết hợp
những qui luật chung với những đặc điểm lịch sử cụ thể, đó là một kiểu mẫu
của sự sáng tạo mang tính khoa học và cách mạng của sự vận dụng sáng tạo
học thuyết Mác trong điều kiện mới. Nghiên cứu “Chính sách kinh tế mới”
của Lênin giúp chúng ta thấy những tư tưởng cách mạng, khoa học được
Lênin trình bày cụ thể trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Do vậy khi đánh giá về ý nghĩa đương đại của “Chính sách kinh
tế mới”, giáo sư Trần Ngọc Hiên viết: “Trong lịch sử ra đời và phát triển chủ
nghĩa xã hội thế giới, “Chính sách kinh tế mới” của Lênin, xuất hiện vào
những năm đầu tiên, ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ đó,
mỗi khi quá trình cách mạng gặp khó khăn, hay khi một nước vừa giành được
chính quyền, bước vào chặng đường đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì những người cách mạng lại nhớ tới “Chính sách kinh tế mới” của
Lênin”23.
Đối với Việt Nam, những tư tưởng kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được Lênin thể hiện trong chính sách kinh tế mới luôn là cơ sở lý
23
Trần Ngọc Hiên: Chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng vào điều kiện nước ta, Nxb Sự thật, H, 1989, tr
91
16
luận và thực tiễn để Đảng ta đổi mới trong nhân thức, trong hoạch định đường
lối, chủ trương chính sách đổi mới kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời là cơ sở phương pháp luận và kinh nghiệm để Đảng ta giải quyết các
nhiệm vụ cơ bản trước mắt và lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và các
vấn đề kinh tế- xã hội cấp bách trước mắt. Hơn nữa là cơ sở để Đảng ta giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, giữa khôi phục
và phát triển kinh tế với xây dựng nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Mặt khác, nó còn là cơ sở khoa học để Đảng ta dứt khoát tư bỏ
cơ chế quản lý cũ tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế quản lý
mới, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn chứng minh sự
vận dụng sáng tạo của Đảng ta được thể hiện rõ nét nhất trong hơn hai mươi
năm đổi mới vừa qua, đó là những tư tưởng về xây dựng và phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tư tưởng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, về
sử dụng và phát triển kinh tế tư bản nhà nước…
Đảng ta đã nhấn mạnh: “Phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lênin
về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình
thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc” 24. Có thể khái
quát ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm đối với sự nghiệp cách mạng nước ta
được thể hiện trên những nét cơ bản sau:
Một là, vận dụng những tư tưởng kinh tế của Lênin, Đảng ta đã thực hiện nhất
quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Đảng ta nhận thức rõ ràng rằng: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”25, nói cách
khác chúng ta phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là tất yếu
khách quan, thừa nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Tại Hội nghị
lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta khẳng định rằng:
trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế tư bản nhà nước là thành
phần kinh tế được khuyến khích phát triển, bởi chúng ta không có điều kiện
24
25
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H 1996, tr 67
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr 69
17
để quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, mà chỉ có khả năng thực hiện bước
quá độ gián tiếp. Với chủ trương phát triển kinh tế thị trường cho phép tự do
buôn bán, trao đổi hàng hoá, thu hút đầu tư nước ngoài dưới các hình thức
liên doanh, liên kết, phát triển kinh tế tư nhân. Hơn thế, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay thì vấn đề sở hữu là cần được giải quyết khoa
học. Trước đổi mới, chúng ta nôn nóng xoá bỏ ngay chế độ tư hữu nhằm thiết
lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nên đã kìm hãm các nguồn lực cho sự
phát triển, nói cách khác chúng ta đã không vận dụng đúng tư tưởng của Lênin
về bước quá độ, về sự phát triển rút ngắn trong đó việc sử dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước là rất cần thiết bởi với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin thì chủ nghĩa xã hội trước hết và cơ bản là xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất với tư cách là cơ sở của sự bóc lột, thống trị, tuy nhiên các
ông cũng cho rằng, những hình thức sở hữu khác, nếu phải thực hiện trong
những bước đi ban đầu lên chủ nghĩa xã hội, có thể là những hình thức của sự
trung gian quá độ khi chúng không mâu thuẫn với việc nhà nước nắm các tư
liệu sản xuất chủ yếu. Ngày nay chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng nhiều loại hình sở hữu với vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước, coi trọng thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản
nhà nước… đó là những biểu hiện của đường lối phát triển rút ngắn để đi lên chủ
nghĩa xã hội bởi nó cần thiết để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, khai thác
các nguồn lực cho sự phát triển, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
của một nước không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Tại Đại hội X của
Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường, thể hiện thứ nhất: Về vấn đề
sở hữu: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, dựa trên nhiều hình
thức sở hữu nhằm giải phóng mọi tiềm năng phát triển trong mỗi thành phần
kinh tế, trong mỗi cá nhân, vùng miền… phát huy tối đa nội lực, tạo ra sự
phát triển nhanh của nền kinh tế. Thứ hai:Về vấn đề quản lý, trong nền kinh
tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là
công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát
triển vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Để đảm nhiệm được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được
những vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ, hiệu
18
quả sản xuất kinh doanh, chứ không phải hay độc quyền kinh doanh. Đổi mới
doanh nghiệp nhà nước theo hướng đẩy mạnh cổ phần hoá là con đường chủ
yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, để kinh tế
nhà nước có thể đảm đương tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế. Phát huy vai
trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, người công nhân là
người làm thuê cho chủ tư bản, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta xác định vai trò làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của nhân dân.
Vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa, là
sự khác nhau cơ bản giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế
thị trường ở nước ta. Sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước xã hội chủ
nghĩa bằng pháp luật bảo đảm mục đích của nền kinh tế, sự vận động của chế độ
sở hữu và phân phối theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lợi chính
đáng của mỗi người, trong đó quan tâm đến lợi ích thiết thực của người lao
động.
Hai là, vận dụng những tư tưởng kinh tế của Lênin trong tác phẩm, hiện
nay Đảng ta coi trọng việc giải quyết vấn đề nông nghiệp - nông thôn và nông
dân, coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”, “công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ kinh tế cơ bản”; chú trọng giải quyết các
vấn đề liên quan mật thiết đến đời sống nông dân. Theo Lênin: “Muốn cải
thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mì và nhiên liệu… chúng ta chỉ
có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mì, tăng thêm dự trữ và vận tải
nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống của nông dân, bằng cách nâng cao lực
lượng sản xuất của họ. Phải bắt đầu từ nông dân. Người nào không hiểu điều
đó, người nào có ý coi cái thời kỳ chiếu cố nông dân như thế là “từ bỏ” hoặc
tương tự như từ bỏ chuyên chính vô sản, thì người đó chưa nghiên cứu vấn đề
và bị lời nói trống rỗng chi phối”26. Như vậy, nước Nga đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một nước tiền tư bản, nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu thì việc phát triển
nông nghiệp là tất yếu khách quan; Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, với xuất phát điểm là từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, nền nông nghiệp lạc hậu… Song, lúc đầu Đảng ta xác định: ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng cho đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế
26
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 43, Sđd, tr 262, 263.
19
đứng trước những khó khăn, thử thách lớn: “Hiện nay, tình hình kinh tế và xã
hội nước ta đang có những vấn đề gay gắt: đời sống nhân dân, nhất là đời sống
công nhân, viên chức có nhiều khó khăn…”27, trước tình hình đó Đảng ta đã
xác định nguyên nhân của vấn đề trên là: “Chúng ta chưa xác định được rõ
ràng chiến lược của chặng đường đầu tiên trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa… Chúng ta chưa vận dụng đường lối chung và đường lối kinh tế
sát với tình hình cụ thể của nước nhà vừa thống nhất sau hơn 30 năm bị chiến
tranh tàn phá, nhằm giải quyết những yêu cầu cấp thiết nhất về kinh tế và xã
hội, phù hợp với khả năng hiện thực và tiềm tàng của đất nước”28. Tuy nhiên,
Đại hội cũng đã xác định được: “Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu… kết hợp nông nghiệp, công nghiệp
hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp
lý”. Đảng ta cũng đã nhận thức đúng rằng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, có
phát triển nông nghiệp thì chúng ta mới phát triển được công nghiệp nói riêng
và nền kinh tế đất nước nói chung. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chúng ta phải phát
triển nông nghiệp và công nghiệp, vì nông nghiệp và công nghiệp là hai chân
của nền kinh tế, có phát triển nông nghiệp và công nghiệp thì nền kinh tế mới
phát triển nếu nhấn mạnh một trong hai đều đi đến suy thoái nền kinh tế.
Thực tiễn tại Đại hội VI Đảng ta đã chỉ ra tính tất yếu của việc quyết định
vị trí hàng đầu của nông nghiệp. Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục sự nghiệp đổi
mới của Đảng một cách toàn diện và xác định rõ: nông - lâm - ngư nghiệp gắn
với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng
nông thôn mới, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng kinh tế hàng
hoá; Đại hội VIII của Đảng xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn… Đây là sự phát triển tư duy quan trọng của Đảng về vai
trò của nông nghiệp đối với sự phát triển của đất nước: “Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển công
nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”29. Đại hội X của Đảng
xác định: “ Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
27
28
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Tập II, Nxb Sự thật, H, 1982, tr 16
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Tập II, Nxb Sự thật, H, 1982, tr16
Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương: Tài liệu hỏi - đáp về các nghị quyết Hội nghị lần thứ V, BCHTW
Đảng Khoá IX, Nxb CTQG, H, 2002, tr 37.
29
20
thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông
nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh cao”30.
Như vậy, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bắt đầu từ
nông nghiệp, thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, xây dựng và phát triển
kinh tế nông thôn mới. Từ Nghị quyết 100 đến Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về
việc giao đất, giao rừng lâu dài cho hộ nông dân sử dụng để cho họ yên tâm sản
xuất. Sau một thời gian thực hiện, nước ta từ một nước thiếu đói, không đủ gạo ăn
đến chỗ đủ ăn và đến nay đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới…
Đảng đã đề ra chính sách thuế hợp lý, phù hợp với từng loại đất, với từng vùng,
từng khu vực; các khoản thu thuế không cần thiết hoặc bất hợp lý được sửa đổi
hoặc bãi bỏ. Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và chính sách
thuế nhằm khuyến khích nông nghiệp phát triển. Đẩy mạnh sự phân công lao động
xã hội, phân bổ lại dân cư, mở rộng và phát triển các ngành nghề tạo nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.
Ba là, Lênin cho rằng sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là cần thiết trong
một giai đoạn nhất định, và việc sử dụng nó bên cạnh mặt tích cực là phòng chờ,
chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đi vào chủ nghĩa xã hội thì cũng có những
hạn chế, tiêu cực. Lênin thừa nhận rằng việc thực hiện chế độ tô nhương sẽ có thể
gây ra những “nguy cơ mới”, “phải trả cho giai cấp tư sản thế giới một cống
vật”… bởi đó là một hình thái chiến tranh mới - chiến tranh kinh tế, do vậy khi
chúng ta thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước thì chúng
ta cần phải sử dụng tất cả các biện pháp, từ vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
nhà nước, phát huy vai trò quản lý, giám sát, định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà
nước đến việc đề ra hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, các chính sách phát
triển nó trong giai đoạn hiện nay. Đảng ta xác định: “Tạo điều kiện kinh tế và
pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư, làm ăn lâu
dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các
thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước, áp dụng phổ biến các hình
thức kinh tế tư bản nhà nước” 31.Như chúng ta đã biết, Hợp tác xã là một trong
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr 190,
191
31
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb, CTQG, H, 1996, tr
92
30
21
những hình thức của kinh tế tư bản nhà nước, Đảng ta xác định lấy kinh tế nhà
nước làm chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân, mà hợp tác xã là nòng cốt của kinh tế tập thể. Do vậy, Đảng
chủ trương phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp
đến cao, được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Luật
Hợp tác xã được ban hành tháng 5/1996 đã tạo điều kiện cho các hợp tác xã
kiểu mới ở mọi lĩnh vực kinh tế phát triển và thực sự trở thành tế bào của nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Tháng 12/1987, Luật đầu tư
nước ngoài được ban hành, cho đến nay đã phát huy tác dụng và tạo điều kiện cho
các cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài hợp tác đầu tư, liên doanh với chính phủ, tạo
điều kiện thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, giải quyết việc làm, khai
thác mọi nguồn lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Với sự hoạt động của
các khu chế xuất, khu công nghiệp, các công ty liên doanh… là tiền đề quan trọng
để chúng ta đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn. Tuy nhiên chúng ta
cũng nhận thức rằng phải chấp nhận những khoản học phí như: có sự bóc lột của tư
bản nước ngoài đối với lao động trong nước, phải gánh những hậu quả về ô nhiễm
môi trường sinh thái…vv,.. Vì vậy, để hạn chế những tiêu cực đó thì hơn lúc nào hết
vai trò quản lý, kiểm soát của nhà nước phải được phát huy đúng mức. Để sự phát
triển các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay đòi hỏi
phải có thực lực kinh tế của nhà nước, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… tức là phải hướng nó đi đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đạt được cả mục tiêu tăng trưởng kinh tế và
mục tiêu an sinh xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
……………………
1. Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương: Tài liệu hỏi - đáp về các Nghị
quyết Hội nghị lần thứ V, BCHTW Đảng Khoá IX, Nxb CTQG, H, 2002.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
V, Tập II, Nxb Sự thật, H, 1982.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb, CTQG, H, 1996
22
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, H, 2006.
5. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ M, 1978
6. V. I. Lênin, Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, M, 1978.
7. V. I. Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ M, 1978.
8. V. I. Lênin: Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ M, 1978.
9. Trần Ngọc Hiên: Chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng vào
điều kiện nước ta, Nxb Sự thật, H.1989.