Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

SKKN Nâng cao hiệu quả dạy và học môn Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm bằng các thủ thuật và phương pháp dạy học mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 34 trang )

MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Trang
I. Phần mở đầu
2
II. Phần nội dung
5
1. Cơ sở lý luận
5
2. Thực trạng
5
3. Giải pháp – Biện pháp
9
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn
20
đề nghiên cứu
5. Thiết kế một giáo án dạy kỹ năng trong chương trình Tiếng
20
Anh 6 thí điểm
III. Phần kết luận – Kiến nghị
31


1
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

Nội dung

1
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình Tiếng Anh mới theo đề án 2020 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo bậc THCS hiện tại mới chỉ được thí điểm ở các thành phố lớn và một số địa
phương nhất định. Chương trình sách Tiếng Anh thí điểm mới được xuất bản và
đưa vào giảng dạy thí điểm đã mang lại sự thay đổi hoàn toàn trong việc dạy và
học bộ môn Tiếng Anh trong cả nước nói chung và ở cấp THCS nói riêng. Nét
đổi mới nổi bật của nội dung chương trình này là tạo cơ hội tối đa cho học sinh
luyện tập 4 kĩ năng nghe, nói, đọc và viết trên những chủ đề và tình huống hay
nội dung giao tiếp có liên quan đến môi trường sống trong và ngoài nước.
Hơn nữa, sách giáo khoa cũ hiện nay không còn phù hợp vì nhiều bài học,
thông tin cũng như số liệu có trong bài học so với tình hình thực tế hiện nay là
quá lỗi thời, không khuyến khích khả năng sáng tạo cũng như khả năng vận
dụng vào thực tế của học sinh. Không ai có thể phủ nhận được rằng việc dạy và
học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng
nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện được năng lực giao tiếp cần có môi trường
với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Những tình huống giao tiếp này
chủ yếu do giáo viên tạo ra thông qua nội dung của các tiết học, nếu nội dung
không phù hợp thì tình huống giao tiếp mà giáo viên đưa ra chắc chắn sẽ không
thu hút được các em học sinh, từ đó nảy sinh thái độ đối phó hoặc không hào

hứng trong việc thực hành giao tiếp của các em. Sách giáo khoa thí điểm đã giải
quyết được vấn đề đó. Sách được biên tập rất lôgic, các phần kết nối với nhau
rất chặt chẽ và khoa học.
Tuy nhiên, qua thực tế ở các trường THCS trong huyện Krông Ana nói
chung và trường THCS Buôn Trấp nói riêng, khi bắt đầu dạy và học môn Tiếng
Anh theo sách thí điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, không chỉ có học sinh mà
phần lớn giáo viên đều gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với giáo trình mới
này. Bản thân học sinh mặc dù đã học chương trình mới này ở cấp Tiểu học
nhưng đa số lại không đáp ứng được về mặt kiến thức cũng như các kỹ năng
Nghe, Nói, Đọc, Viết chưa đạt được yêu cầu cơ bản, thậm chí có rất nhiều học
sinh còn không nói được những câu Tiếng Anh đơn giản nhất.
Bên cạnh đó, bản thân nhiều giáo viên sau khi nghiên cứu Sách giáo khoa
mới còn chưa hiểu được mục đích, ý đồ của người viết sách; đó là chưa kể đến
một số giáo viên không đủ năng lực để giảng dạy theo chương trình mới này.
Trước tình hình đó, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh theo
chương trình mới, bản thân tôi đã băn khoăn, trăn trở rất nhiều làm sao để tự
học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như tìm ra những
2
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

2
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


phương pháp dạy học phù hợp để học sinh có thể nắm vững được lượng kiến
thức khổng lồ mà vẫn tự tin, thoải mái trong giao tiếp bằng Tiếng Anh. Để tháo
gỡ những khó khăn trên, trong quá trình vừa dạy học, vừa nghiên cứu tài liệu và
tìm hiểu quan sát học sinh, tôi phát hiện ra rằng muốn để học sinh nắm vững
được bài học thì bản thân giáo viên cần thiết kế bài học sao cho thật phù hợp với

đối tượng học sinh của mình, và quan trọng hơn cả đó là sử dụng thành thạo các
phương tiện dạy học cũng như vận dụng linh hoạt các thủ thuật cũng tìm ra các
phương pháp dạy học mới lồng ghép vào từng tiết học. Trong quá trình dạy môn
Tiếng Anh theo chương trình thí điểm, tôi đã nghiên cứu kỹ sách giáo khoa thí
điểm, sách giáo viên và nhiều tài liệu liên quan, thảo luận với những đồng
nghiệp giàu kinh nghiệm cùng dạy chương trình này trong các cuộc họp chuyên
môn, các buổi tập huấn cũng như dự giờ tư vấn góp ý để tìm ra hướng khắc phục
khó khăn, nhằm giúp giáo viên tự tin hơn trong việc truyền tải kiến thức cũng
như vì mục đích cuối cùng đó là giúp các em học tốt hơn, không cảm thấy
choáng ngợp với lượng kiến thức khổng lồ trong từng bài học. Trên cơ sở đúc
kết kinh nghiệm của bản thân và các kiến thức có được qua tài liệu tham khảo,
tôi viết đề tài nhỏ này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ
môn, đổi mới phương pháp dạy và học. Với phạm vi sáng kiến nhỏ này tôi mạnh
dạn đi sâu vào một vấn đề khá rộng đó là: “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn
Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm bằng các thủ thuật và phương pháp
dạy học mới”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu:
Với việc nghiên cứu thành công của đề tài, sáng kiến kinh nghiệm giúp
giáo viên có được những kinh nghiệm sau:
 Cách thức tổ chức một tiết dạy theo chương trình thí điểm có hiệu quả.
 Giáo viên hoàn thành chương trình theo đúng phân phối chương trình của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
 Giúp học sinh đạt được những yêu cầu bắt buộc của môn học, tự tin, mạnh dạn
khi giao tiếp bằng Tiếng Anh, vận dụng linh hoạt những kiến thức đã được học
vào cuộc sống.
b. Nhiệm vụ:
Bằng kinh nghiệm dạy học rút ra từ bản thân, tôi hệ thống lại một số các
thủ thuật và phương pháp dạy học mới theo chương trình Tiếng Anh 6 theo
chương trình thí điểm. Bằng cách này, giáo viên có thể truyền tải được hầu như

toàn bộ lượng kiến thức có trong một đơn vị bài học cho học sinh. Hạn chế được
khó khăn trong việc soạn giảng. Và bản thân các em học sinh có thể dễ dàng lĩnh
hội và vận dụng kiến thức mà giáo viên truyền tải, đồng thời phát huy một cách
3
3
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

Giáo viên: Phạm Thị Thúy


tích cực, chủ động, sáng tạo trong các tiết học, không cảm thấy nặng nề, quá tải.
Tôi đã nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các công việc cụ thể đã được thực hiện
hiệu quả minh chứng trong mỗi tiết dạy của mình.
3. Đối tượng nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu là một số phương pháp và thủ thuật dạy học đối
với từng kĩ năng trong giáo trình thí điểm. Phương pháp lồng ghép những trò
chơi vui nhộn vào từng tiết học, tạo môi trường thực hành sôi nổi và không nặng
nề cho học sinh. Ngoài ra có những thủ thuật dạy từ vựng, dạy kĩ năng Nghe,
Nói, Đọc, Viết, và phần ngữ pháp...
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu học sinh lớp 6A4, và 6A5- học
sinh lớp 6 theo chương trình thí điểm trường THCS Buôn Trấp mà tôi đang trực
tiếp giảng dạy trong năm học 2016 – 2017
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát: Người thực hiện đề tài tự tìm tòi nghiên cứu, tiến
hành dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp.
Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, đồng
nghiệp dự giờ người thực hiện đề tài, đồng nghiệp và người thực hiện đề tài tiến
hành trao đổi, thảo luận để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho tiết dạy.

Phương pháp thực nghiệm: Giáo viên tiến hành dạy thể nghiệm theo
từng mục đích yêu cầu cụ thể một số tiết dạy.
Phương pháp điều tra: Giáo viên đặt câu hỏi để kiểm tra đánh giá việc
nắm nội dung bài học của học sinh.

4
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

4
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Khi thực dạy môn Tiếng Anh theo chương trình thí điểm mới ở trường
THCS Buôn Trấp, tôi luôn quan tâm đến việc tăng cường phát triển kĩ năng
Nghe, Nói cho học sinh, làm tiền đề cho các em rèn luyện kĩ năng Đọc và Viết
nhờ đó mà các em mới đam mê và thích thú môn Tiếng Anh hơn. Ngoài ra, tôi
còn giúp các em hiểu rằng vì sao Bộ Giáo dục và Đào tạo lại thực hiện chương
trình thí điểm này. Lý do chính là vì so với thế giới, thì người Việt Nam không
hề thua kém ở bất kỳ lĩnh vực nào: Toán học, Công nghệ thông tin, Vật lý, Hóa
học....; tuy nhiên, riêng đối với việc giao tiếp bằng ngôn ngữ quốc tế thì Việt
Nam hoàn toàn tụt hậu so với các quốc gia khác trên thế giới, thậm chí còn thua
cả những nước kém phát triển hơn chúng ta về mọi mặt. Do đó, việc thay đổi
phương pháp giảng dạy cũng như chương trình học cho học sinh là điều tất yếu.
Các em được tiếp cận với chương trình này là điều vô cùng may mắn nhưng
cũng là một thách thức không hề nhỏ cho bản thân người học và cả người dạy.
Bởi vì rất nhiều lý do như xuất phát điểm của các em học sinh còn thấp, mà
chương trình thí điểm lại yêu cầu tương đối cao, do đó muốn học được chương

trình này có hiệu quả thì các em phải xác định rõ ràng mục tiêu học tập, chuyên
cần cũng như tích cực trong các hoạt động mà giáo viên đề ra trong mỗi tiết học.
Bản thân người dạy cũng cần tìm nhiều cách để tổ chức các hoạt động phù hợp
và sinh động nhằm lôi cuốn các em tham gia tích cực vào những hoạt động do
mình đặt ra.
2. Thực trạng
Với giáo trình mới đang được các trường THCS thí điểm giảng dạy, hầu
hết giáo viên đều bỡ ngỡ và lúng túng trong việc giảng dạy, chưa tìm ra được
cách soạn giảng phù hợp giúp học sinh tiếp cận với bài học một cách hiệu quả
nhất. Học sinh thì khó khăn trong việc học giáo trình mới vì với lượng kiến thức
trong tiết học tương đối nhiều và yêu cầu đưa ra trong từng bài học là khá lớn,
do đó học sinh có biểu hiện lo sợ và chán nản với môn học. Chính vì vậy, đề tài
này đóng góp một số biện pháp để khắc phục những vấn đề đó.
2.1 Thành công – Hạn chế
a. Thành công:
* Về phía giáo viên:
5
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

5
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


Sau khi Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức nhiều buổi tập
huấn, giáo viên cốt cán đã xây dựng được phân phối chương trình phù hợp với
giáo trình giảng dạy. Bản thân giáo viên phụ trách giảng dạy các lớp đề án là
những giáo viên giỏi có kinh nghiệm trong giảng dạy, đã biết sử dụng phương
pháp giảng dạy và kỹ năng dạy học từng dạng tiết học cho giáo viên.
Sau đó, Phòng Giáo dục và Đào tạo còn thành lập tổ tư vấn có nhiệm vụ

giảng dạy các tiết học để giáo viên dự giờ thăm lớp học hỏi và góp ý, cũng như
đi đến từng trường cụ thể để dự giờ thực tế đối tượng học sinh của từng trường,
góp ý, tư vấn cho giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy chương trình thí điểm
và cùng nhau tháo gỡ những khó khăn trong từng tiết học. Với mục đích cuối
cùng là khắc phục được những khó khăn trong quá trình giảng dạy, giúp giáo
viên tự tin, chủ động trong từng tiết học.
Đội ngũ giáo viên Tiếng Anh hầu hết là giáo viên trẻ, năng động, sáng tạo
và có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình, tiếp cận với
chương trình mới. Giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình đề án đã đạt trình
độ B2, đủ khả năng chuyên môn để tiếp cận và giảng dạy chương trình thí điểm
của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Mặc dù có những điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng trực tiếp
trong quá trình giảng dạy nhưng giáo viên đã biết khắc phục vượt lên những khó
khăn trước mắt, từng bước nâng cao chất lượng giờ dạy môn Tiếng Anh nhằm
đáp ứng mục đích và yêu cầu của chương trình thí điểm, SGK mới
Giáo viên trực tiếp giảng dạy bước đầu đã tiếp cận sử dụng tương đối tốt
các kỹ thuật dạy học đặc trưng, phối hợp khá linh hoạt các kỹ thuật dạy học và
vận dụng thành thạo và linh hoạt các thủ thuật và phương pháp dạy học mới phù
hợp với từng yêu cầu mục đích của tiết học.
Không chỉ giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình mới mà ngay cả
giáo viên đang dạy chương trình cũ cũng đã bắt đầu từng bước làm quen và chủ
động tiếp cận với chương trình mới
Bản thân mỗi giáo viên không ngừng tìm hiểu, học hỏi và sáng tạo ra
nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy, vì vậy nhiều tiết dạy
trở nên sinh động, có sức lôi cuốn và đạt hiệu quả cao.
* Về phía học sinh:
Đa phần học sinh rất yêu thích môn học và cảm thấy hào hứng với từng
bài học do giáo viên thiết kế.
Bản thân các em đã học chương trình thí điểm ở cấp Tiểu học nên không
bỡ ngỡ với giáo trình mới.

Một số học sinh đã hình thành kỹ năng trong học tập đối với bộ môn này.
6
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

6
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


Phần lớn học sinh nói được những câu đơn giản, xác định được mục tiêu
học tập, tích cực và mạnh dạn tham gia các hoạt động học tập do giáo viên tổ
chức.
* Về cơ sở vật chất:
Lãnh đạo Nhà trường đã quan tâm đến các lớp học đề án, nên 100% lớp
học theo chương trình thí điểm được trang bị những phương tiện dạy học hiện
đại như: Smart TV, loa, máy vi tính, máy chiếu... Nên giáo viên được hỗ trợ đắc
lực, sử dụng những phương tiện dạy học tốt nhất.
b. Hạn chế:
* Về phía giáo viên:
Lần đầu tiên được tiếp cận với giáo trình mới nên đa số giáo viên còn bỡ
ngỡ, gặp nhiều khó khăn khi thiết kế bài giảng, chưa tìm được phương pháp, thủ
thuật phù hợp giúp đối tượng học sinh của mình tiếp cận với bài học một cách
hiệu quả.
Mặc dù trên lý thuyết giáo viên đã đạt trình độ B2, đủ khả năng chuyên
môn để tiếp cận và giảng dạy chương trình thí điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhưng thực tế nhiều giáo viên không đáp ứng được yêu cầu mà đề án đưa ra.
Vẫn còn một số giáo viên gặp một số khó khăn nhất định trong việc thực
hiện các thao tác, kỹ thuật dạy học, chưa lựa chọn được các thủ thuật và phương
pháp dạy học mới phù hợp với từng tiết dạy, từng giai đoạn của tiết dạy.
* Về phía học sinh:

Do thói quen học tập ở bậc Tiểu học, đa phần học sinh không có kỹ năng
nghe giảng, chép bài, phối hợp một lúc nhiều kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết.
Học sinh không có thói quen tự học, tự làm bài tập ở nhà nên việc uốn nắn và
đưa các em vào nề nếp học tập là vô cùng khó khăn.
Nhiều học sinh còn ngại nói bằng tiếng Anh, còn sợ bị mắc lỗi, rất nhiều
em tiếp cận bài học tương đối tốt, dẫn chứng là khi cho các em làm bài tập trên
sách giáo khoa cũng như kiểm tra viết thì các em đạt yêu cầu nhưng khi giáo
viên hỏi, cũng như yêu cầu những học sinh đó đọc câu trả lời thì các em lại lúng
túng, phát âm sai hoặc thậm chí là không thể phát âm được.
Môi trường luyện tiếng của các em còn nhiều hạn chế. Đa số em ít có cơ
hội để luyện tập ở nhà nên ngay ở lớp các em có thể thực hành tốt nhưng sau đó
các em nhanh chóng quên hết. Hơn nữa, do hoàn cảnh của từng học sinh, không
phải em nào cũng có máy vi tính để học và làm bài tập trên sách mềm.
Học sinh chưa quen với cách nói không có trọng âm của người Việt nên
chưa tạo được những câu nói giống người bản ngữ. Cũng chính vì vậy ảnh

7
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

7
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


hưởng trực tiếp đến kỹ năng nghe của các em. Hình thành nên kỹ năng giao tiếp
kém hiệu quả.
Sách Tiếng Anh 6 chương trình thí điểm được biên soạn dựa trên sách
Tiếng Anh bậc Tiểu học, nên sách được viết rất khoa học, lô gic và có nội dung
phong phú, hấp dẫn. Tuy nhiên, việc học tập và đánh giá ở bậc Tiểu học còn khá
nhẹ nhàng, do đó đa phần các em học sinh lên lớp 6 học theo chương trình thí

điểm thì không đáp ứng được yêu cầu cơ bản cần phải có. Do đó, học sinh có
xuất phát điểm thấp lại phải học chương trình thí điểm mới, nên lượng kiến thức
mà các em phải tiếp nhận là tương đối nhiều và khó so với các em.
Lớp học có số học sinh quá đông so với một lớp học ngôn ngữ tiêu chuẩn
nên việc theo sát và giúp đỡ từng em còn rất hạn chế. Hơn nữa, trình độ của học
sinh trong lớp (do không được thi tuyển) nên có sự chênh lệch khá lớn, gây khó
khăn cho giáo viên trong việc giảng dạy
* Về cơ sở vật chất:
Mặc dù đã được lắp đặt TV thông minh ở từng lớp học, nhưng vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu của giáo viên và học sinh, chưa có phòng chức năng cho
môn học
2.2 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng đã đề ra
a. Lý do khách quan:
Bộ môn Tiếng Anh chưa phát triển và có phần tụt hậu so với nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó tỉnh Đăk Lăk nói chung, huyện Krông Ana nói riêng lại có
kết quả thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Theo tôi lý do đầu tiên và
quan trọng nhất là do học sinh không có môi trường sử dụng ngôn ngữ mà các
em đã được học. Nhìn tổng quan các nước trên thế giới như Ấn Độ hay
Singapore, Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai chính thức được sử dụng trong đời
sống hằng ngày. Còn những nước như Trung Quốc, Thái Lan, hay Malaysia thì
ngành du lịch là một trong những thế mạnh của họ. Khi du lịch phát triển, ngôn
ngữ quốc tế cũng phát triển theo, do nhu cầu cần có để đáp ứng lại ngành nghề
đó; đồng thời môi trường giao tiếp cũng phong phú và cơ hội thực hành cũng
thường xuyên hơn. Không so sánh với những tỉnh hay thành phố lớn như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng..., trong cùng một khu vực nhưng học
sinh Lâm Đồng lại có thể giao tiếp bằng Tiếng Anh tốt hơn nhiều so với học sinh
Đăk Lăk nhờ lợi thế về du lịch và không bị ảnh hưởng nhiều về mặt chính trị
như ở Đăk Lăk
Lớp học môn Tiếng Anh chưa được tách riêng biệt phù hợp với đặc thù của
môn học, vẫn còn học đại trà chung với các môn học khác theo quy định chung

của Bộ Giáo dục và Đào tạo
b. Lý do chủ quan:
8
8
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

Giáo viên: Phạm Thị Thúy


* Về phía người dạy:
Hầu hết giáo viên lần đầu tiên được tiếp cận với chương trình mới này,
không tránh khỏi những bỡ ngỡ và lo lắng. Rất nhiều giáo viên cảm thấy lúng
túng vì lượng kiến thức quá lớn cần phải truyền tải trong một tiết học, nên việc
giảng dạy không hết nội dung yêu cầu là vấn đề thường xuyên xảy ra. Một phần
vì bài học quá tải mà học sinh lại yếu, một phần vì bản thân giáo viên không
hiểu hết được ngụ ý của người biên soạn sách nên chưa liên kết chặt chẽ giữa
các phần với nhau, giúp tiết kiệm được thời gian và rút ngắn được tiến trình
đứng lớp.
Đa số giáo viên đã quen với phương pháp và cách dạy của chương trình cũ
nên việc thay đổi cách dạy cho phù hợp với chương trình mới ngay lập tức là
điều khó khăn. Những giáo viên dầy dặn kinh nghiệm đã giảng dạy giáo trình cũ
nhiều năm nên thông thường sẽ áp dụng những phương pháp giảng dạy trước
đây vào lớp học mới.
Một số giáo viên vẫn đang tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ nên gặp vấn đề về kiến thức khi giảng dạy là không thể tránh khỏi
* Về phía người học:
Phần lớn các em chưa đạt được yêu cầu sau khi hoàn thành chương trình
Tiểu học, do đó việc tiếp cận một lượng kiến thức quá nhiều trong một tiết học
là quá sức với các em.

Việc hình thành thói quen học tập, thực hành, làm bài tập cũng như luyện
tập ở nhà cho các em là điều khó khăn lớn thứ hai. Vì ở bậc Tiểu học việc kiểm
tra đánh giá tương đối nhẹ nhàng, do đó thói quen tự học của các em hầu như
không có, chính vì vậy mà khi lên học ở bậc THCS thì trước nhiều yêu cầu của
giáo viên, học sinh thường bị hoang mang, đôi lúc có biểu hiện sợ môn học.
Tính tự giác khi tham gia các hoạt động của học sinh chưa cao, các em còn
ỷ lại vào thầy cô, chưa tích cực, chủ động hoạt động trong tiết học. Với lượng
kiến thức và bài tập có trong một tiết học là tương đối nhiều, các em thường có
tâm lý chán nản, mất tập trung.
3. Giải pháp – Biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Mục đích của việc dạy ngoại ngữ không những là cung cấp cho học sinh
kiến thức của ngôn ngữ đó mà mục đích cuối cùng của việc dạy ngoại ngữ nói
chung, và bộ môn Tiếng Anh nói riêng là giúp học sinh xây dựng nền tảng để
phát huy khả năng giao tiếp bằng Tiếng Anh. Khả năng giao tiếp của học sinh
thể hiện qua các kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc, Viết. Kỹ năng nói Tiếng Anh của học
sinh được hình thành qua một quá trình học tập rèn luyện. Ngoài việc học tập ở
trường lớp, học sinh phải tự học tập rèn luyện nghe thông qua các hình thức và
9
9
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

Giáo viên: Phạm Thị Thúy


các phương thức khác nhau. Nếu học sinh không nắm vững được những kiến
thức cơ bản cần thiết thì học sinh không thể nào vận dụng vào trong thực tiễn
được.
Với mục tiêu là nâng cao hiệu quả dạy và học bộ môn Tiếng Anh 6 theo

chương trình thí điểm cũng như phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh bằng
các tình huống thực tế trong cuộc sống. Giúp học sinh có thể tự tin, mạnh dạn
trong khi nói Tiếng Anh.
Để tạo thêm nhiều hứng thú cho học sinh tham gia vào các hoạt động thực
hành, giúp học sinh củng cố kiến thức, rèn luyện và phát triển các khả năng giao
tiếp. Trong mỗi tiết học, giáo viên nên tạo môi trường giáo tiếp bằng tiếng Anh
cho học sinh thông qua đó các em được thực hành và áp dụng những kiến thức
vừa mới học vào giao tiếp thực tế. Những tình huống đưa ra gần gũi với cuộc
sống hằng ngày của các em; từ đó, các em sẽ hăng hái và tích cực trong hoạt
động giao tiếp. Giáo viên vừa đảm bảo nội dung bài học tiết kiệm thời gian mà
học sinh vẫn hiểu bài và tham gia vào hoạt động mà giáo viên đưa ra.
Nhằm mở rộng, bổ sung một số ngữ liệu mới trong bài học và khắc sâu
kiến thức cho học sinh cũng như tạo điều kiện cho học sinh thực hành kỹ năng
giao tiếp, sau mỗi phần người biên soạn đã thiết kế dạng bài tập tương ứng để
củng cố kiến thức đã được đề cập trước đó. Do đó, giáo viên cần linh hoạt thiết
kế dạng bài thực hành để học sinh có nhiều cơ hội thực hành hơn nữa, bài tập
dạng viết có thể làm mẫu 1 hoặc 2 câu, sau đó có thể giao cho học sinh hoàn
thành ở nhà.
Tạo hứng thú cho học sinh trong một tiết học Tiếng Anh hay không tất cả
phụ thuộc vào kỹ năng thiết kế xây dựng ý tưởng cùng với những thủ thuật linh
hoạt của người giáo viên, khi học sinh đã tham gia tích cực thì phong trào học
Tiếng Anh trong lớp nói riêng và trong toàn trường nói chung mới được đẩy
mạnh.
Giúp cho học sinh trong toàn trường có cơ hội giao tiếp với nhau bằng
Tiếng Anh, tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, nhằm thực hiện tốt cuộc vận động:
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ trưởng Bộ Giáo
Dục và Đào Tạo thì điều trước tiên người học sinh đó phải có kỹ năng giao tiếp
ngay chính trong lớp học trước. Sau khi học sinh đã có một số kỹ năng giao tiếp
cơ bản thì giáo viên cần mở rộng sân chơi cho các em như giao lưu giữa lớp này
với lớp kia, giữa học sinh khối này với học sinh khối kia, và giữa học sinh trong

trường với nhau. Từ đó, để các em nhận thức được, giao tiếp là chìa khóa của
mọi thành công. Chỉ có giao tiếp tốt các em mới có cơ hội thể hiện bản thân với
bạn bè, với xã hội. Sau mỗi hoạt động như vậy, giáo viên cần đưa ra những nhận
10
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

10
Giáo viên: Phạm Thị Thúy







xét chi tiết cụ thể, tuyên dương những bạn có tiến bộ cũng như phân tích cho các
em hiểu vì sao các em chưa thành công trong buổi sinh hoạt đó. Từ đó, các em
nhận ra được những tồn tại của mình để nỗ lực khắc phục. Nội dung hình thức
các hoạt động phải có sự thay đổi hoặc làm mới liên tục để ngày càng được
phong phú hơn như:
Đóng kịch
Nói chuyện theo chủ đề
Thảo luận
Trò chơi lớn: “Jingle The Golden Bell”, “Who is a millionaire?”,
“Vietnam’s got talence”...
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:
a. Các yếu tố cơ bản trực tiếp tác động đến hiệu quả dạy và học của một
tiết học theo chương trình thí điểm:
* Giáo viên:

Với phương pháp dạy học mới, tích cực thì giáo viên đóng vai trò chỉ đạo,
điều khiển học sinh hoạt động trong giờ học.
Để tiến hành một tiết học theo chương trình thí điểm có hiệu quả thì giáo
viên cần thực hiện tốt các yếu tố cơ bản sau:

 Chọn và sử dụng linh hoạt các thủ thuật dạy học phù hợp với từng nội dung bài
dạy.
 Tổ chức, điều khiển lớp học, phân bố thời gian hợp lý, nghiên cứu kỹ bài học để
lược bỏ đi những phần không phải là trọng tâm cũng như nên thiết kế bài học
những theo phương pháp hoạt động cặp, nhóm nhiều hơn để những học sinh khá
có thể hướng dẫn và giúp đỡ những bạn yếu hơn.
 Sử dụng thành thạo các phương tiện, các đồ dùng dạy học. Đặc biệt, giáo viên
không nên giảng dạy theo phương pháp truyền thống mà cần có sự hỗ trợ tối đa
của các phương tiện dạy học.
 Sáng tạo ra các đồ dùng dạy học phù hợp phục vụ cho tiết dạy.
 Truyền cảm, lôi cuốn, hấp dẫn học sinh. Nhẹ nhàng lắng nghe để hiểu được tâm
tư, nguyện vọng và sở thích của các em, cũng như khuyến khích các em trình
bày ý kiến của mình.
* Phương pháp – thủ thuật dạy học
Phương pháp và tiến trình dạy học được quy định rõ ràng trong từng nội
dung bài học. Nói cách khác, nội dung bài học sẽ chi phối việc lựa chọn, vận
dụng phối hợp các phương pháp, các kỹ thuật dạy học. Mỗi kỹ thuật dạy học
11
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

11
Giáo viên: Phạm Thị Thúy



phù hợp với một hình thức bài dạy cụ thể ( tiết Getting Started, tiết A closer look
1 ....)
Bên cạnh đó, giáo viên cần linh động hơn nữa, sử dụng các thủ thuật và
học hỏi thêm các phương pháp mới, nhằm rút ngắn lượng thời gian dạy của từng
phần cũng như nâng cao hiệu quả dạy của từng tiết học.
* Các phương tiện thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học:
Việc sử dụng thiết bị tranh ảnh hỗ trợ cho dạy học đối với môn ngoại ngữ
nói chung và Tiếng Anh nói riêng được coi là một phương tiện không thể thiếu.
Hơn nữa, trong tất cả đơn vị bài học chương trình thí điểm thì như vậy chưa đủ.
Muốn thực hiện tốt các tiết học này, thiết bị dạy học còn là phương tiện tích cực
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, thúc đẩy động cơ và tạo hứng thú học
tập. Sự hỗ trợ của công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng giúp giáo viên
giảng dạy, nhờ đó mang lại hiệu quả đích thực trong từng tiết học. Hơn thế nữa,
nếu không có sự hỗ trợ đó thì thậm chí giáo viên còn không thể hoàn thành bài
giảng của mình theo đúng tiến độ theo khung phân phối chương trình của Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng. Do đó, để việc giảng dạy theo chương trình
đề án thành công thì các thiết bị, phương tiện dạy học không thể thiếu trong mỗi
tiết học là:
 Tranh ảnh minh hoạ liên quan đến nội dung bài học trong sách Tiếng Anh thí
điểm
 Các tranh ảnh đồ dùng giáo viên tự tạo....
 Máy tính xách tay có kết nối Internet (để giáo viên dễ dàng truy cập mạng sử
dụng sách mềm), loa đài, máy chiếu....
* Học sinh:
Trong mối tương quan giữa cách dạy và cách học: Giáo viên là người tổ
chức, điều khiển học sinh tự chiếm lĩnh tri thức bằng chính những thao tác,
những hành động trí tuệ của riêng mình dưới vai trò tổ chức điều khiển của giáo
viên.
Để tiết dạy được tốt thì học sinh chính là nhân tố quyết định, nếu các em
giữ thái độ không hợp tác, hoặc các em nhút nhát không dám thể hiện ngôn ngữ

thì giáo viên không thể giúp các em phát triển được.
Ngoài ra, học sinh cần phải có những kỹ năng cần thiết trong việc nói
tiếng Anh như kỹ năng kéo dài thời gian (gain-time techniques, asking
techniques, giving ideas techniques...).
b. Một số phương pháp thủ thuật đối với từng tiết học cụ thể:
12
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

12
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


Dưới đây là một số thủ thuật và phương pháp mới trong giảng dạy bộ môn
Tiếng Anh theo chương trình thí điểm mà bản thân tôi đã thực nghiệm và đánh
giá là có hiệu quả khá tốt trong việc nâng cao hiệu quả dạy và học môn Tiếng
Anh 6 theo chương trình thí điểm:
* Đối với phần Pronunciation của Tiết “A closer look 1”
Bản thân tôi nhận thấy, ở phần này dù giáo viên có cố gắng phát âm như
thế nào đi chăng nữa thì học sinh cũng rất khó nhận biết, ghi nhớ và khắc sâu hai
hoặc ba âm thanh đó. Vì vậy, tôi thường tải những video do người bản ngữ dạy,
hướng dẫn cũng như phân biệt những âm thanh có trong bài học. Chỉ với độ dài
khoảng 2-3 phút nhưng với kênh nghe nhìn học sinh được thực hành theo người
bản ngữ một cách dễ dàng, do đó các em thích thú hơn và ghi nhớ tốt hơn.

* Đối với phần Vocabulary của các dạng bài
Ngoài những thủ thuật dạy từ truyền thống, tôi thấy cử chỉ và điệu bộ là
một trong những cách giúp học sinh khắc sâu và ghi nhớ từ vựng một cách
nhanh nhất, hiệu quả nhất. Đặc biệt là những cử chỉ càng hài hước, càng vui
nhộn thì học sinh càng thích thú và ấn tượng.

Ví dụ: Unit 3: My Friends – Lesson 2: A closer look 1 ở phần từ vựng có
từ “tail (n): cái đuôi”, tôi thường lấy tay mình làm đuôi và lúc lắc thật ngộ
nghĩnh và dùng giọng hài hước phát âm từ đó. Học sinh rất thích thú và bắt
chước theo, sau đó học sinh dễ dàng ghi nhớ từ vựng đó.

Trong phần học từ, nếu có thể dùng hành động minh họa thì sẽ tác động
mạnh vào khả năng ghi nhớ linh hoạt cho các em một cách nhẹ nhàng, không
gượng ép.

13
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

13
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


Ví dụ: Unit 2: My home – Lesson 1: Getting started ở phần ôn tập các
giới từ chỉ nơi chốn giáo viên có thể dùng hành động củng cố từ vựng cho học
sinh, giúp học sinh ghi nhớ tốt từ vựng hơn.

on

under
in
next to between behind in front of
Ngoài ra, giáo viên có thể cho học sinh xem những bài hát vui nhộn liên
quan đến những từ vựng hoặc cấu trúc mà các em sẽ học, từ kênh nghe nhìn này,
học sinh dễ dàng hơn trong việc ghi nhớ từ và sử dụng linh hoạt cấu trúc đó.
Ví dụ 1: Unit 3: My friends – Lesson 2: A closer look 1 ở phần Grammar

để ghi nhớ cấu trúc miêu tả hình dáng và tính cách bằng cách sử dụng động từ
“to be”, giáo viên có thể cho học sinh tập và hát theo bài hát để ghi nhớ một
cách linh hoạt hơn.

Ví dụ 2: Unit 5: Natural wonders of the world – Lesson 3: A closer look
2 ở phần Grammar để ghi nhớ so sánh hơn và so sánh bằng của tính từ, giáo viên
có thể cho học sinh tập và hát theo bài hát để ghi nhớ một cách linh hoạt hơn.

14
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

14
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


* Đối với kỹ năng Reading của tiết “Skills 1”
Đúc rút từ kinh nghiệm của chính bản thân tôi và qua các kỳ thi liên quan
trực tiếp đến kỹ năng này, tôi nhận thấy việc dạy từ vựng trong bài đọc là cần
thiết giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung của đoạn hội thoại cũng như mở rộng
thêm vốn từ cho các em thông qua kỹ năng này. Tuy nhiên, việc làm này lại đi
ngược lại với tiến trình khi các em tham gia các kỳ thi có liên quan đến kỹ năng
đọc hiểu. Các em có xu hướng dịch bài đọc, sau đó mới có thể làm bài được.
Nếu gặp bài đọc hiểu có lượng từ vựng nhiều và khó hiểu, thì các em sẽ có cảm
giác lúng túng, bối rối, thậm chí chán nản, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc
làm bài của các em. Chính vì vậy, đối với kỹ năng đọc hiểu, giáo viên cần hướng
dẫn cho các em phương pháp tiếp cận một bài đọc hiểu, kỹ năng “ skim”,
“scan”, cũng như kỹ năng đoán từ.... Cần tránh việc dịch bài đọc hiểu trong quá
trình đọc, tạo thói quen không dịch bài cho học sinh.
* Đối với kỹ năng Speaking có trong tất cả các tiết học

Giáo viên cần linh động thiết kế bài giảng phù hợp với kỹ năng nói, liên
hệ thực tế, lấy ví dụ và tạo dựng tình huống gần gũi với các em để các em dễ
dàng hơn trong việc giao tiếp
Ví dụ 1: Unit 4: My Neighbourhood – Lesson 3: A closer look 2, thay vì
bám sát yêu cầu của Sách giáo khoa, giáo viên giảng dạy có thể thay thế yêu cầu
của bài này. Các em có thể nói và viết về sự khác biệt giữa hai vùng Buôn Ma
Thuột và Buôn Trấp thay vì nói về hai địa danh xa lạ là Yen Binh và Long Son.

4. Look at the pictures of Yen Binh 4. Look at the pictures of Buon Ma
neighbourhood
and
Long
Son Thuot neighbourhood and Buon
15
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

15
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


neighbourhood. Now write about the Trap neighbourhood. Now write
differences.
about the differences.

Buon Ma Thuot

Buon Trap
Ví dụ 2: Unit 4: My Neighbourhood – Lesson 5: Skills 1, thay vì chỉ bám
sát yêu cầu của Sách giáo khoa, giáo viên giảng dạy còn nên thiết kế thêm để

học sinh nói về cách chỉ đường ở chính địa phương của các em.

Hung Vuong high school
MARKET
16
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

16
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


Buon Trap school
Krong Ana high school
BANK
Police station
SEN LAKE

NGUYEN TAT THANH ST
LE QUY DON ST
PARK
* Đối với kỹ năng Listening của tiết “ Skills 2”
Cũng giống như kỹ năng đọc hiểu, việc hướng dẫn cho học sinh cách tiếp
cận với một bài nghe. Hướng dẫn cho các em các bước cần làm gì trước khi
nghe như: đọc thật kỹ yêu cầu của bài nghe để quyết định xem thông tin cần
phải nghe để hoàn thành bài tập; sau khi đã quyết định thông tin cần nghe rồi thì
nên nghĩ hoặc dự đoán một số từ mà mình sắp được nghe; nhấn mạnh cho học
sinh biết rằng, các em chỉ cần chú ý và tập trung lắng nghe những thông tin cần
thiết, quan trọng để hoàn thành bài tập mà thôi. Tuyệt đối không lúng túng, có
thái độ buông xuôi khi gặp bài nghe khó, tốc độ nhanh hoặc giọng người nói lạ

hoặc nối âm nhiều.
Ví dụ: Unit 4: My Neighbourhood – Lesson 6: Skills 2 học sinh sẽ nghe
những âm lạ như từ Lê Duẩn, học sinh sẽ khó phát hiện ra. Do đó, giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh cách đoán ra từ đó dựa vào bản đồ trong sách giáo khoa.

17
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

17
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


* Một số trò chơi có thể lồng ghép vào bài dạy
Tất cả những trò chơi này các giáo viên dạy tiếng nước ngoài đều đã được
học ở trường sư phạm. Hoặc nếu không thì có thể tham khảo trong cuốn:
“Những trò chơi trong giờ học Tiếng Anh” của M. F STRONIN do Nguyễn
Văn Tâm dịch. (NXB Thanh niên - 1994). Ví dụ về cách tiến hành một số trò
chơi thông thường:
 Trò chơi thứ nhất: Truyền tin
Lớp có 6 dãy bàn, giáo viên làm 6 phiếu trên mỗi phiếu ghi một câu. Sau
đó trao phiếu cho 1 học sinh đầu dãy. Học sinh này có nhiệm vụ nói thầm rồi nói
vào tai người kế bên điều mình đọc được. Cứ thế, người này nối tiếp người kia
nói vào tai nhau cho đến người cuối dãy. Người cuối dãy có nhiệm vụ nói lớn
câu hay đoạn mình nghe được, và học sinh đầu dãy sẽ xác định đúng hay không.
 Trò chơi thứ hai: Tìm bạn giao tiếp
Giáo viên chuẩn bị một số câu hỏi và câu trả lời trên giấy, ghép câu trả lời
với câu hỏi bằng cách cho chúng những con số: thí dụ câu hỏi 1 tương ứng với
câu trả lời. Học sinh tự tìm câu trả lời bằng cách tìm ra bạn của mình tương ứng
với câu trả phù hợp, cặp nào nhận ra nhau đầu tiên sẽ thắng.

 Trò chơi thứ ba: Giúp bạn học tốt
Mỗi học sinh trong lớp sưu tầm hoặc tự đặt ra một câu (có thể có thông tin
bị sai) mỗi thành viên của lớp sẽ lắng nghe bạn đọc câu của mình rồi tìm cách
18
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

18
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


xác định câu đúng hay sai và sửa câu. Giáo viên nên bóc thăm học sinh có
nhiệm vụ để mọi thành viên của trong lớp phải lắng nghe bạn đọc.
 Trò chơi thứ tư: Đoán từ
Tôi có hai đồ vật dấu trong hai chiếc túi. Tôi giơ chiếc túi thứ nhất:
Học sinh đoán: That is your stick.
Giáo viên: No. This is my UMBRELLA
Giáo viên giơ chiếc túi thứ hai
Học sinh đoán: That is your box.
Giáo viên: No. This is my MOBILEPHONE.
Trong trò chơi này sự khẳng định “Cái đó là cái gì?” là quan trọng nhất. Trọng
âm rơi vào từ chỉ đồ vật ấy.
 Trò chơi thứ năm: Miêu tả đồ vật
Chia lớp thành từng nhóm nhỏ, trong đó chọn ra một nhóm trưởng sẽ lên
bốc thăm một đồ vật và phải giữ bí mật không cho ai thấy. Sau đó, người đó phải
miêu tả đồ vật đó bằng Tiếng Anh cho các bạn trong nhóm đoán (không được
nhắc đến tên đồ vật đó), nếu người trong nhóm không đoán được thì các bạn
trong nhóm khác sẽ dành lấy cơ hội
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Muốn thực hiện được những giải pháp, biện pháp này, yếu tố đầu tiên và

không thể thiếu được đó chính là trình độ của giáo viên trực tiếp đứng lớp, chỉ
có những giáo viên có kiến thức vững vàng và đạt tiêu chuẩn mới có thể tự tin
truyền đạt lượng kiến thức khổng lồ theo chương trình thí điểm.
Điều kiện thứ hai không thể không nhắc đến đó chính là phương tiện dạy
học hỗ trợ cho giáo viên trong mỗi tiết học, không có máy tính kết nối Internet
và máy chiếu thì giáo viên khó có thể hoàn thành được nội dung của bài học chứ
chưa nói đến hiệu quả của tiết dạy đó.
Điều kiện thứ ba là, lớp học cần có số lượng học sinh vừa phải để giáo
viên có thể quản lý, theo sát được hoạt động của từng học sinh để kịp thời uốn
nắn
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Bởi vì trong một tiết học môn Tiếng Anh, dù có dạy bất kỳ kỹ năng gì thì
các kỹ năng cũng không bao giờ tách biệt hoàn toàn, vì kỹ năng này ảnh hưởng
trực tiếp đến kỹ năng khác. Chính vì vậy mà giáo viên cần sử dụng linh hoạt các
kỹ thuật trong tiết dạy, phối hợp nhuần nhuyễn và mượt mà các phương pháp
với nhau sao cho tiết học thành công nhất.
Bản thân tôi đã nghiên cứu tài liệu, nên tôi nhận thấy rằng mỗi tiết học
trong sách Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm có những yêu cầu khác nhau
mà giáo viên và học sinh cần đạt được. Tuy nhiên, tất cả các bài học đều chú
19
19
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

Giáo viên: Phạm Thị Thúy


trọng việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh đặc biệt là kỹ năng nói. Tuy
nhiên việc giảng dạy một tiết học với lượng kiến thức lớn thì việc cho học sinh
thực hành là điều không tưởng. Do đó, việc luyện tập chỉ hời hợt, quá trình tái

tạo (reproduction) của học sinh chỉ thực hiện được với các học sinh khá giỏi,
còn lại hầu hết các em không thể làm được bởi chỉ có một thời lượng vô cùng ít
ỏi cho việc rèn luyện kỹ năng nói. Học sinh yếu không biết nói gì; giáo viên thì
không thể kiểm soát hết việc thực hành nói của học sinh để kịp thời giúp đỡ. Để
khắc phục vấn đề này đòi hỏi giáo viên phải thiết kế lại bài giảng cho phù hợp
với từng đối tượng học sinh của mình, phân phối hợp lý thời gian trên lớp ở các
phần cụ thể. Đối với những dạng bài tương tự, nên giao cho học sinh làm ở nhà
(có kiểm tra đánh giá) để hình thành thói quen tự học và tự rèn luyện của học
sinh hơn nữa giáo viên có thể có thêm thời gian trên lớp cho học sinh thực hành
kỹ năng nói
Giáo viên cần phát hiện ra những thiếu sót cơ bản của học sinh để có
hướng khắc phục. Ví dụ như, nếu học sinh rụt rè trong giao tiếp, không dám
thực hành với bạn bè thì giáo viên phải có cách động viên, khuyến khích học
sinh. Mới đầu chỉ là những câu thật đơn giản để học sinh làm quen và không
cảm thấy bị áp đặt. Nếu học sinh có vấn đề về phát âm, nên sửa cho học sinh
nhưng cũng phải kiên nhẫn và nhẹ nhàng, tránh làm học sinh mặc cảm và có thái
độ phản kháng với việc nói Tiếng Anh.
Quan tâm nhiều đến những học sinh yếu kém, giúp các em làm quen dần
với bộ môn Tiếng Anh cũng như giúp các em hòa đồng với cả lớp trong quá
trình thực hành kỹ năng nói.
Giáo viên nên lựa chọn các thủ thuật phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Tạo mọi điều kiện gây hứng thú cho học sinh học bộ môn này nói chung
rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh nói riêng.
Trong các tiết dạy, để tận dụng thời gian giáo viên cần hướng dẫn thật cụ
thể để học sinh hoạt động. Đối với lớp có nhiều học sinh khá giỏi, giáo viên có
thể sử dụng Tiếng Anh để hướng dẫn học sinh hoạt động, mức độ cũng có thể
tăng dần từ dễ đến khó. Ngược lại, đối những lớp có học sinh yếu thì giáo viên
nên hướng dẫn các em bằng Tiếng Việt trước để các em nắm vững được bài học
và hiểu rõ yêu cầu mà giáo viên đưa ra trước. Tránh làm các em mơ hồ cũng như
làm mất thời gian dịch lại yêu cầu từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt. Tuy nhiên,

cũng nên dần dần đưa những câu mệnh lệnh dễ hiểu vào trong bài học để các em
làm quen.
Cần nghiên cứu các hạn chế trong việc giảng dạy: thời gian, sĩ số lớp, đồ
dùng dạy học.... Vận dụng những phương tiện giảng dạy hiện đại như máy tính,
máy chiếu,... là những phương tiện dạy học không thể thiếu khi giảng dạy bộ
20
20
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

Giáo viên: Phạm Thị Thúy


môn Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm. Những phương tiện dạy học này
giúp giáo viên tốn ít thời gian và tăng tính sinh động của bài học giúp học sinh
hiểu được bài học dễ dàng hơn.
Sử dụng những phương pháp mới, phù hợp với từng bài học. Giáo viên
cần khuyến khích, động viên các em luyện tập thêm nhiều kĩ năng nói để các em
ngày càng mạnh dạn và tự tin khi giao tiếp bằng cách cộng điểm, tuyên dương
trước lớp...
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Bước vào đầu năm học để nắm rõ tình hình, sức học, kĩ năng nói của học
sinh. Tôi làm một bước khảo sát đầu năm với các tình huống giao tiếp gợi ý như
sau:
* Giới thiệu, làm quen bạn mới.
* Hỏi về nơi bạn sống
* Giới thiệu những người trong gia đình.
* Hỏi về trường lớp, thầy cô, bạn bè.
* Hỏi về sở thích, thời gian, công việc hàng ngày.
* Hỏi về thời tiết, các mùa,....

Qua kết quả khảo sát đầu năm tôi nhận thấy đa số các em không đáp ứng
được yêu cầu học theo chương trình thí điểm. Kiến thức của các em vô cùng hạn
chế, đó là chưa kể một số em không thể trả lời được cả những câu hỏi đơn giản
nhất về bản thân. Từ thực tế đó, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng
Anh theo chương trình thí điểm, tôi rất băn khoăn trăn trở và vô cùng lo lắng
không biết bản thân phải làm thế nào để giúp học sinh học được bộ sách thí
điểm này. Với kinh nghiệm những năm trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh ở
vùng đặc biệt khó khăn, tôi đã mạnh dạn vận dụng những thủ thuật và phương
pháp dạy học mới vào giảng dạy và bước đầu đã thấy những chuyển biến khá
khởi sắc.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu

KẾT QUẢ: Bài kiểm tra khảo sát đầu năm
Lớp 6
thí điểm
6A4
6A5

Sĩ số

Giỏi
SL
%

36
33

4
1


Khá
SL
%

11.1 6
3
5

TB
SL %

16.7 7
15.2 5

Yếu
SL %

19.4 11
15.2 14

Kém
SL %

30.1 8
42.4 8

22.2
24.2


KẾT QUẢ: Bài kiểm tra định kỳ lần thứ nhất
Lớp 6
thí điểm
21

Sĩ số

Giỏi
SL
%

SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

Khá
SL
%

TB
SL %

Yếu
SL

%

Kém
SL %

21

Giáo viên: Phạm Thị Thúy


6A4
6A5

36
33

4
2

11.1 7
6.1 6

19.4 13
18.1 10

36.1 8
30.3 10

22.2 4
30.3 5

11.1
15.2

Trong quá trình giảng dạy tôi luôn tạo cơ hội để giúp các em thực hành kỹ
năng giao tiếp càng nhiều càng tốt và khuyến khích các em học Tiếng Anh từ
cuộc sống hằng ngày như xem các chương trình TV mà các em yêu thích bằng

Tiếng Anh, tập những bài hát Tiếng Anh mà các em yêu thích để làm quen với
giọng nói và tốc độ nói của người bản xứ.
Qua thực tế các tiết dạy thăm dò ý kiến của học sinh và so sánh với chất
lượng khảo sát đầu năm, tôi nhận thấy các em không còn lo sợ mỗi khi nói trước
lớp, tùy vào xuất phát điểm của các em những tất cả các em đã có sự tiến bộ
nhất định, các em hứng thú hăng say học tập hơn trước và kết quả tiếp thu bài
của học sinh tốt hơn.
5. Thiết kế một giáo án dạy trong chương trình Tiếng Anh 6 thí điểm
Period 29

UNIT 4: MY NEIGHBOURHOOD
Lesson 3: A closer look 2

I. Objectives: By the end of the lesson, Ss can know how to use comparative
adjective forms. Ss can talk about differences between two people, two things,
two places ....
II. Language contents:
1. Vocabulary: revision
2. Grammar: comparative adjective forms
III. Teaching aids: laptop, projector, ...
IV. Techniques: Individual work, pair work, group work
V. Procedures:
Teacher’s and Students’ activities
Contents
• Warm-up:
T: divide the class into 4 groups, let Ss
watch a video and ask questions:
“How many adjectives are there in the
video?” Name the adjectives.”
Ss: watch and work in groups to find

answers
T: after Ss give their answers, T can
lead to the new lesson.

22
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

22
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


The new lesson:
T: introduce the new lesson
Ss: listen and write down into their
notebooks.

Activity 1:
T: guide Ss to understand the
Grammar Box in the textbook. Firstly,
T help Ss to know what “syllable”
means. Then,T guide Ss to distinguish
words including one, two, three or
more syllables by clapping once for
each syllable
Ss: practice excitedly
T: show the diferences between short
and long adjectives as well as special
adjectives.
As for each case, T give one example

Ss: listen and write down if necesssary
(especially, T remind Ss to copy two
notes into their notebooks)

Activity 2:
T: do a sentences as model, emphasize
the special notes
Ss: do others sentences
T: give comments and compliments
for good Ss and ask Ss to do the last at
home.

23
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

23
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


Activity 3:
T: do a sentences as model, emphasize
the special notes
Ss: do others sentences
T: give comments and compliments
for good Ss for good Ss and ask Ss to
do the last at home.

Activity 4:
T: guide Ss to do the exercise at home.

Ss: listen and mark into the textbook.

Activity 5:
T: show two pictures and give some
adjectives to help disable Ss to
practice.
Ss: work in pairs and then perform
before the class.
T: ask Ss to write in papers
Ss: write
T: collect some Ss’writing to others
check up
Ss: give comments
T: ask Ss to write about 5 sentences in
their notebooks at home.
Ss: write down

24
SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

24
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


Activity 6:
T: give an example and ask Ss to do it.
Ss: answer
T: ask Ss how to make questions
depending on the example as well as

the way to answer the Yes-No question
Ss: answer
T: give rules and ask Ss to do the
exercise
Ss: do as requested
T: ask Ss to do the last in their
textbooks at home.
Ss: take notes
Activity 7:
T: show two pictures and give some
examples and ask Ss to practice the
examples
T: give Ss some clues to help disable
Ss to practice easily.
Ss: work in pairs and then perform
before the class.
Ss: give comments
Consolidation:
T: let Ss play a game to help Ss
consolidate the lesson.
A pair of Ss will choose a number.
One ask and one answer. The pair
practicing well can get 10 marks.
Ss: choose numbers

T: control the class
Ss: practice. If they make dialogues
well, they can get 10 marks

25

SKKN 2016-2017 THCS Buôn Trấp
Ngọc

25
Giáo viên: Phạm Thị Thúy


×