Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ĐỘC lập tự CHỦ, SÁNG tạo của CHỦ TỊCH hồ CHÍ MINH và ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG GIẢI QUYẾT mối QUAN hệ GIỮA CÁCH MẠNG VIỆT NAM và CÁCH MẠNG THẾ GIỚI TRONG THỜI kỳ đầu GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.86 KB, 19 trang )

1

TÍNH ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG VÀ CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH TRONG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁCH
MẠNG VIỆT NAM VỚI CÁCH MẠNG THẾ GIỚI THỜI KỲ ĐẤU
TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
MỞ ĐẦU
Năm 1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và bước lên vũ đài chính trị,
gánh vác sứ mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh giành độc lập
dân tộc, tự do cho nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kể từ đó cho đến
nay, cách mạng nước ta đã làm nên những chiến công rạng rỡ, viết tiếp những
trang sử vàng chói lọi của dân tộc và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong hơn 80 năm qua là những năm tháng kết tinh và phát triển tất cả
những gì là tinh hoa vĩ đại, đáng tự hào nhất của dân tộc. Nhân dân ta từ
người mất nước, không có quyền tự do, không được quyền mưu cầu hạnh
phúc, trở thành người làm chủ tập thể đất nước, sáng tạo ra lịch sử của mình.
Nước ta từ chỗ là nước thuộc địa và nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, bị
chia cắt thành nhiều mảnh, bị xoá tên trên bản đồ thế giới, trở thành nước độc
lập, tự do, thống nhất, xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các dân tộc tiên phong
trên thế giới, đấu tranh cho những lý tưởng cao cả của loài người, góp phần
vào sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức.
Đảng ta đã chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam
muốn làm bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trong chặng đường đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đất nước chúng ta đã đạt được những thành
tựu hết sức quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, đối ngoại, xây



2

dựng Đảng, xây dựng Nhà nước…Đặc biệt trên lĩnh vực đối ngoại chúng ta đã
đạt được những thành quả hết sức to lớn.
NỘI DUNG
1.Truyền thống ngoại giao của dân tộc Việt Nam
Việt Nam nằm ở Đông Nam Châu Á, với điều kiện thiên nhiên rất
nhiều thuận lợi. khí hậu nhiệt đới, nguồn nước dồi dào, đất đai màu mỡ. trên
dải đất thống nhất từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ đất liền ra hải đảo là
nguồn của cải rất phong phú. Thiên nhiên một mặt giành cho chúng ta nhiều
ưu đãi, mặt khác lại gây ra nhiều khó khăn hiểm nghèo. Việt Nam nằm trên
đầu mối giao thông quan trọng, ở vào vị trí chiến lược vùng Đông Nam châu
Á, lại gàu tài nguyên, khoáng sản nên thường xuyên bị các thế lực phản động
lớn mạnh bên ngoài – từ các đế chế phương Đông thời cổ – trung đại đến các
nước tư bản thực dân phương Tây và bọn phản động quốc tế thời cận - hiện
đại, nhòm ngó và xâm lược.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng, bền bỉ
và kiên cường chinh phục thiên nhiên, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược để
sống còn và phát triển. Trong hàng ngàn năm lịch sử chúng ta đã phải trải qua
hàng chục cuộc kháng chiến lớn bảo vệ tổ quốc chống các đội quân xâm lược
Tần, Tây Hán, Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh...Trong các cuộc chiến
tranh bảo vệ tổ quốc, trước các đội quân của phong kiến phương Bắc có tiềm
lực to lớn, hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao được kết hợp chặt chẽ
với mặt trận quân sự, kể cả lúc cuộc chiến gặp khó khăn cũng như lúc thuận
lợi - đang trên đà chiến thắng. Với phương châm: “đem đại nghĩa thắng hung
tàn”, thực hiện “ngoại giao công tâm”, với những đối sách khéo léo, linh hoạt,
kết hợp vừa đánh vừa đàm nhằm giành thắng lợi hoàn toàn.
Trước tiên, nhân dân Việt Nam luôn có ý thức bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nền ngoại giao nhu viễn xem trọng việc



3

giữ ging hoà khí, khiêm nhường với các nước lớn, hữu nghị với các nước lân
bang, phấn đấu cho sự thái hoà.
Yêu chuộng hoà bình là bản chất của ngoại giao Việt Nam. Trong khi
kiên trì lập trường nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, chống lại ngoại giao xâm lược của đối phương, Đại Việt kiên trì
đường lối hoà bình trong quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng.
Khi quân Tống tiến công Đại Việt bị chặn đánh quyết liệt trên phòng
tuyến sông Cầu, quân lương khó khăn, binh sĩ không chịu được lạm
chướng… Biết quân địch ở thế tiến thoái lưỡng nan, Lý Thường Kiệt dùng
“biện sĩ bàn hoà”, nêu ra những đề nghị hoà bình hấp dẫn đối với tường giặc
Quách Quỳ, tạo điều kiện cho quân Tống rút về nước. Liền đó, Vua Lý cử sứ
thần sang triều cống và mở giao hiếu giữa hai nước.
Hoà hiếu là tư tưởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt. Nhà sử học Phan
Huy Chú đúc kết lịch sử bang giao của đất nước đã nhấn mạnh: “Trong việc
trị nước, hoà hiếu với láng giềng là việc lớn”.
Cùng với các thắng lợi trên mặt trận quân sự, việc thực hiện nhất quán
tư tưởng hoà hiếu với các nước láng giềng đã góp phần quan trọng vào việc
làm cho Việt Nam vượt qua được các cuộc xâm lăng thường xuyên từ phía
Bắc và từ phía Nam, bảo tồn và phát triển cương vực, lãnh thổ quốc gia.
Ngoại giao Việt Nam thấm nhuần tinh thần nhân đạo và chủ nghĩa nhân
văn. Tuy là nạn nhân của các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, người Việt
Nam vẫn giàu lòng nhân ái, khoan dung đối với những kẻ địch đã bị đánh bại.
Điều đó có cội nguồn từ lý tưởng nhân nghĩa của dân tộc, biết đứng trên nghĩa
lớn khi buộc phải đương đầu với những thế lực ngoại xâm hung bạo.
Đồng thời, nó cũng xuất phát với tầm nhìn sâu xa trong quan hệ bang
giao với các nước láng giềng có chung biên giới, xem trọng sự hoà mục, được
Trần Hưng Đạo nêu trong lời Di Chúc: “Hoà mục có công hiệu lớn cho cuộc

trị an. Hoà ở trong nước thì ít dụng binh; hoà ở ngoài biên thì không sợ có báo


4

động”; “Hoà mục là một đạo rất hay cho việc trị nước, hành binh, không bao
giờ đổi được”. Trong “Binh thư yếu lược”, Hưng Đạo Vương tuy nói về việc
dùng binh mà còn hàm ý về thái hoà: Bặc thánh võ trị đời, đánh ở chỗ không
có thành, công ở chỗ không có luỹ, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng như
mưa rơi ở trên không, dựng nên cuộc đời vô sự.
Ngoại giao Đại Việt cũng luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Phẩm
chất tiêu biểu của sứ thần là trí dũng song toàn, giữ gìn quốc thể. Người đi sứ
luôn thấu triệt phương châm “đi sư bốn phương, không làm nhục mệnh vua”.
Mạc Đĩnh Chi thời trần đi sứ sang nhà Nguyên. Khi sứ thần nước Nam vào
yết kiến, vua Nguyên ra vế đối: “Nhật hoả, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc
thỏ” (nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng). Ra
vế đối này, vua Nguyên tự xem mình là mặt trời, coi nước Nam như mặt
trăng. Ý nói nước Nam sẽ bị nhà Nguyên thôn tính. Mạc Đĩnh Chi đối lại:
“Nguyệt cung, tinh đạn, hoang hôn xa mặc kim ô” (nghĩa là: Trăng là cung,
sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời ). Như vậy, mặt trăng có thể thắng mặt
trời.
Đỗ Khắc Trung vào trại giặc thực hiện kế hoà hoãn giữa lúc thế giặc
đang hăng vẫn không bị uy lực áp chế, sắc mặt tự nhiên, ứng đối bình tĩnh.
Nguyễn Trãi năm lần vào thành Đông Quan, giữa đại quân của địch thực hiện
ngoại giao tâm công, tìm kiếm giải pháp hoà bình cho cả đôi bên, làm cho
“thành giặc các nơi, không đổ máu mà mở cửa dâng hoài” (Phú núi Chí Linh).
Nguyễn Biểu đi sứ, chủ soái giặc bày cỗ đầu người để uy hiếp, vẫn ứng phó
tự tin, bị giặc tìm cách giết hại vẫn giữ tròn khí tiết…
Truyền thống đối ngoại Việt Nam, với những đặc trưng rõ nét: nền
ngoại giao mang bản chất nhân văn, thấm đượm chính nghĩa của một dân tộc

yêu chuộng hoà bình, với mục tiêu đối ngoại nhất quán, kiên quyết bảo vệ chủ
quyền đất nước, bảo vệ tôn vinh danh dự của một quốc gia văn hiến; một nền
ngoại giao khôn ngoan, linh hoạt, kết hợp hài hoà giữa tính nguyên tắc và


5

sách lược mềm dẻo; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao, đấu tranh
chính trị với đấu tranh quân sự... Truyền thống đối ngoại Việt Nam là một cơ
sở quan trọng hình thành đường lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Chủ nghĩa Mác –Lênin bàn về đoàn kết quốc tế
Trong rất nhiều vấn đề mà lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin đề cập
về cách mạng vô sản có một nội dung hết sức quan trọng đó là xác định mối
quan hệ giữa cách mạng vô sản ở mỗi nước với cách mạng vô sản thế giới.
Xem xét thực tiễn trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đang trong giai
đoạn tự do cạnh tranh, C.Mác đã nêu lên một khẩu hiệu nổi tiếng, có tính chất
định hướng về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản các nước: “Vô sản tất cả
các nước đoàn kết lại”. Theo Mác, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với
giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh mang tính thời đại sâu sắc; nghĩa là, một
cách tất yếu, cách mạng vô sản ở từng quốc gia dân tộc phải có sự liên hệ,
đoàn kết, gắn bó bởi vì cùng có một mục tiêu chung: tiêu diệt giai cấp tư sản,
tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, loại trừ mọi sự sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nguồn gốc của mọi áp bức, bất công trong xã hội và xây dựng một xã hội mới
- xã hội Cộng sản. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh Mác đã nhận định:
“Giai cấp vô sản và sự giàu có là những mặt đối lập. Là những đối lập, hai
mặt đó cấu thành một chỉnh thể thống nhất nào đó. Cả hai đều do thế giới tư
hữu sản sinh ra. Toàn bộ vấn đề là tìm hiểu xem mỗi yếu tố trong hai yếu tố
ấy chiếm một địa vị nhất định nào trong khuôn khổ đối kháng. Chỉ tuyên bố
đó là hai mặt của một chính thể thống nhất thì chưa đủ. Chế độ tư hữu, với tư
cách là chế độ tư hữu, với tính cách là sự giàu có, bắt buộc phải duy trì sự tồn
tại của bản thân nó, và do đó, duy trì cả sự tồn tại của cái đối lập với nó, giai

cấp vô sản. Đó là mặt khẳng định của sự đối kháng, là chế độ tư hữu tự lấy
làm thoả mãn. Ngược lại, giai cấp vô sản, với tư cách là giai cấp vô sản, buộc
phải thủ tiêu bản thân mình, và do đó cũng thủ tiêu luôn mặt đối lập với nó,


6

mặt đối lập đã chế ước nó, là mặt đối lập của sự đối kháng, là sự bất an bên
trong bản thân sự đối kháng, là chế độ tư hữu bị xoá bỏ và đang tự xoá bỏ."
Nhận định trên đây là một trong những cơ sở để xác định sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản và cũng là cơ sở nền tảng xác lập mối quan hệ
giữa các phong trào cách mạng vô sản ở mọi nơi trên thế giới.
Trong khi đề cập đến tính thời đại, tính phổ cập của cách mạng vô sản,
Mác cũng đã nhận thấy vấn đề quan hệ giữa cuộc cách mạng vô sản thế giới
với cách mạng vô sản diễn ra trên địa bàn từng quốc gia dân tộc: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không
phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu
tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh
toán xong giai cấp tư sản nước mình đã."
Phát triển tư tưởng của Mác- Ănghen trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc
đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành
một bộ phận của cách mạng vô sản, V.I.Lênin xem xét mối quan hệ của cách
mạng vô sản theo một cách nhìn mới. Ở đó, Lênin không chỉ nhận thấy sự cần
thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản ở các nước tư bản với nhau, mà còn nhận
thấy sự cần thiết phải đoàn kết giữa cách mạng vô sản ở các nước tư bản với
cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa - các nước đang là nạn nhân của chính
sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân
tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Cách mạng vô sản ở chính quốc không thể
giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp

bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức,
đoàn kết lại” là sự phản ánh sinh động tư tưởng của Lênin về mối quan hệ
giữa cách mạng vô sản ở các nước tư bản với cách mạng vô sản ở các nước
thuộc địa. Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách
mạng trong các nước thuộc địa.” Đúng như sau này, trong bài "Lênin và các


7

dân tộc thuộc địa" Nguyễn Ái Quốc cũng nhận định: "Lênin là người đầu tiên
đã hiểu và đánh giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các
nước thuộc địa vào phong trào cách mạng. Lênin là người đầu tiên đã chỉ rõ
rằng, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã
hội không thể có được"1.
3. Quan điểm của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ
giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Đoàn kết quốc tế là chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là cơ sở để Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xử lý các vấn đề đối ngoại
trong thời kỳ đấu tranh giành và giữ chính quyền, trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như trong sự nghiệp đổi mới và
hội nhập quốc tế hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ
phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Lịch sử dân tộc ta từ khi có
Đảng đã chứng minh rằng: với tư cách là một chính đảng tiền phong, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn làm tròn nghĩa vụ trước dân tộc, đối với đất
nước và với phong trào cách mạng thế giới, thực hiện trách nhiệm cao cả
trước dân tộc và cộng đồng quốc tế. Phát huy mạnh mẽ tinh độc lập tự chủ,
đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng đắn
và giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới, tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất có thể có được để đưa cách

mạng Việt Nam phát triển đi lên. Sự phát triển mới trong quan điểm của Đảng
ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới là những đóng góp quí báu vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác –Lênin.
Ở Việt Nam, từ sau Hiệp ước Patơnốt (6.1884) thực dân Pháp cơ bản đã
đặt xong ách thống trị lên đất nước ta. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam, với
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 136.


8

truyền thống nghìn năm không cam chịu nô lệ, đã không buông vũ khí đầu
hàng. Nhiều phong trào cứu nước đã liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo của các
sĩ phu yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng dân chủ tư sản,
song những cuộc đấu tranh ấy đều không giành được thắng lợi. Thất bại của
các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cho thấy sự khủng
hoảng nghiêm trọng về đường lối cách mạng ở nước ta.
Trước yêu cầu bức xúc của phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam,
từ chủ nghĩa yêu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã
quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu
nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay
cả trên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân,
nông dân lao động ở cả "chính quốc" cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các
cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc
nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'',
nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động.
Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông,

ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng
Nguyễn Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng và quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương
về dân tộc và thuộc địa" của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn
con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua đó là con đường
cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước, giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” 2
vì đó là con đường kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T9, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 314.


9

quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Quá trình đấu tranh truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam và tích cực chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào
tháng 2 năm 1930. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ
mới - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản, con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Tiếp nhận tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở nghiên cứu một
cách trực tiếp với phương pháp luận khoa học và sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc
đã sớm nhận thức đúng đắn bản chất mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở
các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. Người khẳng định:
cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt
để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách

mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải dựa vào lực lượng của nhân dân, nòng
cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Từ nhận định: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi kia vẫn tiếp tục
hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ
lại mọc ra.”3. Người vạch rõ sự cần thiết phải gắn cách mạng giải phóng dân
tộc với cách mạng vô sản thế giới. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp,
Người viết: "Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi
của chúng ta là thống nhất"4. Do đó, cần có sự liên minh chiến đấu giữa các
lực lượng cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc chống chủ
nghĩa đế quốc nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
3
4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 120.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 128.


XI
10

xã hội. Theo Người cần phải: "Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa
tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự
hợp tác thật sự sau này, chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công
nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng" 5 và: "Làm cho các dân tộc
thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết
lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh
này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản"6.

Tư tưởng này là sự cụ thể hoá và chứng minh cho quan điểm của Lênin
về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản của các nước thuộc địa và các dân tộc bị
áp bức để tiêu diệt chủ nghĩa tư bản.
Nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam và các nước thuộc địa, Người cũng
chỉ ra rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ
thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ
động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp
phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đặt trong điều kiện lúc
này trong phong trào cộng sản quốc tế vẫn còn tồn tại quan điểm xem thắng
lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách
mạng vô sản chính quốc, chúng ta càng thấy rằng đây là một nhận định hết
sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Do nhận thức được
thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh
giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Người
đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
Đây là một cống hiến rất quan trọng của Nguyễn Ái Quốc vào kho
tàng lý luận Mác - Lênin và đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 124.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 124.


11

Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc đã gắn cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân với cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã

hội, mang lại sự giải phóng triệt để cho con người Việt Nam.
Theo Người: “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới. Ai làm cách mạng trên thế giới là đồng chí của Việt Nam” 7. Người
khẳng định: “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng
cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ
tam quốc tế)”8. “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ
tam quốc tế”9. Trong quan hệ với cách mạng vô sản Pháp, Người chỉ rõ: Cách
mạng Việt Nam cũng phải liên minh với cách mệnh Pháp, bởi vì: “An Nam
dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp
cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do. Vậy nên cách
mệnh An Nam với cách mạng Pháp phải liên lạc với nhau”. 10
Như vậy theo Nguyễn Ái Quốc cách mạng vô sản ở nước ta và cách
mạng vô sản Pháp không chỉ có mối quan hệ với nhau mà đây còn là mối
quan hệ bình đẳng, ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau. Quan điểm đó không chỉ
xác định một cách dứt khoát lập trường: cách mạng Việt Nam phải đứng
hẳn về phía phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc thế giới
để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới; mà còn xác định rõ quan
hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách nhiệm, sự
thống nhất của mối quan hệ này.
Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc đã đặt cơ sở khoa học cho đường lối
cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đường lối đó là ngọn đèn pha soi
sáng cho cách mạng Việt Nam tiến tới, đồng thời là vũ khí sắc bén để chiến
7

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 281.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 281.
9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 287.
8


10

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 281.


12

thắng những tư tưởng cải lương, dân tộc hẹp hòi, tư tưởng thoả hiệp của giai
cấp tư sản góp phần xác lập vững chắc địa vị lãnh đạo của giai cấp vô sản và
chính Đảng của nó đối với cách mạng Việt Nam. Trong đó, quan điểm của
Người về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới là cơ
sở hình thành đường lối của Đảng ta trong việc giải quyết mối quan hệ này
ngay từ những ngày đầu Đảng mới ra đời.
Trong “Chính cương vắn tắt”, “sách lược vắn tắt” – Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và
được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 2.1930 đã khái quát tình
hình đế quốc Pháp thống trị kìm hãm sự phát triển của công nghiệp Việt Nam,
làm cho giai cấp tư sản bản xứ lệ thuộc vào đế quốc Pháp; nông nghiệp tập
trung và phát sinh khủng khoảng, nông dân thất nghiệp, đại địa chủ thì đứng
về phe đế quốc, vì vậy chánh cương nêu chủ trương tiến hành cách mạng dân
chủ tư sản, đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho Việt Nam hoàn toàn
độc lập, thành lập chính phủ công nông binh, thi hành các quyền tự do dân
chủ... mở đường tiến tới xã hội cộng sản. Sách lược vắn tắt ghi rõ: Đảng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân; Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai
cấp công nhân và nông dân, lãnh đạo nông dân đấu tranh chống đại địa chủ.
Đảng phải vận động tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi với giai cấp công nhân,
đồng thời tranh thủ hoặc trung lập hoá tầng lớp trung, tiểu địa chủ, phú nông
và tư sản Việt Nam theo nguyên tắc không thoả hiệp, bảo vệ lợi ích công
nông. Cương lĩnh cũng thể hiện tinh thần: cách mạng Việt Nam là một bộ

phận của cách mạng thế giới, “Đảng phổ biến khẩu hiệu "Việt Nam tự do" và
đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản
trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”11.
Luận cương chính trị tháng 10.1930 của Đảng tiếp tục khẳng định: cách
mạng Đông Dương và cách mạng thế giới phải có liên hệ chặt chẽ với nhau,
11

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 4.


13

giai cấp vô sản Đông Dương phải có quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản
trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Như vậy, có thể nói Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không những
đã trung thành vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề quan hệ giữa cách mạng vô sản ở các nước mà còn phát triển những quan
điểm đó trong điều kiện mới. Đặc biệt là trong xác định vai trò của cách mạng
vô sản ở các nước thuộc địa trong đó có cách mạng Việt Nam. Cùng với
những đóng góp quan trọng vào học thuyết cách mạng vô sản, việc nhận thức
sâu sắc và đúng đắn quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới còn là cơ sở để Đảng ta xác định nhiều vấn đề của cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất, khẳng định vị trí, vị thế, vai trò của cách mạng Việt Nam
trong tiến trình cách mạng vô sản thế giới: Với tính chất một cuộc cách mạng
vô sản, cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng triệt để nhất, tiến bộ
nhất, là cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam không chỉ là đánh đuổi đế quốc Pháp, đánh đổ giai
cấp địa chủ phong kiến, giải phóng dân tộc Việt Nam, xây dựng xã hội mới –
xã hội xã hội chủ nghĩa mà còn góp phần thủ tiêu chủ nghĩa thực dân, chống
lại chủ nghĩa đế quốc…Ở vị thế đó, cách mạng Việt Nam cần được và tất yếu

sẽ nhận được sự ủng hộ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng
như phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, cách mạng Việt Nam đã và
sẽ có sự đóng góp xứng đáng vào phong trào cách mạng thế giới vì sự tiến bộ
của xã hội…Đây là mối quan hệ bình đẳng giữa cách mạng Việt Nam và cách
mạng vô sản thế giới; là quan hệ bình đẳng giữa dân tộc Việt Nam với các
dân tộc khác trên thế giới. Mặt khác, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới đều có chung kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc
tế. Do đó “ai làm cách mạng trên thế giới là đồng chí của Việt Nam” và cách
mạng Việt Nam cần tranh thủ triệt để mọi sự ủng hộ về mọi mặt của cách


14

mạng vô sản Pháp và nhân dân tiến bộ Pháp, song không phụ thuộc vào cách
mạng Pháp.
Thứ hai, muốn tranh thủ được sự giúp đỡ của phong trào cách mạng
quốc tế và nhân dân tiến bộ trên thế giới, phải xác định rõ quan điểm: trước
hết phải tự giúp lấy mình, phải quán triệt tinh thần “đem sức ta mà giải phóng
cho ta”, chủ động và kiên quyết tiến hành cách mạng, tuyệt đối không có thái
độ trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Đây là quan điểm thể hiện
tích tích cực cách mạng, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
của Đảng ta.
Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới là một bộ phận trong đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam, do đó nó là cơ sở quan trọng để Đảng xác định đường lối đối ngoại
của mình trong từng giai đoạn cách mạng. Mọi chủ trương, chính sách đối
ngoại đều phải xuất phát từ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đều
phải đáp ứng yêu cầu không ngừng củng cố và tăng cường mối quan hệ mật
thiết giữa cách mạng nước ta với cách mạng thế giới, làm cho cách mạng Việt

Nam gắn bó hữu cơ, thực sự là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới
hướng tới mục tiêu cuối cùng là hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định tính đúng đắn của đường lối
chiến lược của Đảng ta nói chung cũng như việc nhận thức và giải quyết
thành công mối quan hệ giữa cách mạng nước ta với cách mạng thế giới nói
riêng. Trong khi khẳng định Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, chỉ rõ mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa cách mạng Việt
Nam và cuộc cách mạng chung của toàn nhân loại, chỉ rõ yêu cầu phải kết
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi đồng bào cả nước "đem sức ta mà giải phóng cho ta".


15

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong vòng 15 năm (1930-1945), Cách
mạng Việt Nam đã trải qua các cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), cao
trào dân chủ (1936-1939), cao trào cứu nước (1939-1945). Ba cao trào cách
mạng đó là ba cuộc tổng diễn tập cho Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt, khi
chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, kéo theo sự tham gia của nhiều quốc gia
vào một cuộc chiến tàn khốc đã đặt trước giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể loài người yêu cầu cấp bách là giải phóng các dân tộc thoát
khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa phát xít. Ở nước ta, đế quốc Pháp thẳng tay
đàn áp cách mạng, tiến công Đảng và các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh
đạo, tước mọi quyền tự do, dân chủ mà nhân dân ta giành được trong phong
trào 1936-1939.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11.1939 đã nhận định tình hình và đề
ra chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ đánh đế
quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 8 tháng 5.1941 đã thảo luận tình hình quốc tế từ lúc nổ ra chiến tranh

và dự báo sự phát triển: "Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên
Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra
nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công".
Từ nhận định đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ phải gấp rút chuẩn bị lực
lượng về mọi mặt để đón thời cơ giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của toàn Đảng, toàn dân và quyết định thành lập Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi - Mặt trận Việt Minh, tổ chức xây dựng lực lượng vũ
trang huấn luyện quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng, chủ trương con
đường khởi nghĩa vũ trang từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa. Cuối năm
1942, khi Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công, giải phóng nhiều vùng
rộng lớn, tạo ra những bước ngoặt của chiến tranh. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã dự đoán sau chiến thắng của Đồng Minh, sẽ có sự giải giáp quân Nhật,


16

Pháp trở lại Đông Dương sau khi quân Nhật đầu hàng. Cuộc tổng khởi nghĩa
của chúng ta phải nổ ra giữa thời điểm Nhật đầu hàng, thực dân Pháp chưa
kịp quay lại, quân Đồng Minh chưa kịp đến, ta đứng trên tư thế người chủ
mới để làm việc với đồng minh.
Đầu năm 1945 khi Hồng quân Liên Xô tấn công quét sạch quân đội
phát xít trên toàn lãnh thổ Liên Xô, giải phóng nhiều nước châu Âu và tiến
thẳng về Béclin sào huyệt của chủ nghĩa phát xít thì tại Đông Dương Nhật
tiến hành đảo chính hất cẳng Pháp. Trước tình thế đó Đảng đã kịp thời phát
động một cao trào kháng Nhật cứu nước trên toàn quốc. Ngày 12.3, Chỉ thị
"Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đã ra đời. Cùng với khẩu
hiệu "phá kho thóc giải quyết nạn đói” đã tạo ra một phong trào cách mạng
mạnh mẽ chưa từng có trên cả nước, làm lung lay nền thống trị của phát xít
Nhật. Ngày 9.5.1945, Đức ký Biên bản đầu hàng vô điều kiện Liên Xô và

quân Đồng minh. Ngày 8.8.1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, và
sau khi hơn một triệu quân Quan Đông của Nhật bị tiêu diệt, phát xít Nhật
buộc phải đầu hàng không điều kiện.
Nhận thấy thời cơ cách mạng đã chín muồi, Đảng ta đã kịp thời phát
động toàn dân vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa đến đồng bào cả nước: "Giờ quyết định cho
vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta”. Đáp lại lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch nhân dân
cả nước đã nhất tề vùng dậy giành lấy chính quyền, chấm dứt sự thống trị gần
trăm năm của thực dân và ngàn năm của phong kiến, lập nên nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, đưa nước ta bước vào một kỷ nguyên
mới- kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1930 đến năm 1945 là một thời kỳ đặc biệt của cách mạng Việt
Nam, đây là thời kỳ Đảng vừa mới ra đời, bắt tay lãnh đạo cách mạng nước ta
hướng tới mục tiêu cơ bản trước mắt là giải phóng đất nước, giành chính


17

quyền về tay nhân dân. Được vũ trang bằng lý luận khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin, với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, trong thời kỳ này, Đảng
ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa cách mạng
nước ta với cách mạng thế giới, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như của các lực lượng hoà
bình tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta để đưa cách
mạng từng bước đến thắng lợi.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của nhiều nguyên
nhân mà nguyên nhân quyết định nhất chính là do Đảng ta đã có đường lối
cách mạng đúng đắn và hết sức sáng tạo. Đảng đã kết hợp thành công giữa
việc chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt và dự báo, đón bắt thời cơ. Biết tranh thủ

những điều kiện thuận lợi từ bên ngoài, luôn đặt cách mạng Việt Nam trong
sự liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới, đồng thời thường xuyên xác định
tinh thần "Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" là một trong những kinh
nghiệm của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giành chính quyền
và đặc biệt là trong Cách mạng Tháng Tám.
Bài học kinh nghiệm quí báu đó đã được Đảng ta tiếp tục vận dụng,
phát huy trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Chính vì thế, trong những tình thế vô cùng khó khăn, Đảng ta vẫn tranh thủ
được sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ cả
về tinh thần và vật chất của nhân dân tiến bộ thế giới kể cả nhân dân ở các
nước đế quốc. Sự giúp đỡ to lớn đó cũng là một trong những nhân tố tạo nên
sự thành công của Cách mạng Việt Nam nhưng vấn đề có tính chất quyết định
nhất đó vẫn là từ nội lực của đất nước, của dân tộc.


18

KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta đang đứng trước những
chuyển biến nhanh chóng mau len của thời cuộc với cả những thời cơ, vận
hội và những thách thức, để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước Đảng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào
tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền
vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới
và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có
lợi. Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng
cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động,
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động


19

của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả
hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế – xã
hội. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng
đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề
nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi
dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can
thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối
ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu
vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.

5. Lưu Văn Lợi, 50 năm ngoại giao Việt Nam, tập 2, Nxb CAND, HN, 1998
6. Bộ ngoại giao: các tổ chức quốc tế và Việt Nam, Nxb CTQG, H. 1999
7. Ngyễn Phúc Huân: Chủ tịch Hồ Chí Minh - trí tuệ lớn của nền ngoại giao
Việt Nam hiện đại, Nxb CTQG, HN. 1999



×