Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN lí LUẬN của ĐẢNG TA về NHÀ nước PHÁP QUYỀN và GIẢI PHÁP xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM THEO QUAN điểm đại hội XI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.43 KB, 32 trang )

1
MỞ ĐẦU
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành từ thời cổ đại, bởi các
nhà tư tưởng phương Tây, hay tư tưởng pháp trị tại Trung Hoa cổ đại, nhưng
mãi đến khi nhà nước tư sản ra đời, với sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản,
nhà nước pháp quyền mới từ nhà nước ý tưởng dần trở nên một nhà nước hiện
thực. Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền với tính cách là những
giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, gắn liền với
một nền dân chủ, nhưng không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo
lý luận về hình thái kinh tế - xã hội. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền vừa là một
giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc
gia và cũng không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô
hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc mà nó tuỳ thuộc vào các đặc
điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển để xây dựng cho
mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục
và rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn kiên trì, vận dụng đúng đắn,
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại,
trong đó có sự tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng những tư tưởng của
những nhà kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học và của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã
xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây dựng,
tổ chức và vận hành theo thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là chủ
trương, đường lối có tính chiến lược, là bước đột phá trong đổi mới tư duy
chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi mới hệ thống



2
chính trị nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói riêng nhằm đáp ứng yêu
cầu của tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu quản lý và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu phát triển
xã hội theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững, đảm bảo sự ổn định chính trị,
giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, tạo điều kiện cho người dân thực hành các
quyền tự do dân chủ, hướng tới xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
NỘI DUNG
1. Sự phát triển lý luận của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Học thuyết Nhà nước pháp quyền không chỉ có những tư tưởng của các
triết gia tư sản mà còn có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển chủ nghĩa
xã hội khoa học. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dù không chính thức nói
đến Nhà nước pháp quyền như là một trong những nội dung chính yếu trong
học thuyết của mình nhưng các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin luôn
quan tâm đến Nhà nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật. Trong các bài
viết, bài nói của các ông ít nhiều đã thể hiện tư tưởng về pháp quyền. Đó là
những tư tưởng đầu tiên về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng căn bản của Nhà nước pháp quyền đã được các nhà
kinh điển Mác - Lênin đề cập và vận dụng vào thực tiễn xây dựng và củng cố
Nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, bao gồm các vấn đề cơ bản như: xây dựng một nhà nước
kiểu mới hợp hiến, hợp pháp, dân chủ, một nhà nước mà pháp chế là nguyên
tắc tối quan trọng trong đời sống nhà nước và xã hội; nhà nước có một hệ



3
thống pháp luật đầy đủ và pháp luật được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; nhà nước là công cụ của nhân dân, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; nhà nước bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân…
C.Mác khẳng định “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại
vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người
là luật pháp, trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước,
con người lại là tồn tại được quy định bởi luật pháp”1. Do đó, “trong chế độ
dân chủ thì bản thân nhà nước chính trị… chỉ là nội dung đặc thù của nhân
dân, chỉ là hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân thôi”2. Nhà nước pháp
quyền với ý nghĩa đó, không làm ra luật pháp, như C.Mác đã khẳng định
“quyền lập pháp không tạo ra luật pháp, - nó chỉ phát hiện và nêu luật pháp” 3.
Hay nói cách khác, luật pháp tối thượng trong nhà nước pháp quyền chính là
ý chí của nhân dân, phản ánh các quyền của nhân dân. Như vậy nhà nước
pháp quyền mới có khả năng tồn tại với tư cách thực chất là nhà nước.
V.I.Lênin tiếp thu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và phát triển tư
tưởng Nhà nước pháp quyền hoàn bị hơn. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền của
V.I.Lênin chủ yếu thể hiện trong tư tưởng về Nhà nước và cách mạng, về xây
dựng xã hội mới. V.I.Lênin hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải
phóng con người và phát triển toàn diện con người. Theo V.I.Lênin, nếu
không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa tư
bản, người ta tức khắc có thể làm việc cho chủ nghĩa xã hội mà không cần
phải có một tiêu chuẩn pháp quyền nào cả. Trong xây dựng Nhà nước Xôviết,
V.I.Lênin đòi hỏi bộ máy chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao động,
phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật (pháp luật Xô viết) để đấu

1


C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.350.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.395.

23.
3


4
tranh chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ (tức là phải sử dụng pháp luật, đưa
pháp luật lên trên hết).
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền hình thành, phát triển
gắn với quá trình tìm đường cứu nước và thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam sau năm 1945. Quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh
đã kháo sát, nghiên cứu, so sánh bản chất các kiểu nhà nước trên thế giới và
đi đến kết luận: “Nhà nước phong kiến là công cụ của địa chủ để thống trị
nông dân. Nhà nước tư bản là công cụ của giai cấp tư sản để thống trị giai cấp
công nhân. Song từ cách mạng Nga thành công, một xã hội mới ra đời, nhà
nước đã trở lên công cụ thống trị của nhân dân lao động"4.
Từ thực tiễn khảo cứu các mô hình nhà nước trên thế giới, Hồ Chí Minh
phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền được thể hiện khá sớm trong
nhiều văn kiện quan trọng do Người soạn thảo. Trong Yêu sách của nhân dân
An Nam gửi Hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh nêu ra yêu cầu “Cải cách nền
pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được hưởng những
đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu”; “Đòi thay chế độ ra các sắc
lệnh bằng chế độ ra các đạo luật ”; trong Việt Nam yêu sách ca, Hồ Chí Minh
viết “Bảy xin hiến pháp ban hành. Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” 5.
Sau này trong các văn kiện như: Chương trình Việt Minh (1941); Tuyên ngôn
độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945; Chương trình hành động ngày 3 tháng 9
năm 1945; Hiến pháp 1946.v.v. đã thể hiện kết tinh trí tuệ, tư duy của Hồ Chí

Minh về Nhà nước Việt Nam sau một phần ba thế kỷ hoạt động của Người.
Những tư tưởng chính của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền đó là:
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân; nhà nước hợp hiến, hợp
pháp; nhà nước mà trong đó mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; nhà nước
4
5

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.280.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.438.


5
hoạt động trên cơ sở pháp luật; kết hợp giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với
giáo dục đạo đức, nâng cao giác ngộ của nhân dân.
Tư tưởng xuyên suốt, cốt lõi, bao trùm toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước pháp quyền đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong
suốt quá trình tổ chức, xây dựng nhà nước Hồ Chí Minh luôn coi trọng hai
vấn đề cơ bản, một là xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân; hai là bộ máy nhà nước phải được tổ chức hợp pháp và hoạt động
trên cơ sở hiến pháp. Trong Nhà nước pháp quyền, chủ quyền phải thực sự
thuộc về nhân dân và phải được thể hiện đầy đủ trong mối quan hệ giữa nhà
nước với nhân dân, nhà nước là công bộc, là người phục vụ nhân dân, nhân
dân là người làm chủ nhà nước là đối tượng được nhà nước phục vụ.
Nhà nước pháp quyền của dân theo Hồ Chí Minh đó là nhà nước do
nhân dân làm chủ, nhân dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có
quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo
pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực để xây dựng các thiết chế
dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền do
dân, tức là nhà nước đó phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của
mình; nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu,

hoạt động; nhà nước do nhân dân phê bình và xây dựng, giúp đỡ. Mọi cơ
quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Thực tiễn, ngay sau khi giành được chính quyền lập nên nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh khẳng định rõ vai trò to lớn của nhân
dân trong xây dựng và bảo vệ chính quyền. Theo Người, nhân dân vừa là chủ
thể vừa là đối tượng phục vụ của nhà nước, nhà nước phải là công bộc, đầy tớ
của nhân dân, nhân dân là người lập ra nhà nước, mọi quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân. Người khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ.
Bao nhiều lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính


6
quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”6.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do
dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân
được. Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có
đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Trong nhà nước
đó, mọi cán bộ, viên chức nhà nước đều là công bộc, đầy tớ của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền theo Tư tưởng Hồ Chí Minh đó còn là nhà nước
mà bản chất của nó luôn có sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân, tính dân tộc. Nhà nước là một thành tố cơ bản nhất
cấu thành hệ thống chính trị, luôn dưới sự lãnh đạo của Đảng, mang bản chất
của giai cấp công nhân, là nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
nhà nước đó cũng thể hiện tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Bản chất giai
cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc luôn thống nhất hài hòa trong
nhà nước đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó
pháp luật được đề cao. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền theo Hồ Chí

Minh là nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ. Nhà nước có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ trước hết phải là nhà nước hợp hiến; nhà nước quản lý đất nước
bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một
Nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa
vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở lên mạnh mẽ. Không thể có dân
chủ ngoài pháp luật. Pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của
người dân nhất thiết phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật,
ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của
người dân được tôn trọng trong thực tế.

6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.698.


7
Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ,
theo Hồ Chí Minh vấn đề căn bản cốt lõi là phải nhanh chóng đào tạo, bồi
dưỡng hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am
hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính, có đạo đức cách mạng trong
sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
1.2. Quá trình nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời. Đó là một nhà nước kiểu mới, nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á. “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế
kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đã đưa chính quyền
lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử
nước nhà…”7.

Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà là “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiến quốc gia
trên nền tảng dân chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng về Nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thể chế
hoá trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946. Với Hiến pháp 1946,
Đảng ta chủ trương thực hiện “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân” nhằm đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp,
tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Hiến pháp 1959 đã thể chế hoá
quan điểm Đảng ta về “sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ
lịch sử của chuyên chính vô sản”8, Đảng ta cho rằng “khi nào cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân tiến triển thành cách mạng XHCN thì chuyên chính dân
chủ nhân dân sẽ trở thành chuyên chính vô sản… Hình thức Nhà nước cộng
7
8

Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự thật, H,1980, tr.463.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Nxb Sự thật, H,1961, tr.179.


8
hoà dân chủ nhân dân vẫn có thể tồn tại khi nội dung của nó đã chuyển đổi
thành chuyên chính vô sản. Nhưng nếu nhiệm vụ và yêu cầu là cách mạng
XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì về thực chất chế độ dân chủ nhân
dân sẽ trở thành chế độ dân chủ XHCN…”9.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã xác định: “Nhà nước XHCN là
Nhà nước chuyên chính vô sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng
thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển xã hội…” 10. Quan
điểm của Đảng về Nhà nước chuyên chính vô sản đã được thể chế hoá trong
Hiến pháp 1980 “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước chuyên

chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học
kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ
thuật là then chốt, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, đập tan mọi sự chống
đối của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động xâm lược và phá
hoại của kẻ thù bên ngoài, xây dựng thành công XHCN, tiến tới chủ nghĩa
cộng sản; góp phần củng cố hoà bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của
nhân dân thế giới” (Điều 2 - Hiến pháp 1980). Phát triển quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ
CNXH, Đảng ta xác định “quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà
nòng cốt là liên minh công nông, thực hiện bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân, đó là chuyên chính vô sản. Nhà
nước ta, vì vậy, là nhà nước chuyên chính vô sản”11.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới
đã đặt ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy, quan điểm về xây
9

Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam. Nxb Sự thật, H,1975, tập 1, tr.193.
Văn kiện Đảng toàn tập. NxbCTQG, H,2004, tập 37, tr.577.
11
Văn kiện Đảng toàn tập. NxbCTQG, H,2004, tập 37, tr.162.
10


9
dựng nhà nước trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế. Đảng ta khẳng
định “Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể XHCN, do giai cấp
công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị.
Trong thời kỳ quá độ, đó là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ

dân chủ XHCN…”12. Mặc dù vẫn dùng khái niệm “Nhà nước chuyên chính vô
sản”, nhưng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam tại Đại hội VI đã có đổi mới: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chức năng của Nhà nước là thể chế hoá bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích,
nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Nhà
nước ta phải bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời
kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân…”13. Với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã
chỉ ra nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng: “… cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề,
nhiều tầng, nhiều nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng, tiêu
chuẩn cán bộ chưa được xác định rõ ràng”14. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời,
cải cách bộ máy nhà nước sẽ thúc đẩy việc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp, tạo ra cơ chế quản lý mới phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi
của cải cách kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này, Đảng ta chủ trương “… Để
thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ
máy của các cơ quan nhà nước theo phương hướng: Xây dựng và thực hiện
một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
12

Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). NxbCTQG, H,2006, tr.124.
Sđd, tr.125.
14
Sđd, tr.125.
13



10
phân biệt rõ chức năng quản lý - hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng
lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội…”15.
Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định thực hiện dân chủ XHCN là thực
chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Như vậy, việc đổi mới và kiện toàn hệ
thống chính trị được Đảng ta đặt ra như một tất yếu để thực hiện và phát huy
dân chủ XHCN. Để đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị, Đảng chủ trương
tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước theo hướng: Nhà nước thực sự là
của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh
đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực
hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy
tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các
thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý…”16.
Những quan điểm chủ yếu của Đảng về xây dựng, cải cách bộ máy nhà
nước được xác định tại Đại hội VI, VII tiếp tục được Đảng ta phát triển trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” là
“tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân
dân. Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ
chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, sửa đổi hệ thống tổ
chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp
để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước. Nhà nước có mối liên
hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát,
ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm,
xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy
15
16


Sđd, tr.125.
Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. NxbCTQG, H,2006, tr.297.


11
quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có
sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung
ương. Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó…”17. Quan điểm của Đảng về
Nhà nước trong Cương lĩnh 1991 đã nhấn mạnh đến những vấn đề có tính nền
tảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong một chế độ dân
chủ – pháp quyền: có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp, quản lý
xã hội bằng pháp luật; thống nhất quyền lực (thống nhất ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp) với sự phân công rành mạch ba quyền đó. Tuy chưa đề
cập trực tiếp đến phạm trù nhà nước pháp quyền, nhưng sự thể hiện các vấn
đề cơ bản có tính pháp quyền trong tổ chức nhà nước ở tầm cương lĩnh chính
trị cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng ta trong đổi mới tổ chức và hoạt
động của Nhà nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước pháp quyền
XHCN trong bối cảnh cụ thể nước ta.
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
(01/1994) là mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển nhận thức của Đảng ta
về Nhà nước pháp quyền. Đây là lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng
thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” và nêu khá cụ thể, toàn diện những quan
điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân với nội dung cơ bản là: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn
thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất
nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam
được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng,

do Đảng ta lãnh đạo”18. Với cách thể hiện trong văn kiện Hội nghị đại biểu
17
18

Sđd, tr.327.
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, tr.56.


12
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, những quan điểm cơ bản về các nội dung
chủ yếu của phạm trù Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
đã được xác lập, đặt cơ sở lý luận cho việc triển khai các chủ trương, giải
pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong những giai đoạn
phát triển tiếp theo.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khoá VII) đã đánh
dấu một bước quan trọng trong việc cụ thể hoá quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là Hội
nghị chuyên bàn về nhà nước “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâ m là cải cách một bước nền hành chính”.
Sau khi đánh giá những thành tựu và khuyết điểm, yếu kém trong tổ chức,
hoạt động của nhà nước ta và những yêu cầu trước tình hình mới, văn kiện
Hội nghị đã nêu 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng
kiện toàn bộ máy nhà nước, đó là:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân;
Thứ hai, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp,

hành pháp, tư pháp;
Thứ ba, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam;
Thứ tư: tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng
cao đạo đức XHCN;
Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.


13
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại
Đại hội lần thứ VIII tiếp tục khẳng định 5 quan điểm cơ bản về xây dựng nhà
nước pháp quyền đã được Hội nghị Trung ương 8 khoá VII xác định, đồng
thời đặt ra các nhiệm vụ: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và
giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; cải
cách nền hành chính nhà nước đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành
chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp; củng cố kiện toàn bộ máy các
cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân, từng
bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho toà án nhân dân huyện. Đổi
mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp…
Hội nghị Trung ương lần thứ ba khoá VIII đã thông qua nghị quyết
“Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết Trung ương 3
khoá VIII đã đưa ra sự đánh giá tình hình xây dựng Nhà nước trong thời gian
qua với những nhận định về các bước tiến bộ, các mặt yếu kém trong quá
trình xây dựng Nhà nước và chỉ ra rằng: việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết
của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm.

Nghị quyết khẳng định cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VII và nhấn mạnh ba yêu cầu:
Một là: tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân
dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham
gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân
dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ công chức Nhà nước.


14
Hai là: tiếp tục xây dựng và hoàn hiện nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ công
chức Nhà nước thật sự là công bộc, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Ba là: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; xây dựng và
hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm,
tính chất của cơ quan nhà nước ở từng cấp, chú trọng sự lãnh đạo của tổ chức
đảng đối với việc kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính.
Nghị quyết nhấn mạnh: “3 yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa
trên nền tảng chung là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công
nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Như vậy, đến Hội nghị lần thứ ba khóa VIII quan điểm về xây dựng Nhà
nước pháp quyền được xác định như một quan điểm chủ đạo, chi phối toàn bộ
nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2002), Đảng ta khẳng
định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật”19. Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại Điều 2 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư

19

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb CTQG, H, 2001, tr.131-132


15
pháp”20. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) Đảng ta đã
chỉ rõ phương hướng xây dựng, cơ chế vận hành, đồng thời xác định nhiệm
vụ, giải pháp hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay. Trong đó tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp
trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”21.
Đại hội XI (tháng 01/2011) đã làm sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định “tiếp tục đẩy mạnh việc
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà
nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo,
thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, giải quyết đúng mối
quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân
dân, với thị trường”. Báo cáo chính trị đã xã định một trong những phương

hướng quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế, vận
hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành
20

Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp 1992). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.178.
21
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.45.


16
có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc. Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm
1992 đã sửa đổi, bổ sung năm 2001 phù hợp với tình hình mới”22.
Như vậy, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Đại hội Đảng VI,
Đảng Cộng sản Việt Nam chưa sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền, tuy
nhiên xét theo nội dung và yêu cầu khách quan của Nhà nước pháp quyền thì
đã được Đảng ta nhận thức và diễn đạt ngày càng rõ nét. Từ Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử
dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” và từ đó đến nay, tư tưởng về Nhà
nước pháp quyền tiếp tục được xây dựng và từng bước hoàn thiện, phản ánh
quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, sâu sắc và hoàn thiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam về tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng
nhân loại, trong quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Đó là những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất
nước phát triển theo định hướng XHCN.
1.3. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay
Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà
nước pháp quyền nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng ta đã đúc kết, kế thừa có
chọn lọc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư
tưởng nhân loại và quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng Nhà nước kiểu mới ở
nước ta. Theo đó, quan niệm về những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
22

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG-ST 2011, tr.246-347.


17
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng từng bước được hình thành, phát triển
và được thể hiện tại các văn kiện, nghị quyết khác nhau của Đảng và trong
các văn bản pháp luật của Nhà nước.
Trong Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng cơ bản đó đã được khái quát
một cách cô đọng, tập trung tại một luận điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tấ cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà
nước là thống nhất; có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban
hành pháp luât; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật
thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ
nghiêm kỷ cương xã hội; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương”23. Có thể khẳng định rằng, luận điểm được nêu
trong Văn kiện Đại hội XI là luận điểm thể hiện đầy đủ và tập trung nhất các
đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc
trưng đó được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước

23

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 85-86.


18
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm
2013) khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Theo đó, Nhà nước ta là
nhà nước đại biểu cho quyền làm chủ của nhân dân, chính quyền từ trung
ương tới cơ sở đều do nhân dân bầu ra và bãi miễn; nhà nước phục vụ vì lợi
ích quyền lợi của nhân dân, thực sự trong sạch, không có đặc quyền, đặc lợi.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện là nhân dân có quyền quyết
định hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước như: quyền
bầu cử để tổ chức ra các cơ quan nhà nước; quyền bãi miễn các cơ quan và
cán bộ, viên chức nhà nước; quyền tham gia vào các cơ quan nhà nước; quyền
kiểm soát hoạt động của Nhà nước; quyền tự do ứng cử, bầu cử vào các cơ
quan nhà nước, và đề đạt ý kiến, nguyện vọng với Nhà nước và các cơ quan
nhà nước do nhân dân lập ra.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, nhưng dựa trên nền tảng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Bởi vì, giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là những giai cấp, tầng lớp nòng
cốt của sự nghiệp cách mạng xã hội nói chung, là động lực chính của cách
mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là nền tảng
lập nên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam là một bộ phận hợp thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
nhưng đồng thời là lực lượng lãnh đạo hệ thống đó. Vì vậy, Nhà nước là một
thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tất yếu phải do Đảng lãnh


19
đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng. Mọi hoạt động của Nhà nước, cũng như
việc tổ chức xây dựng và phát huy vai trò hiệu lực của Nhà nước trong điều
hành quản lý xã hội đều phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của
Đảng, ngoài ra không lực lượng nào có quyền nắm và lãnh đạo Nhà nước.
Đây là vấn đề thuộc về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, đồng thời
cũng là một nguyên tắc hiến định, đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013. Sự

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thực hiện bằng phương thức lãnh
đạo của Đảng: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng
viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động
trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị,
tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường
xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy
mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị”24.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
trong đó quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Đặc trưng cơ bản, chung nhất của Nhà nước pháp quyền là quyền lực
nhà nước là thống nhất, nhưng trong từng nước khi giải quyết các vấn đề tổ
chức quyền lực của nhà nước cũng đều xuất phát từ đặc điểm thực tiễn riêng
của nước mình. Các nhà nước tư sản đều tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền
phân lập”, tức là phân lập các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với những
24

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), tr9.


20
hình thức và mức độ khác nhau. Đây thực chất là là sự phân chia quyền lực
giữa các tập đoàn tư bản trong các nước tư bản. Tuy vậy, trên thực tế cũng
chưa có một nước tư bản nào thực hiện đúng nguyên tắc tam quyền phân lập,

mà đều áp dụng linh hoạt phù hợp với tình hình của từng nước.
Ở nước ta cũng có ý kiến cho rằng cần phải xây dựng Nhà nước pháp
quyền trên cơ sở nguyên tắc tam quyền phân lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” 25. Khoản 3 Điều 2
Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản trong
tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
với các nước tư sản, là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà tổ chức quyền lực theo
nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”, không thể “phân quyền” theo
lối phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các quyền, mà chỉ có sự phân
công trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao nhất ở Quốc hội. Cách
tổ chức như vậy cho phép tránh được sự đối chọi giữa các nhánh quyền lực
thường xảy ra trong kiểu tổ chức phân lập ba quyền phục vụ cho lợi ích của
các thế lực đứng sau mỗi nhánh quyền lực đó.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám
sát của nhân dân
Phục vụ nhân dân vừa là mục đích, tôn chỉ duy nhất của Nhà nước vừa
là bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phục vụ
25

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 85.


21

Nhân dân, tức là Nhà nước phải lấy phục vụ lợi ích và nguyện vọng của Nhân
dân là mục đích tối thượng, ngoài ra không có mục đích nào khác, không có
sự đặc quyền, đặc lợi của Nhà nước hay của các cán bộ, công chức nhà nước.
Nhà nước cũng như mỗi cán bộ, công chức nhà nước phải thật sự trong sạch,
cần, kiệm, liêm, chính, tận tụy phụng sự Nhân dân, thực sự là công bộc của
Nhân dân. “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn
trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền” (Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013).
Để phục vụ được nhân dân Nhà nước một mặt phải nỗ lực, hình thành
các thiết chế dân chủ, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân,
mặt khác phải gắn bó liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Quán triệt tinh thần Nghị
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011), xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay phải làm cho tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước phục vụ nhân dân gắn bó mật thiết
với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện
pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô
trách nhiệm, lạm dụng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân. Để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trong giám sát,
góp ý vào hoạt động của Nhà nước cần phải sớm ban hành Luật trưng cầu ý
dân để từng bước hoàn thiện cơ chế lấy ý kiến của nhân dân về những vấn đề
quan trọng, cần thiết cho lãnh đạo và quản lý nhà nước, bảo đảm cho các


22

quyết sách lớn tập trung được trí tuệ và phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng
của nhân dân.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính
tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội
Tính tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội là đặc tính cơ bản của
Nhà nước pháp quyền nói chung. Điều đó có nghĩa là, trong Nhà nước pháp
quyền bộ máy nhà nước, công chức, viên chức nhà nước, các đảng phái chính
trị, các tổ chức xã hội của công dân và từng công dân đều bình đẳng trước
pháp luật và tôn trọng pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật.
Ở Việt Nam, ngay từ khi mới tổ chức ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng tính hợp hiến và hợp pháp của
Nhà nước. Bởi vậy, nên ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công giành
độc lập dân tộc, một trong những vấn đề cấp bách đặt ra là phải nhanh chóng
soạn thảo Hiến pháp độc lập và tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, lập ra chính
quyền các cấp từ trung ương đến địa phương trong phạm vi cả nước. Vì vậy,
trong thời gian rất ngắn kể từ sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta đã soạn thảo và công bố bản Hiến
pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946), đồng thời tổ chức xây dựng thành công Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông hợp hiến và hợp pháp
đầu tiên ở Đông nam Á. Mặt khác, cùng với việc tổ chức nhà nước hợp hiến,
hợp pháp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng hết sức coi trọng lãnh đạo
Nhà nước xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào đời
sống xã hội. Kể từ đó đến nay, trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động của
Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng vấn đề củng cố hoàn
thiện hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước. Điều 12 Hiến pháp năm 1992, ghi: “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ



23
quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống các tội phạm và vi phạm Hiến pháp, pháp luật”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiếp
tục khẳng định: “Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”26.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp,
đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
khẳng định: “Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống
nhất của Trung ương”27. Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Tập trung dân chủ là đặc trưng cơ bản phản ánh bản chất giai cấp công
nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tập trung dân
chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, đồng thời cũng là nguyên tắc căn
bản bao trùm toàn bộ việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước và các cơ quan
ban ngành trong bộ máy nhà nước.
Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cho thấy, toàn bộ việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như các cơ
quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương đều được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tức là cá nhân phục tùng tổ
chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương, bộ
phận phục tùng toàn thể.
26
27


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.85.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội,2011, tr.86.


24
Tuy nhiên, do sự đa dạng, phong phú của nhiệm vụ quản lý, điều hành
xã hội, nên trong Nhà nước luôn có sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng,
rành mạch về trách nhiệm, quyền hạn và phạm vi của mỗi cấp, mỗi ngành,
mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhằm khắc phục sự lấn sân, chồng chéo,
bao biện làm thay hoặc bỏ sót trách nhiệm trong quản lý xã hội, điều hành bộ
máy nhà nước ở tất cả các cấp. Mỗi cấp chính quyền, mỗi cơ quan, ban ngành
chức năng từ trung ương đến địa phương đều có quyền chủ động căn cứ vào
phạm vi, chức năng, nhiệm vụ được giao tích cực quản lý điều hành xã hội
theo lĩnh vực được phân công, phân cấp. Chính quyền Trung ương là cơ quan
cao nhất, thống nhất chỉ đạo việc xây dựng và hoạt động của toàn bộ bộ máy
nhà nước, tất cả các cấp chính quyền, các ban ngành chức năng đều phải phục
tùng tuyệt đối sự chỉ đạo, điều hành và quản lý của cấp Trung ương.
2. Quan điểm, yêu cầu và giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
2.1. Quan điểm, yêu cầu
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân phải dựa trên nền tảng tư tưởng lý luận
là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
quá trình khám phá, xây dựng mô hình nhà nước thích hợp với Việt Nam, vì
thế phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, sửa đổi, điều chỉnh
tổ chức, hoạt động của nhà nước.
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân nhưng phải giữ bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với Nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tất
cả vì hạnh phúc của nhân dân đồng thời chuyên chính với các thế lực thù


25
địch, với những âm mưu, hành động thù địch đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc
và nhân dân.
Bốn là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là vấn đề rộng lớn, phức tạp, nhạy cảm,
các thế lực thù địch, bọn cơ hội dễ lợi dụng vì thế phải hết sức thận trọng,
phải tiến hành từng bước, chuẩn bị các điều kiện cần thiết, giữ vững ổn định
chính trị, ổn định kinh tế xã hội, ngăn chặn những âm mưu, hành động lợi
dụng của các thế lực thù địch và bọn cơ hội.
Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
quyền lực nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lực nhà nước trong lập pháp, hành pháp, tư pháp và nguyên
tắc tập trung dân chủ; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của
Trung ương, đồng thời phân cấp mạnh cho chính quyền đại phương cơ sở.
Sáu là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù
hợp với điều kiện kinh tế văn hóa - xã hội, kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố
thời đại; học tập tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm, thành tựu, tinh hoa
của nhân loại trong xây dựng Nhà nước pháp quyền.
2.2. Một số giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam theo quan điểm Đại hội XI của Đảng
Từ việc tập trung xác định rõ các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của việc
xây dựng Nhà nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội XI, lần đầu
tiên, Đảng ta xác định rõ những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm

đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Những giải pháp đó được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:


×