Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.82 KB, 23 trang )

I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Thông tư 22 của Bộ GD&ĐT ban hành ngày 06/11/2016 trên cơ sở hoàn thiện
Thông tư 30. Thông tư đã có một số sửa đổi, bổ sung về đánh giá học sinh, trong đó
có một số quy định mà bản thân tôi rất quan tâm đó là về việc đánh giá thường
xuyên và đánh giá định kì. Đánh giá thường xuyên về năng lực, phẩm chất. Đánh giá
định kì về học tập. Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên,
khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát
huy nhiều nhất khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan. Đánh giá sự
hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. Đánh giá thường xuyên
về học tập: Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ đúng, chưa
đúng và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh khi
cần thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời. Học sinh tự nhận xét và tham gia
nhận xét sản phẩm học tập của bạn, nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm
vụ học tập để học và làm tốt hơn. Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi với giáo
viên về các nhận xét, đánh giá học sinh bằng các hình thức phù hợp và phối hợp với
giáo viên động viên, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện. Việc ra đời Thông tư 22 là
cần thiết để có bước đổi mới phù hợp thực tế hơn, tạo ra khí thế mới cho giáo viên
và học sinh Tiểu học.
Trường Tiểu học Lê Hồng Phong nhiều năm liền dạy học theo mô hình trường
học mới (VNEN) các giáo viên luôn thực hiện đúng theo tinh thần của thông tư, đã
không ngừng cố gắng vươn lên, có những tiến bộ vượt bậc và đạt được những thành
tích đáng kể. Được làm việc trong một môi trường như vậy bản thân tôi luôn suy
nghĩ: Làm thế nào để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục nói chung, nâng cao chất
lượng giáo dục lớp mình chủ nhiệm nói riêng ? Làm thế nào hoàn thành tốt nhiệm
vụ giáo dục của năm học 2016 – 2017? Đó là những câu hỏi mà tôi luôn trăn trở.
Hiện nay chủ trương của ngành là dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng của
môn học. Thông tư 22 đặc biệt chú trọng việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học
1



tập và rèn luyện của học sinh. Để nâng cao chất lượng giáo dục đòi hỏi sự nỗ lực cố
gắng của cả cô và trò.
Người giáo viên chủ nhiệm giữ nhiều vai trò: vừa là thầy dạy học vừa là
người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các em. Từ đó có
thể uốn nắn các em đi theo quỹ đạo của mình. Sau nhiều năm đứng lớp và làm công
tác chủ nhiệm, bản thân tôi cũng tích lũy được một vài kinh nghiệm. Trong khuôn
khổ của bài viết này, tôi mạnh dạn chia sẻ cùng đồng nghiệp một số kinh nghiệm về
: “Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Mục tiêu của đề tài là sau khi thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục cho học sinh thì các em có được kết quả cao trong học tập và rèn
luyện. Từ đó hình thành cho các em những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh
tiếp tục học lên những lớp trên.
Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu các biện pháp và cách thực hiện từng biện
pháp làm sao để đạt kết quả tốt nhất trong việc nâng cao chất lượng giáo dục cho
học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Phân tích, đánh giá thực trạng của lớp chủ nhiệm từ đó đưa ra một số biện
pháp tối ưu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4. Trên cơ sở theo
dõi, so sánh, đối chiếu chất lượng giáo dục trong suốt học kì I và cả năm học học
2016 - 2017của học sinh lớp 4D, trường tiểu học Lê Hồng Phong, xã Eana, huyện
Krông Ana, tỉnh ĐăkLăk.
4. Giới hạn của đề tài.
Với khả năng và điều kiện của bản thân, tôi tập trung nghiên cứu một số kinh
nghiệm, biện pháp của giáo viên chủ nhiệm trong những năm học vừa qua để làm tốt
công tác nâng cao chất lượng giáo cho học sinh lớp chủ nhiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu.
2



a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, trực quan, nêu gương,
hỏi đáp ...
c) Phương pháp thống kê toán học.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Theo Thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/10/2010 và Thông tư số
50/2012/TT-BGDĐT ngày 18 tháng 12 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Sửa đổi,
bổ sung Điều 40 của Thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Điều lệ Trường Tiểu học quy định độ
tuổi của học sinh tiểu học từ sáu đến mười bốn tuổi (tính theo năm). Đây là lứa tuổi các
em rất hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và
điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình.
Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm cần nắm bắt được những đặc điểm tâm lí của học
sinh để từ đó đưa ra những biện pháp giáo dục phù hợp giúp các em hoàn thiện nhân
cách. Tạo một môi trường lớp học mà ở đó các em vừa cảm thấy thoải mái, dễ chịu
nhưng cũng phải tuân theo những nội quy, quy định phù hợp với lứa tuổi để các em
ngày một tiến bộ hơn. Vậy nên trong quá trình làm công tác chủ nhiệm tôi luôn xây
dựng và duy trì một môi trường học tập tốt giúp học sinh của mình hoàn thành một
cách hiệu quả mục tiêu đã định. Muốn thực hiện tốt đòi hỏi mỗi chúng ta phải có kĩ
năng sư phạm, năng lực chuyên môn vững vàng. Đó là một trong những yếu tố quan
trọng đảm bảo sự thành công của người giáo viên.

3


Theo tinh thần của Thông tư 22, giáo viên chủ nhiệm: Chịu trách nhiệm
chính trong việc đánh giá học sinh, kết quả giáo dục học sinh trong lớp; hoàn
thành hồ sơ đánh giá học sinh theo quy định; nghiệm thu, bàn giao chất lượng

giáo dục học sinh. Thông báo riêng cho cha mẹ học sinh về kết quả đánh giá quá
trình học tập, rèn luyện của mỗi học sinh. Hướng dẫn học sinh tự nhận xét và
tham gia nhận xét bạn, nhóm bạn. Tuyên truyền cho cha mẹ học sinh về nội dung
và cách thức đánh giá theo quy định tại Thông tư này; phối hợp và hướng dẫn
cha mẹ học sinh tham gia vào quá trình đánh giá. Vì vậy người giáo viên giữ vai
trò chủ đạo trong mọi hoạt động giáo dục của nhà trường, của lớp. Chính vì thế
mỗi giáo viên không chỉ trang bị cho mình kiến thức vững vàng, chuyên môn giỏi
mà đòi hỏi phải có năng lực tổ chức, điều khiển mọi hoạt động của lớp, trong đó
vai trò quan trọng là công tác nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Bản thân
tôi luôn trăn trở trong suốt năm tháng làm công tác chủ nhiệm của mình.
Để thực hiện mục tiêu mà mình đặt ra, tôi thiết nghĩ người giáo viên cũng như
người làm vườn, trồng cây, tuy không đúng hoàn toàn nhưng hoạt động của giáo
viên chủ nhiệm gần như người trồng cây, chăm sóc vun trồng cây giống. Người làm
việc không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc tạo điều kiện cho hạt giống
nảy mầm. Cho nên, bản thân là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn tâm niệm dạy dỗ
giáo dục các em trở thành những con người hữu ích cho xã hội để xứng đáng với
những hình ảnh đẹp mà xã hội ban tặng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói:
"Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao quý vì nó sáng tạo ra
những con người sáng tạo".
2. Thực trạng
Năm học 2016 – 2017, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4D có
tổng số học sinh là 19 em, trong đó nữ 12 em, dân tộc 12em, NDT 7 em. Học sinh
đã được học 2 năm theo mô hình trường học mới. Các kiến thức về Toán học, Tiếng
Việt, các môn hoạt động giáo dục ở lớp 3 nhẹ nhàng hơn. Song lên lớp 4, bước sang
giai đoạn học tập mới, khối lượng kiến thức ở các môn học nhiều hơn, cao hơn. Ví
4


dụ: Các văn bản của môn Tiếng Việt dài hơn, kiến thức môn Toán mới, nhiều và cao
hơn. Các môn học mới hơn: Khoa học, Lịch sử - Địa lí,...Đòi hỏi tư duy, tính học tập

của học sinh nghiêm túc hơn, kĩ năng tự học nhiều hơn. Vì vậy qua một thời gian
làm quen lớp, với sự quan sát, khảo sát chất lượng học tập tôi tổng hợp được kết quả
như sau:
Tổng
Môn

số
học

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàm
thành

SL

%

SL

%

SL

%

19


2

10,5

10

52,6

7

36,9

19

3

15,8

8

42,1

8

42,1

sinh
Tiếng
Việt
Toán


Kết quả trên có thể xuất phát từ nhiều lí do: Sau hơn hai tháng hè các em tự
do bay nhảy, không phải đến lớp đến trường nên phần nào đã quên kiến thức. Nề
nếp đầu năm học còn lộn xộn, một số em chưa quen với việc dậy sớm để đi học
đúng giờ nên vẫn con tình trạng học sinh đi học trễ. Sự chuẩn bị bài vở, đồ dùng học
tập ở nhà của các em chưa chu đáo. Ý thức tự giác hoàn thành nhiệm vụ học của một
vài cá nhân còn hạn chế. Hội đồng tự quản làm việc hiệu quả chưa cao.
Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn trăn trở tìm ra được những biện pháp để
giáo dục học sinh phải đạt chuẩn KTKN của các môn học; hoàn thành tốt và đạt
được các năng lực, phẩm chất theo yêu cầu của lớp 4 để nâng cao chất lượng giáo
dục. Hội đồng tự quản làm việc tích cực và tự giác, các em có thể tự điều khiển được
lớp học thậm chí không cần sự tham gia của giáo viên. Các em là học sinh dân tộc
thiểu số phát triển vốn ngôn ngữ và phát triển thêm các năng lực, phẩm chất, mạnh
dạn, tự tin trong giao tiếp, ứng xử . Học sinh phấn khởi, hào hứng khi đến trường,
tích cực tham gia vào các hoạt động học tập. Các em không chỉ có ý thức tự giác
trong học tập như lo học bài cũ, chuẩn bị bài mới, đi học chuyên cần mà còn hỗ trợ
nhau cùng tiến bộ ( em biết nhiều giúp em biết ít). Các em gần gũi với cô hơn, sẵn
5


sàng chia sẻ mọi chuyện, coi cô như là người chị, người bạn của mình; được làm
việc nhiều hơn, yêu thích việc học; các em được Học ⇒Hỏi ⇒Hiểu ⇒ Thực hành
= > Vận dụng.
Mỗi chúng ta làm công tác chủ nhiệm muốn bảo đảm công tác chuyên môn
lẫn công tác chủ nhiệm thật tốt, đòi hỏi phải có tâm và có tài. Tâm của người GVCN
là xem các em như con để không ngại tốn thời gian, công sức cho lớp mình phụ
trách. Tài của GVCN là tùy theo đặc điểm, tình hình lớp mà có những biện pháp phù
hợp để quản lý và giáo dục lớp mình chủ nhiệm.
Đầu năm, khi nhận lớp việc đầu tiên tôi làm là nắm bắt thông tin cá nhân từng
em qua lý lịch trích ngang theo mẫu in sẵn. Từ đó tôi phân hóa các đối tượng học

sinh để có biện pháp giáo dục. Từ những thông tin tìm hiểu được, tôi gần gũi trò
chuyện tiếp xúc với các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có
thể dễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi cần thiết.
Qua đó, thầy cô hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ nông cạn, sai
lầm hay các hành vi không hay… hướng các em vào điều tốt đẹp, lạc quan hơn.
Song song với vấn đề trên, việc tạo mối quan hệ mật thiết với cha mẹ HS cũng
là điều hết sức quan trọng. Không đợi đến các cuộc họp phụ huynh hay khi các em
vi phạm nội qui trường lớp mới mời phụ huynh lên để trao đổi. Tôi thường xuyên
trao đổi với phụ huynh qua các phương tiện thông tin, đến gia đình học sinh trao đổi,
tư vấn cách dạy dỗ con học và cách cha mẹ học sinh cùng học với con. Từ đó tạo
được mối quan hệ thân mật giữa tôi với gia đình học sinh. Qua đó phụ huynh có
hứng thú, hào hứng và thỏa mái cùng tham gia vào quá trình đánh giá học sinh theo
tinh thần của Thông tư 22
Tôi luôn đóng vai trò làm chiếc cầu nối giữa nhà trường với học sinh và gia
đình học sinh, giữa các giáo viên bộ môn với học sinh… Một nhiệm vụ không thể
thiếu đó là phải có kế hoạch và biện pháp giúp cho lớp nâng dần chất lượng học tập,
năng lực và phẩm chất ngày một cao hơn. Trước tiên, phải làm cho các em thích đi
học. Phân nhóm học tập cùng sở thích. Xây dựng “ Lớp học thân thiện, học sinh tích
6


cực”. Dạy học phải phân hóa được đối tượng học sinh và nâng cao chất lượng đại
trà. Qua mỗi tiết học, mỗi hoạt động học tôi đều chú trọng đến hoạt động thực hành
kĩ năng sống cho học sinh.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp
Đề tài đưa ra những biện pháp mà người giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện
tốt để giáo dục học sinh lớp 4 về kiến thức, năng lực và phẩm chất giúp học sinh
thích đến trường, thích được học và tìm được niềm vui ở đó, tìm được sự tin tưởng,
tìm được tình bạn trong sáng, tình thầy trò cảm động. Nơi các em được ươm mầm,

được chăm sóc và yêu thương. “Chính sự quan tâm, lòng yêu thương và sự chia sẻ
của người thầy đã giúp những đứa trẻ phát huy hết khả năng của chúng.” – theo John
O’brien.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b. 1 Nắm thông tin học sinh
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đề ra các biện pháp giáo dục học sinh
phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy
đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Do vậy, ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi
thực hiện ngay công tác điều tra thông qua mẫu phiếu điều tra của trường. Tôi phát
cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu các em điền đầy đủ thông tin trong phiếu.
Qua phiếu điều tra, tôi nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học
sinh, hiểu một phần về học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho tôi trong công tác
giảng dạy và giáo dục.
Ví dụ: em Đỗ Thị Ngọc Quyên bố gặp tai nạn bị mù phải tham gia vào Hội
người mù của tỉnh nhà đi kiếm tiền gởi về cho mẹ em nuôi 3 con ăn học. Em H’ Dên
bố mất sớm, mẹ nghiện rượu thường xuyên đánh đập em. Em H’ SaRa bị bệnh tim
bẩm sinh...Trong lớp có tổng số 7 hộ nghèo.
Căn cứ vào tình hình của lớp dưới qua dự giờ, thăm lớp và các bài kiểm tra,
Bảng tổng hợp kết quả đánh giá giáo dục của lớp, lời nhận xét trong học bạ... để biết
7


được học lực của từng em, biết các em mạnh ở điểm nào, hạn chế ở đâu để có kế
hoạch trong công tác giảng dạy.
Ví dụ: em H’Kim Tha hát hay múa dẻo. Em H’Tra rất thích học môn Tiếng
Anh. Em Nguyễn Văn Tài nhút nhát, sợ giao tiếp trước đám đông...
Qua điều tra về thông tin học sinh giúp tôi định hướng được kế hoạch chủ
nhiệm và kế hoạch dạy học để từng bước giúp các em hoàn thiện hơn những hạn
chế của bản thân và phát huy hết năng lực vốn có của mình
b. 2 Hoàn thiện tổ chức lớp và tiêu chí thi đua

Trong mô hình lớp học VNEN, ban tự quản lớp học năng động, sáng tạo và có
trách nhiệm sẽ hỗ trợ rất nhiều cho giáo viên trong công tác giáo dục và đây cũng là
việc làm khá quan trọng trong công tác chủ nhiệm. Chính vì vậy ngay từ đầu năm
học tôi đã hoàn thiện được tổ chức lớp học.
Hội đồng tự quản lớp tốt thì sẽ giúp lớp có nề nếp tự quản tốt, tôi đã chú trọng
việc bồi dưỡng ý thức và công việc phải làm cho Hội đồng tự quản. Phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng ban. Vào các buổi sinh hoạt tập thể, dưới sự hướng dẫn
của tôi Hội đồng tự quản đã điều hành mỗi hoạt động của buổi sinh hoạt lớp. Mấy
tuần đầu các em còn bỡ ngỡ, sau một thời gian dưới sự hướng dẫn của tôi các em đã
mạnh dạn điều hành được buổi sinh hoạt lớp một cách nhịp nhàng phát huy tính tự
quản cũng như rèn học sinh trong lớp kĩ năng giao tiếp, mạnh dạn, tự tin.
Song song với việc thành lập Hội đồng tự quản là việc cùng với học sinh và
các ban xây dựng tiêu chí thi đua. Việc xây dựng tiêu chí thi đua rất quan trọng vì
thi đua thúc đẩy phát triển của nhóm của lớp. Ngay từ đầu năm tôi cùng với Hội
đồng tự quản và các nhóm trưởng xây dựng tiêu chí thi đua. Sau đó thông qua cả lớp
để xin ý kiến đóng góp của từng cá nhân để hoàn thiện và thực hiện. Thông qua và
xin ý kiến phụ huynh tại cuộc họp phụ huynh đầu năm. Sau đó thống nhất, đưa ra
tập thể lớp kí cam kết và thực hiện, lấy đó làm cơ sở để xếp loại thi đua.
Ví dụ: Một số tiêu chí thi đua như sau:

8


- Học tập (50 điểm): Tích cực, tự giác và hoàn thành các nhiệm vụ học tập, đi
học đều và đúng giờ; có ý thức rèn chữ giữ vở, có tinh thần giúp đỡ nhau trong học
tập; biết giữ gìn, khai thác và xây dựng các góc công cụ.
- Nề nếp (20 điểm): Xếp hàng vào lớp và ra về ngay ngắn, trật tự, tham gia tập
thể dục buổi sáng và giữa giờ nghiêm túc, trang phục đến lớp đúng quy định: khăn
quàng, quần áo đồng phục,…chấp hành nghiêm nội quy trường lớp.
- Vệ sinh (20 điểm): Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, có ý thức giữ vệ sinh trường

lớp.
- Các hoạt động khác (10 điểm): Tham gia mọi phong trào do trường, lớp tổ
chức.
Các nhóm trưởng, ban tự quản của lớp tổng hợp, căn cứ vào kết quả đạt được
để xếp loại thi đua cá nhân, nhóm.
Xây dựng Hội đồng tự quản là một việc làm hết sức quan trọng, nó đã góp
nên sự thành công của tôi trong việc thực hiên nhiệm vụ của đề tài. Việc xây dựng
tiêu chí thi đua cũng có sự điều chỉnh và thay đổi, bổ sung kịp thời tùy theo tình
hình thực hiện nội quy, nề nếp và ý thức rèn luyện của học sinh. Giúpcho mỗi em có
cơ sở để phấn đấu và việc làm này cũng giúp giáo viên thực hiện dễ dàng trong việc
đánh giá thường xuyên.
b. 3 Duy trì sĩ số, đảm bảo tỉ lệ chuyên cần
Để việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh thì việc duy trì sĩ số/ ngày là
việc làm quyết định vì học sinh có đến lớp học thì các em mới thiếp thu được kiến
thức từ đó mới có kiến thúc để phát triển toàn diện.
Với điểm trường mà tôi đang dạy, học sinh phần đa là con em người dân tộc
thiểu số ( 12/ 19 học sinh), gia đình có hoàn cảnh khó khăn ( hộ nghèo 5 em, có em mồ
côi mẹ cha đi lấy vợ phải ở với ông bà; có em mồ côi cha, mẹ lại nghiện rượu;... ). Cha
mẹ các em phải lo bữa ăn hàng ngày cho gia đình, một số phụ huynh ít quan tâm đến
việc học tập của các em nên việc các em nghỉ học, bỏ học ảnh hưởng đến việc tiếp thu
bài và kết quả học tập là điều không tránh khỏi. Chính vì lẽ đó để chất lượng giáo dục
9


được nâng cao thì việc duy trì sĩ số, đảm bảo tỉ lệ chuyên cần là vô cùng quan trọng.
Vì vậy để duy trì sĩ số, đảm bảo tỉ lệ chuyên cần tôi đã thực hiện như sau:
Ví dụ: Phổ biến nội quy lớp ngay tuần đầu của năm học. Quy định rõ: học sinh
phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép. Ngay
buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm tôi thông báo cho phụ huynh biết về quy định
và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở. Học sinh đến trường tự mình đánh

dấu vào Bảng theo dõi “Ngày em đến lớp”. Tôi liên lạc ngay với phụ huynh đối với
những trường hợp học sinh tự ý bỏ học. Động viên, tuyên dương kịp thời những em
có tiến bộ, khuyến khích các em có sự phấn đấu cao hơn. Quan tâm đến học sinh có
hoàn cảnh khó khăn: Đăng kí cho các em được nhận dụng cụ, sách vở, quần áo do
Nhà trường, Liên đội và các tổ chức từ thiện hỗ trợ ngay từ đầu năm. Mua sẵn bút
chì, thước, ruột bút kim,… để trong cặp khi các em bị hết mực, hư hỏng, mất mát thì
đã có ngay để dùng. Kêu gọi các học sinh trong lớp dành tặng bạn một số quần áo cũ
và tranh thủ sự hỗ trợ từ một số giáo viên, phụ huynh. Gặp trực tiếp ban tự quản
thôn buôn, Hội phụ nữ của thôn buôn trao đổi tình hình của em H’ Dên đề cùng tôi
đến gia đình động viên, tư vấn. Qua các việc làm trên đến nay em Y Qúy, H’ Salem
đã đi học đều, không nghỉ buổi học nào nữa, ý thức học tập của em Y Năng, Y Hưng
đã tốt hơn. Mẹ em H’ Dên đã bớt uống rượu, quan tâm hơn đến việc học của con và
không còn đánh đập em nữa. Em Hiếu nhà nghèo thường nghỉ học vì không có quần
áo đi học, giờ đây em đã tự tin đến trường vì em đã được Đội tặng áo quần. .. Mỗi
lần có học sinh nghỉ học phụ huynh đã chủ động liên lạc với tôi. Bản thân tôi thường
xuyên nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo việc dạy học cho học sinh có hoàn cảnh khó
khăn để đưa ra các phương pháp, hình thức và nội dung dạy học cho phù hợp với chuẩn
kiến thức kĩ năng mà các em cần đạt được.
Việc duy trì được sĩ số tốt là cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục hai mặt ở
học sinh. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, không ngại khó,
ngại khổ, thường xuyên liên hệ với gia đình học sinh làm công tác tư tưởng và động

10


viên học sinh ra lớp. Trên lớp tạo điều kiện cho các em được làm việc, được hợp tác
và được vui chơi.
b. 4 Xây dựng “ Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
Để tạo không gian lớp học thân thiện, gần gũi và lôi cuốn học sinh tôi tiến
hành việc trang trí lớp học theo mô hình trường học mới gồm nhiều góc được trang

trí phục vụ cho các môn học (Môn Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử - Địa lí,…).
Ví dụ: Trong giờ học nhóm trưởng đến góc học tập lấy phiếu bài tập hoặc bài tập
nâng cao. Giờ ra chơi học sinh vào góc thư viện đọc sách báo. Các em trưng bày
những sản phẩm học tập để các bạn chia sẻ. Các em tới thư viện xanh chăm sóc cây
xanh, khám phá thiên nhiên… Những góc công cụ tạo điều kiện để các em chủ động
tìm tòi tư liệu, thông tin, được trình bày, biểu diễn những kết quả học tập. Phụ
huynh cũng được đến thăm các em học như thế nào và có điều kiện có thể giúp đỡ
các em. Học sinh được học tập ngay trong quá trình trang trí các góc.Việc học đã
không đơn giản là đọc chép, mà có học, có nghiên cứu, có trình bày, báo cáo. Các
em có điều kiện học tập với các tài liệu, các kiến thức mà mình và bạn tìm kiếm
được.
Vì vậy việc xây dựng các nhóm học tập cùng sở thích với mô hình VNEN,
chủ yếu việc học của học sinh là học nhóm để cùng nhau thi đua. Ví dụ: Mỗi nhóm
tôi phân một nhóm trưởng, một quyển sổ theo dõi học tập và các mặt hoạt động của
từng thành viên trong nhóm. Khuyến khích tinh thần đoàn kết của mỗi nhóm để các
thành viên giúp đỡ lẫn nhau sao cho các bạn học chậm hơn theo kịp, nếu các bạn
chưa hiểu bài thì nhóm trưởng phân công bạn cùng trong nhóm giảng lại cho bạn
hiểu. Đồng thời giao cho nhóm trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài vở ở nhà, cũng
như đồ dùng học tập, sách vở của các bạn trong nhóm. Khi giáo viên giao nhiệm vụ
tránh trường hợp HS chưa tự giác nhóm trưởng sẽ có trách nhiệm nhắc nhở bạn, nếu
bạn không thực hiện thì báo cáo cô giáo kịp thời.
Mục tiêu của mỗi tiết hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đều chú trọng đến
hoạt động thực hành kĩ năng sống. Nếu học sinh chỉ quan tâm vào việc học tập các
11


môn chính thức mà ít tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào văn hóa
văn nghệ, thể dục thể thao thì các em sẽ thiếu linh hoạt, thiếu tự tin khi đứng trước
đám đông hoặc đứng trước lớp để trình bày một bài hát hay một vấn đề nào đó. Và
ngược lại nếu được tham gia tốt các phong trào thì các em sẽ xử lí vấn đề nhanh

nhẹn hơn, mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Thông qua các hoạt động đó, tinh thần đoàn
kết, ý thức tập thể cũng được hình thành và vun đắp. Như vậy, có thể khẳng định
rằng: môn học giúp cho các em xóa bỏ tính rụt rè, nhút nhát; rèn luyện tính mạnh
dạn, sự tự tin đó chính là hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các em sẽ dần được
hình thành kĩ năng sống qua mỗi hoạt động này. Người giáo viên chủ nhiệm chính là
người cố vấn giúp học sinh tham gia vào các hoạt động để rèn luyện các kĩ năng cơ
bản, cần thiết cho mình. Góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh.
Bằng việc làm trên tôi nhận thấy rằng trang trí được một lớp học thân thiện
và xây dựng được các nhóm học tập sẽ làm cho học sinh hứng thú hơn trong học
tập, rèn luyện được tinh thần đoàn kết và tránh được tình trạng “bỏ sót” học sinh.
Bên cạnh đó giáo dục kỹ năng sống là yếu tố quan trọng góp phần đổi mới toàn
diện nền giáo dục đào tạo gắn với 4 mục tiêu quan trọng: học để biết, học để làm,
học để chung sống, học để khẳng định mình.
b. 5 Dạy học phân hóa đối tượng học sinh
Tôi luôn học hỏi ở đồng nghiệp và nắm bắt tình hình của lớp để đổi mới
phương pháp, hình thức dạy học, điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học phù hợp với
từng đối tượng học sinh và huy động được tất cả các em hứng thú tham gia vào quá
trình học, không còn học sinh nào đứng ngoài lề tiết học, đảm bảo dạy làm sao cho
vừa sức với đối tượng: Học sinh hoàn thành tốt thì dạy sao cho các em hứng thú,
đam mê với việc học. Đối với học sinh hoàn thành thì tạo động lực để các em vươn
lên. Với học sinh cần cố gắng phải đạt chuẩn kiến thức kĩ năng, bù đắp được chỗ
hổng về kiến thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản.

12


Ví dụ: Khi dạy Tiếng Việt liên quan đến bài đọc thì có học sinh cần đọc diễn
cảm và hiểu được văn bản mình vừa đọc ở các mức độ khác nhau, nhưng cũng có
học sinh chỉ đọc bình thường, thậm chí có em tôi chỉ yêu cầu đọc trơn được một

đoạn. Trong các môn học tôi luôn thiết kế thêm một số bài tập ở các mức độ khác
nhau để dành cho các đối tượng học sinh. Và đây là một hình ảnh dạy học chưa phân
hóa đối tượng học sinh mà tôi sưu tầm.

Với hình thức dạy học này, tôi phải xây dựng kế hoạch bài dạy của mình sao
cho phù hợp nhất có thể, nhằm công nhận các điểm khác biệt của học sinh trong lớp.
Tôi mạnh dạn điều chỉnh nội dung để đáp ứng năng lực, kinh nghiệm, và mối quan
tâm của học sinh. Đưa ra nhiều cách thức khác nhau để đạt được mục tiêu bài học.
Cho phép học sinh được chứng minh hiểu biết của mình theo nhiều cách có ý nghĩa.
Cho phép tồn tại sự đa dạng trong môi trường học tập dựa vào nhu cầu của từng học
sinh. Chính vì vậy việc phân nhóm học sinh có nhu cầu hoặc sở thích tương tự ở trên
đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong công tác giáo dục học sinh.
b. 6 Phối hợp với các lực lượng trong công tác giáo dục học sinh
13


* Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường
- Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường bằng việc thường xuyên báo cáo
tình hình của lớp và kết quả giáo dục, nguyện vọng của học sinh với Ban giám hiệu,
trong trường hợp cần thiết phải đề xuất, xin ý kiến về biện pháp giáo dục và đề nghị
với Ban giám hiệu cùng phối hợp thống nhất tác động sư phạm đối với từng cá nhân
đó.
- Phối hợp với giáo viên bộ môn, trao đổi với giáo viên bộ môn về tình hình
học tập các phân môn khác để có những biện pháp giáo dục kịp thời và đánh giá kết
quả phấn đấu toàn diện của học sinh như: kết quả học tập, rèn luyện thể chất, bồi
dưỡng óc thẩm mĩ và kết quả tu dưỡng đạo đức của học sinh.
- Phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội (trong lớp có 1 HS tham gia vào BCH
Liên đội) giúp các em có điều kiện tham gia hay gia nhập tổ chức này từ đó giúp các
em tự tin hơn và dễ hoà nhập vào môi trường tập thể.
- Phối hợp với các lực lượng giáo dục: bảo vệ, thư viện, y tế. Thông qua các

lực lượng này giáo viên sẽ tìm hiểu một cách khách quan học sinh mà mình đang
giáo dục về các mặt như: việc mượn sách và đọc sách, việc thực hiện nề nếp và
những quy định chung của trường, tình hình sức khoẻ…
* Phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường
- Phối hợp với gia đình để nắm được điều kiện cụ thể của học sinh đó và
tuyên truyền, vận động gia đình học sinh có những nhận thức đúng đắn về vai trò
của mình trong việc chăm sóc giáo dục con em. Từ đó vận động họ hợp tác tích cực
trong việc giáo dục con em học tập, sinh hoạt như: hướng dẫn con tự sắp xếp góc
học tập, tự học bài ở nhà; đi học chuyên cần, tạo điều kiện về thời gian, kiểm tra
sách vở, nhắc nhở các em.
- Phối hợp với Hội cha mẹ học sinh nhằm nắm thông tin kết quả rèn luyện,
tinh thần học tập của con em ở địa phương, ở gia đình, cung cấp thông tin về kết quả
học tập của các học sinh tiêu biểu, học sinh còn vướng mắc… Từ đó tham mưu, đôn
đốc ban chấp hành thực hiện tốt nhiệm vụ của Chi hội, của gia đình học sinh.
14


- Phối hợp với chính quyền, đoàn thể xã hội, cơ quan chức năng, tổ chức kinh
tế ở địa phương xây dựng một mạng lưới cộng tác viên đó là những người có uy tín (
trưởng thôn, buôn), có năng lực hoạt động các mặt giáo dục (thầy cô giáo về hưu
hay giáo viên địa phương), nhờ họ giúp đỡ trong công tác giáo dục học sinh đặc biệt,
học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
b. 7 Người giáo viên phải có các hình thức giáo dục “cá biệt”
Đây là nhiệm vụ chung của mỗi giáo viên, cần có phương pháp giáo dục đối
với từng cá nhân học sinh nhằm bảo đảm sự phù hợp với từng đối tượng cả về mức
độ, yêu cầu, cường độ và mức độ tác động.
Xuất phát từ lương tâm nghề nghiệp, người giáo viên phải cảm hoá, thuyết
phục hoặc mệnh lệnh yêu cầu học sinh phải thực hiện, chấp nhận quan điểm, chuẩn
mực hành vi đạo đức mà mình đặt ra. Tạo ra những chuyển biến tâm lí: thái độ, tình
cảm, hành vi mới, tích cực ở học sinh. Tuy nhiên phải tác động kịp thời, đúng mức

độ, khéo léo với thái độ và tình cảm tôn trọng, yêu thương chân thành trong quan hệ
thầy trò khi nói chuyện giúp các em cởi mở hơn, tự tin hơn và giáo viên nắm bắt
được nhiều hơn. Người giáo viên phải gây được thiện cảm và có uy tín với học sinh
đó. Giáo dục học sinh bằng viễn cảnh:
Ví dụ: Phải phân tích, giải thích, minh chứng cụ thể những sự việc xảy ra
hàng ngày trong cuộc sống gia đình và ngoài xã hội mà các em thấy được, khơi dậy
lòng hiếu thảo của một người con khi chính mắt nhìn thấy cha mẹ vất vả kiếm tiền
lo cho con ăn học với mong muốn con mình học tập tốt – có nghề nghiệp ổn định –
người có ích cho xã hội sau này, để từ đó các em hiểu rõ mục đích, lý do mà các em
phải đi học, một khi các em đã nhận thức đúng đắn về việc học tập của mình rồi thì
sẽ dễ dàng hướng các em đến ước mơ, hoài bão về tương lai sự nghiệp của bản thân
mình.
Tôi quan tâm tới nguyện vọng, quyền lợi của mỗi học sinh để phát triển tối đa
tiềm năng. Tôi đặt niềm tin và giao việc phù hợp với khả năng của mỗi em học sinh
bằng việc đề cao mặt tốt, khả năng tốt của học sinh để các em phấn khởi và phát huy
15


cái tốt, trên cơ sở đó khắc phục dần những hạn chế của bản thân, tạo điều kiện để
các em đóng góp và chứng minh mình có khả năng đóng góp cho tập thể, không mặc
cảm, tự ti. Tôi theo dõi thường xuyên và động viên kịp thời những biểu hiện tốt (dù
là nhỏ hoặc mới manh nha), tuyên dương khen ngợi khi học sinh thực hiện công việc
đạt kết quả. Có thể đánh giá học sinh này cao hơn một chút so với kết quả đã đạt
được từ đó học sinh sẽ tự khẳng định mình và tự thấy phải cố gắng hơn để thực sự
xứng đáng với sự khen ngợi đó, từ đó các em tự có nhu cầu tự hoàn thiện mình vì
thế giáo viên phải là người bạn tâm tình với những tình cảm chân thành, thương yêu,
tôn trọng học sinh, mong muốn học sinh tiến bộ và tạo cho học sinh có niềm tin đối
với bản thân.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Mỗi giải pháp, biện pháp đều có sự tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau trong

quá trình giáo dục. Để nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4 tất cả các
biện pháp tôi đưa ra và áp dụng đều rất hiệu quả. Mỗi người giáo viên như là một
nghệ sĩ mà biện pháp đưa ra là một nghệ thuật. Cho nên với đề tài này tôi có một số
lưu ý: Trong quá trình đánh giá thường xuyên cần cụ thể, gọi tên các phẩm chất;
đánh giá phải chân thật, gây được cảm xúc tích cực nơi người nghe; cần đánh giá
ngay hành vi tích cực khi nó vừa xuất hiện nhất là với những em hay mắc khuyết
điểm, những em học chậm, nhút nhát. Ví dụ: Trong giờ luyện viết học sinh viết bài
chưa đúng mẫu tôi vẫn khen “ Hôm nay cô thấy em rất tích cực rèn chữ, cô vui lắm.
Lần sau em nhớ viết chữ đúng mẫu hơn nhé”. Trong giờ đọc học sinh đọc còn nhỏ,
khen học sinh “ Đọc hay, diễn cảm”, nhắc học sinh “ Lần sau em đọc to lên nhé để
các bạn được thưởng thức giọng đọc của em”… Khi phê bình HS cũng cần lưu ý là
phê bình hành vi cụ thể chứ không khái quát hoá thành phẩm chất nhân cách; khi
phê bình không được chì chiết, nhắc đi nhắc lại những khuyết điểm đã xảy ra từ lâu.
Ví dụ: Học sinh nói chuyện và làm việc riêng trong giờ học tôi sẽ nhắc nhở nhẹ
nhàng “ Em hãy nhớ lại nội quy lớp học giúp cô và cô rất mong em hãy chú ý vào
bài học”.
16


Với mỗi tiết học để củng cố kiến thức đã học tôi xây dựng những câu hỏi trắc
nghiệm liên quan đến các môn học: Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử & Địa lí
hay An toàn giao thông,…. Tạo ra các sân chơi, mỗi sân chơi là một chủ đề thảo
luận giúp các em được rèn luyện và học tập tốt hơn. Thực hành kĩ năng sống cho các
em qua mỗi tiết học, các em thích thú được đóng vai, hăng say nói, viết ra những
điều mình đã làm được và vui vẻ chia sẻ trước lớp để các bạn học tập, ví dụ: Giúp
đỡ ba mẹ công việc gia đình, học sinh tự chăm sóc bản thân, sống yêu thương nơi
khu xóm,… Các em cũng rất sôi nổi và hứng thú khi tham gia các phong trào mang
tính nghệ thuật như múa, hát, kể chuyện, bày tỏ ý kiến, diễn kịch trước lớp, các em
thích khẳng định mình, thích được biểu dương. Đó cũng là một sân chơi bổ ích phát
huy được tính tích cực, tự giác, năng lực sở trường của mỗi cá nhân.

Sau mỗi tiết học, hoạt động học tôi đã nhận xét về năng lực, phẩm chất của
những em có tiến bộ vượt bậc, những em đã phát huy năng khiếu, sở trường của
mình đã bộc lộ được để khích lệ, động viên kịp thời. Với những em chưa trả lời
được các câu hỏi, các hành vi thực hiện chưa đúng thì tôi tư vấn, động viên để các
em nhận ra và sửa chữa qua đó các em sẽ nhớ lời tư vấn của cô để tiết sau hoàn
thành tốt hơn, tiến bộ hơn. Mỗi học sinh chắc chắn sẽ có một số ưu, khuyết điểm
cũng như mặt mạnh, mặt yếu nhất định vì vậy người giáo viên cần có những giải
pháp, biện pháp giúp các em phát huy mặt mạnh và khắc phục những mặt còn hạn
chế để các em được phát triển một cách toàn diện.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi
và hiệu quả ứng dụng.
Từ việc thực hiện đồng bộ những biện pháp trên, cuối học kì 1 lớp 4D đã ổn
định được nề nếp, duy trì sĩ số. Trong học tập so với đầu năm học đã có sự tiến bộ,
cụ thể như sau:
Giữa kì I
Môn

Tổng
số học

Hoàn thành tốt
SL

%

Hoàn thành
SL

%


Chưa hoàm thành
Số lượng

%
17


Tiếng Việt

sinh
19

5

26,3

9

47,4

5

26,3

Toán

19

7


36,85

7

36,85

5

26,3

Cuối học kì I
Tổng
Môn

số học
sinh

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%


Số lượng

%

Tiếng Việt

19

6

31,6

10

52,6

3

15,8

Toán

19

8

42,1

8


42,1

3

15,8

Khoa học

19

6

31,6

10

52,6

3

15,8

LS-ĐL

19

6

31,6


10

52,6

3

15,8

Tiếng Anh

19

5

26,3

12

63,2

2

10,5

Tổng
Môn

số học


Mĩ thuật
Kĩ thuật
Thể dục

SL

%

Số lượng

%

19

3

15,8

14

73,7

2

10,5

19

3


15,8

15

79

1

5,2

19

5

26,3

14

73,7

0

0

19

7

36,85


12

63,2

0

0

số học

vụ, tự quản
Hợp tác
Tự học
GQVĐ

Tốt

Đạt

Cần cố gắng

SL

%

SL

%

Số lượng


%

19

5

26,3

12

63,2

2

10,5

19

7

36,85

9

47,4

3

15,8


19

5

26,3

11

57,9

3

15,8

sinh
Tự phục

Chưa hoàn thành

%

Tổng
Năng lực

Hoàn thành

SL

sinh

Âm nhạc

Hoàn thành tốt

18


Tổng
Phẩm chất

số học

chăm làm
Tự tin, trách
nhiệm
Trung thực, kĩ
luật
ĐK yêu
thương

Đạt

Cần cố gắng

SL

%

SL


%

Số lượng

%

19

7

36,85

9

47,4

3

15,8

19

6

31,6

10

52,6


3

15,8

19

7

36,85

10

52,6

2

10,5

19

8

42,1

9

47,4

2


10,5

sinh
Chăm học,

Tốt

Học sinh phấn khởi và hứng thú mỗi khi đến lớp, đến trường. Sĩ số lớp duy trì
100 %. Học sinh đi học chuyên cần. Các em luôn có ý thức tự quản và hoàn thành
các nhiệm vụ học tập. Chất lượng giáo dục hai mặt của lớp được nâng lên, hiện
tượng học sinh lười học, chưa ngoan không còn nữa. Các em chấp hành và tham gia
tất cả các phong trào thi đua của lớp, của trường nhiệt tình và hiệu quả. Luôn phát
huy được tinh thần đoàn kết, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau. Những kĩ năng sống cần
thiết của các em được hình thành và phát triển: kĩ năng hợp tác, kĩ năng lắng nghe,
kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tổ chức và điều khiển các hoạt
động tập thể, kĩ năng đánh giá và tự đánh giá,… Có được kết quả trên là nhờ sự nỗ
lực từ nhiều phía tuy nhiên không thể không nhắc đến sự phối hợp và ủng hộ của
cha mẹ HS, các tổ chức trong nhà trường và sự nỗ lực của chính các em.
Tôi đã có được những kinh nghiệm để xây dựng kế hoạch chủ nhiệm, kế
hoạch dạy học cụ thể, đưa ra biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp.
Qua đó có kế hoạch phối hợp hoàn hảo với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường
để góp phần cùng nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Tôi cũng đã chắt lọc được
những kinh nghiệm quý báu mà mình đã thực hiện làm tiền đề cho những năm học
sau. Trong quá trình thực hiện tôi vừa học vừa làm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
III. Phần kết luận, kiến nghị.
19


1. Kết luận
Muốn làm tốt công tác nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4 đòi

hỏi người giáo viên phải có kiến thức vững vàng, phải có kỹ năng sư phạm, phải biết
giao tiếp, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để nhanh chóng đi vào thế giới tâm
hồn của trẻ thơ một cách hấp dẫn, dễ dàng. Vậy người giáo viên phải thực sự yêu
nghề mến trẻ, coi các em như chính con em của mình. Đồng thời phải là tấm gương
sáng cho học sinh noi theo, thực sự là người cha, người mẹ trong việc giáo dục các
em.
Trong công tác chuyên môn phải xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng tuần,
từng tháng và cho cả năm học. Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng Hội đồng tự quản
của lớp, huấn luyện để các em trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài ba. Luôn
giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên
nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn, hợp tình, hợp lí; tránh
trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang, thiếu niềm tin vào người
thầy. Luôn biết khích lệ biểu dương các em kịp thời. Hãy khen ngợi những ưu điểm
sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao, có niềm tin và
hứng thú học tập hơn. Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một
người thầy đối với học sinh. Hãy nhớ rằng lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của
người thầy luôn có một sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh.
Duy trì và sáng tạo trong công tác xây dựng “Lớp học thân thiện học sinh tích cực”,
làm sao để tất cả các em luôn cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh; kiên trì vận động phụ huynh tích cực
tham gia vào công tác giáo dục học sinh.
Tôi tin rằng với những biện pháp mà bản thân đã thực hiện tại lớp chủ nhiệm
trong những năm học vừa qua sẽ đem lại thành quả tốt cho việc giáo dục toàn diện
học sinh lớp 4 ở Trường Tiểu học lê Hồng Phong nói riêng và các trường tiểu học trên
địa bàn huyện nói chung.

20


Trong khuôn khổ bài viết còn hạn hẹp, chắc hẳn còn nhiều hạn chế, tôi mong

được sự chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp. Tôi hy vọng rằng với một số biện pháp
mà tôi còn bỏ ngỏ, chưa khai thác hết sẽ được đồng nghiệp nghiên cứu và góp ý
thêm để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Nếu có điều kiện năm học tới tôi sẽ tiếp
tục nghiên cứu thêm những giải pháp khác để hỗ trợ và làm phong phú thêm cho đề
tài này.
2. Kiến nghị
- Ngành tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất đến từng phòng học như: bàn ghế, thiết
bị dạy - học cho giáo viên và học sinh đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để
việc dạy học đạt kết quả tốt hơn.
- Nhà nước tiếp tục có chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, học sinh là người
dân tộc thiểu số về điều kiện vật chất để các em có cơ hội đến trường.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hương

21


MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

11
12
13
14
15
16
17

Mục
I. Phần mở đầu
I.1/ Lí do chọn đề tài
I.2/ Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
I.3/ Đối tượng nghiên cứu
I.4/ Giới hạn của đề tài
I.5/ Phương pháp nghiên cứu
II. Phần nội dung
II.1. Cơ sở lí luận
II.2. Thực trạng về vấn đề nghiên cứu
II. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp
3. a. Mục tiêu của giải pháp
3. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
3. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
3. d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng
III. Kết luận, kiến nghị
III.1. Kết luận
III.2. Kiến nghị

Trang
1

1
2
2
2
2
3
3
4
7
7
7
16
17
20
20
21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Để nghiên cứu, thực hiện đề tài này, tôi đã tham khảo thêm một số tài liệu
sau:
1. Điều lệ trường tiểu học - bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo (Ban hành kèm
theo quyết định số 51/2007 QĐ - BGDĐT NĂM 2007)

22


2. Tài liệu tập huấn công tác chủ nhiệm lớp cho cán bộ quản lý và giáo viên
tiểu học (Năm học 2013- 2014 ) - do Hoàng Đức Minh (chủ biên)
3.Thông tư số 30/2014/TT- BGDĐ về việc ban hành Quy định đánh giá học
sinh tiểu học.

4. Nghiên cứu các tài liệu bồi dưỡng giáo viên ( “ Tâm lí học”, “ Giáo dục
học”…)

23



×