Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

TIỂU LUẬN ĐẢNG LÃNH đạo GIẢI QUYẾT mối QUAN hệ GIỮA xây DỰNG và bảo vệ MIỀN bắc xã hội CHỦ NGHĨA từ năm 1965 đến năm 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.71 KB, 39 trang )

Đảng lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968
MỞ ĐẦU
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) của dân tộc Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thắng lợi hoàn toàn, Tổ quốc
thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Suốt 21 năm tiến hành cuộc kháng
chiến, chúng ta đã đánh thắng bốn chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Trong
đó giai đoan từ năm 1965 đến năm 1968 đế quốc Mỹ triển khai chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ trực tiếp vào miền Nam và tiến hành leo thang đánh
phá miền Bắc Việt Nam. Lúc này, cả nước có chiến tranh với mức độ khác nhau.
Miền Bắc chuyển từ trạng thái thời bình sang trạng thái thời chiến và đứng trước
những thách thức lớn lao. Trong hàng loạt các vấn đề cần giải quyết nổi lên vấn đề
Đảng lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng
sản Việt Nam, quân và dân miền Bắc đã khắc phục khó khăn vừa chiến đấu vừa
sản xuất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện sức người sức của
cho tiền tuyến miền Nam. Để đảm bảo cho miền Bắc đứng vững trước mưa bom
bão đạn của kẻ thù, thực sự là nhân tố quyết định thắng lợi trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(1976) đã tổng kết: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt mười sáu năm qua,
luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược”. Giải quyết tốt mối
quan hệ giũa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã thể hiện rõ bản
lĩnh chính trị, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường của Đảng trong
hoàn cảnh cả nước có chiến tranh vô cùng ác liệt của đế quốc Mỹ. Qua đó đã để lại
cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm lãnh đạo quý có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Mặt


khác đã bổ sung vào kho tàng lý luận Mác - Lênin về giải quyết mối quan hệ giữa
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.



1. Yêu cầu khách quan giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong những năm 1965 -1968

1.1. Cơ sở lý luận
* C.Mác và Ph Ănghen đề cấp đến việc kết hợp nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ trong cách mạng vô sản.
Khi C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ
chưa chuyển sang giai đoạn phát triển tột cùng là chủ nghĩa đế quốc. Hai ông
đã chỉ ra rằng: giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền từ tay giai cấp
tư sản và xây dựng xã hội mới thiết lập sự thống trị cuả mình với toàn thể dân
tộc, đồng thời phải biết bảo vệ thành quả cách mạng. Để hoàn thành nhiệm vụ
đó, giai cấp công nhân phải vũ trang toàn dân để chống lại sự phản công của
chủ nghĩa tư bản. Công xã Pa ri (1871) ở Pháp là cuộc các mạng đầu tiên của
giai cấp vô sản giành chính quyền theo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Tuy nhiên, do không biết vũ trang toàn dân và liên minh giữa các giai cấp
công nhân với toàn thể nhân dân lao động để bảo vệ thành quả cách mạng,
cho nên công xã Pa ri đã bị kẻ thù thủ tiêu nhanh chóng. Từ thất bại của Công
xã Pa ri, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết và rút ra những bài học kinh
nghệm quý để truyền lại cho giai cấp vô sản thế giới tiếp tục con đường đấu
tranh thủ tiêu chế độ áp bức bóc lột và xây dựng chế độ mới… Trong khi đó,
hai ông đặc biệt quan tâm đến những nguyên tắc bảo vệ thành quả cách mạng
như: Sự cần thiết phải vũ trang toàn dân và tiến hành chiến tranh chính nghĩa
chống xâm lược của chủ nghĩa tư bản, bảo vệ thành quả cách mạng, sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân đối với chiến tranh giải phóng dân tộc. Tuy chưa
có điều kiện đề cập nhiều đến quốc phòng, đến bảo vệ Tổ quốc nhưng những
tư tưởng quân sự của hai ông là bó đuốc soi đường, là phương pháp luận cho


giai cấp công nhân giành chính quyền và giữ chính quyền, bảo vệ Tổ quốc xã

hội chủ nghĩa, là cơ sở lý luận để Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa xây
dựng với bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm1965 đến năm 1968.
* Lê nin kế thừa, phát triển tư tưởng của Mác và Ănghen về nội dung kết
hợp xây dựng và bảo vệ cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi bàn về tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong
tác phẩm Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản viết cuối năm 1916,
Lênin đã chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời thắng lợi trong tất cả
các nước. Trước hết, nó thắng lợi trong một nước, trong khi các nước khác,
trong một thời gian dài nào đó, vẫn còn là những nước tư bản hay tiền tư bản.
Tình trạng đó không những sẽ gây ra những va chạm, mà còn làm cho giai cấp
tư sản các nước khác trực tiếp muốn tiêu diệt giai cấp vô sản chiến thắng của
nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Lênin khẳng định: “Không cầm vũ khí bảo vệ
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp
thống trị không bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai
cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật
đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để bảo vệ
lấy mình”
Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ tất yếu, rất quan trọng chống lại mọi âm
mưu và hành động can thiệp, xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đấu tranh cùng tồn tại trong thế
giới, suy cho cùng là giải quyết vấn đề “ai thắng ai”. Chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể thắng chủ nghĩa tư bản bằng “năng suất, chất lượng”. Chính tiền đề cơ bản
đó đòi hỏi phải xây dựng nội lực tự mình vươn lên bảo vệ lấy chính mình và
chiến thắng kẻ thù trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Với cách
tiếp cận trên Lênin đã khảng định giai cấp thống trị không bao giờ từ bỏ lợi
ích của chúng. Do vậy, những người vô sản phải cầm vũ khí giành lại quyền
lợi của chính mình, và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng mình sinh sống, bảo vệ
chế độ tốt đẹp mình vừa xây dựng lên. Theo Lênin, nhưng để duy trì xã hội tốt



đẹp đó phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
* Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam đã
tiếp thu truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc và nâng lên một tầm
cao mới. Người đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Thấu suốt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, sau khi nhân dân ta giành được chính quyền, trong Tuyên ngôn độc
lập ngày 2/ 9/ 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”. Khi kẻ thù trở lại xâm lược nước ta một lần
nữa, Người kêu gọi: “Tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ Tổ
quốc”. Hai tháng sau khi đồng bào miền Nam bước vào kháng chiến, ngày 25
tháng 11 năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị “ Kháng
chiến kiến quốc”. Thực dân Pháp và các thế lực phản động đang âm mưu thôn
tính nước ta, “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng
dân tộc giải phóng... Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên
hết”, kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập
trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”
Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cụ thể về nội dung chính trị, quân sự,
ngoại giao, kinh tế, tài chính, cứu tế, về văn hoá... Đặc biệt chỉ thị nêu rõ
những nội dung về xây dựng Đảng, cải tổ chính phủ, về kháng chiến ở miền
Nam và đoàn kết với nhân dân Lào và Campuchia.
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” thể hiện rõ tư tưởng trong khi đặt
nhiệm vụ kháng chiến lên hàng đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đặc biệt coi trọng nhiệm vụ xây dựng đất nước về mọi mặt, rằng xây dựng chế



độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Phải vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc. Kháng chiến để đánh bại thế lực đế quốc xâm lược, kiến quốc để xoá bỏ
tàn dư chế độ cũ, phát triển đất nước, củng cố hậu phương vững chắc. Hai nhiệm vụ
chiến lược này sẽ được giải quyết thấu đáo trong suốt quá trình chiến tranh.
Thực hiện chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Người chỉ đạo
quân và dân ta đã giải quyết cả ba nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt
giặc ngoại xâm. Không ngừng củng cố và tăng cường hệ thống chính trị nhằm
thúc đẩy cả hai mặt xây dựng và bảo vệ. Chính vì thế, vùng tự do được bảo vệ,
vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, theo đó vùng tạm chiếm bị thu hẹp,
từng bước xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ mới trong vùng ta kiểm soát,
thực hiện được thực túc binh cường và giải quyết vấn đề vũ khí trang bị, kỹ
thuật cho lực lượng vũ trang.
Lực lượng vũ trang của ta từ nhân dân mà ra, đánh giặc bằng các vũ khí
sẵn có, Hồ Chí Minh chỉ đạo cướp súng của địch đánh địch, phát động nhân
dân tự tạo, sắm sửa vũ khí, đồng thời xây dựng các công trình, xưởng sản
xuất, sửa chữa vũ khí để chủ động đánh địch. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng”, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương:
“Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hoá đều nhằm mục đích làm cho
quân sự thắng lợi, đồng thời đấu tranh quân sự phải kết hợp với đấu tranh
chính trị, kinh tế”.
1.2 Cơ sở thực tiễn
* Thực tiễn miền Bắc từ giữa năm 1964 đến đầu năm 1965.
Sau năm 1954, miền Bắc đã cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam
nằm trong ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tay
sai. Kể từ sau phong trào Đồng khởi (1960), lực lượng cách mạng miền Nam
phát triển mạnh mẽ. Nhân dân miền Nam kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang, đánh đổ chính quyền địch ở nhiều nơi, giành quyền làm chủ,
hình thành vùng giải phóng rộng lớn, xây dựng nên Mặt trận dân tộc giải



phóng miền Nam Việt Nam. Cách mạng miền Nam phát triển nhẩy vọt,
chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đồng thời làm cho cuộc
“chiến tranh đơn phương”của Mỹ bị thất bại. Để cứu vãn tình thế suy sụp, đế
quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đây là một
hình thức của chiến tranh thực dân kiểu mới với hai thủ đoạn chính là: Tăng
cường lực lượng nguỵ quân do cố vấn Mỹ chỉ huy để tiêu diệt lực lượng vũ
trang cách mạng và ra sức thiết lập “ấp chiến lược” để gom dân, bình định
nông thôn. Bằng cách đó, chúng hy vọng tạo ra ba chỗ dựa cơ bản cho “ Chiến
tranh đặc biệt.
Căn cứ vào tình hình cụ thể, Mỹ chọn khả năng tăng cường lực lượng
quân sự ở miền Nam Việt Nam, bằng cách đưa quân đội viễn chinh vào trực
tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam. Từ tháng 3/ 1965, Hội đồng an ninh quốc
gia Mỹ quyết định đẩy mạnh việc đưa quân Mỹ sang miền Nam nước ta, tung
vào miền Nam những lực lượng tinh nhuệ nhất của chúng. Cùng với việc đổ
quân vào miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã tiến hành chiến tranh phá hoại
miền Bắc, với mục đích làm cho chính quyền ngụy ở miền Nam đứng vững,
đồng thời ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam.
Thực hiện âm mưu đó, ngày 12/6/1964 Mỹ cho máy bay trinh thám phá
hoại thuộc địa bàn của huyện Tĩnh Gia Thanh Hoá, ngày 30/6/1964 chúng tập
kích vào nhà máy điện Đồng Hới (Quảng Bình). Đêm 4/8 rạng ngày 5/8/1964
chúng gây ra “sự kiện vịnh Bắc bộ”, mở màn đánh phá miền Bắc và đến đầu
tháng 2 năm 1965, chúng đánh một cách liên tục, có hệ thống cho đến đầu
tháng 11 năm 1968. Thời kỳ hoà bình miền Bắc chấm dứt, miền Bắc bước vào
thời kỳ gay go quyết liệt, thời kỳ vừa làm nhiệm vụ hậu phương của cách
mạng miền Nam, lại vừa làm nhiệm vụ của tiền tuyến, trực tiếp đánh trả
những hành động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế
quốc Mỹ.
Miền Bắc bước vào thời kỳ gay go quyết liệt, thời kỳ vừa thực hiện

nhiệm vụ hậu phương của miền Nam, vừa làm tròn nhiệm vụ tiền tuyến, trực


tiếp đánh trả những hành động leo thang chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Về phía Mỹ coi chiến tranh ở miền Bắc là
một bộ phận nhằm bổ sung cho cuộc “chiến tranh cục bộ”. Theo đó ngày 17/2
đến ngày13/6/1965, Mỹ đã thực hiện kế hoạch “Sấm rền” đánh phá từ vĩ tuyến
17 đến vĩ tuyến 20, các mục tiêu đánh phá gồm: doanh trại quân đội, kho tàng
quân sự hậu cần, các trục đường giao thông, một số công trường, nông trường
xí nghiệp từ Vinh đến Thanh hoá. Từ ngày 16/6/1965 đến ngày 21/2/1967, đế
quốc Mỹ phối hợp và mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966
và 1966 -1967 ở miền Nam, thực hiện leo thang đánh phá ra miền Bắc, chủ
yếu đánh vào hai khu vực Hà Nội và Hải Phòng. Các mục tiêu tấn công là các
khu trung tâm công nghiệp: Việt Trì, Thái Nguyên, Mỏ than Đông Bắc, các
trục đường giao thông chính ở Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà
Nội - Lào Cai.
Trước hành động mở rộng chiến tranh đánh phá ngày càng ác liệt miền
Bắc của đế quốc Mỹ đã làm cho miền Bắc từ hoà bình chuyển sang có chiến
tranh. Miền Bắc đứng trước những thử thách khắc nhiệt, tiếp tục xây dựng chủ
nghĩa xã hội hay tạm dừng và nếu tiếp tục thì bằng cách nào. Nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh cần giả quyết, mà trước hết là phải nhận thức và giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa trước tình hình mới đang diễn ra.
Mặc dù bị đế quốc Mỹ thực hiện chiến tranh phá hoại nhiều mặt nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa. Một mặt xây dựng kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, mặt khác ra sức bảo vệ chế độ chính trị, trật tự an toàn xã
hội, tăng cường quốc phòng chống các âm mưu phá hoại của địch: phá hoại

kinh tế, trật tự an toàn xã hội, chiến tranh tâm lý, gián điệp của đế quốc Mỹ.
Trước khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến “Chiến tranh cục bộ”, thực hiện


leo thang đánh phá ra miền Bắc với sự tài tình sáng suốt của Đảng, đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ cho nên sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân miền Bắc đã giành được thắng lợi to lớn,
toàn diện, tạo được một sự chuyển biến hết sức quan trọng trong sản xuát và
đời sống của nhân dân và cũng tạo ra tiềm lực to lớn để bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa. Đánh giá về vấn đề này, Hồ Chí Minh nói: “Miền Bắc đã tiến
những bứơc dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con
người đều đổi mới”.
2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa
xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968
2.1 Chủ trương của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968
Trước những hành động leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ diễn ra
hết sức phức tạp trên cả hai miền Nam - Bắc, cả nước có chiến tranh với quy
mô và tính chất khác nhau nhưng vô cùng ác liệt. Với sự nhận định sáng suốt,
tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời lãnh đạo quân và dân hai
miền Nam - Bắc làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt, chủ động điều chỉnh kế
hoạch xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đầu năm 1964, Đảng ta đã lãnh đạo, chỉ đạo triệu tập Hội nghị phòng
không nhân dân toàn miền Bắc để bàn biện pháp triển khai và tăng cường hệ
thống phòng không ba thứ quân, tổ chức sơ tán, phân tán nhân dân, nhà máy,
kho tàng, bệnh viện, trường học ra khỏi những vùng trọng điểm địch dự kiến
địch sẽ đánh phá. Với chủ trương của Đảng trong hội nghị phòng không toàn
miền Bắc đã thể hiện rất rõ việc lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giưã xây
dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa hết sức sâu sắc. Cùng với việc chủ
động sơ tán trường học, Đảng đã có chủ trương sơ tán các bệnh viện đến các

nơi an toàn đảm bảo kịp thời khám chữa bệnh cho quân và nhân phục vụ cho
sản xuất và chiến đấu. Để đảm bảo lực lượng chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương kiện toàn lại tổ chức biên chế, trang bị cho lực


lượng vũ trang. Đảng đã lãnh đạo các lực lượng vũ trang địa phương kịp thời
chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên báo động, tích cực luyện
tập các phương án phòng không chống máy bay, tàu chiến và pháo binh của
địch khi chúng đánh phá miền Bắc.
Để đối phó với kế hoạch đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải
quân của đế quốc Mỹ, Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác phòng không, chủ
động xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu đánh bại mọi hành động khiêu
khích, gây chiến của đế quốc Mỹ. Chủ trương trên được quán triệt trong các
cấp, các ngành, các địa phương, đến từng người dân miền Bắc.
Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng
và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, ngày 29/6/1964,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị cho toàn dân, toàn quân tăng cường
công tác phòng không, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu trong chỉ thị xác định rõ:
“Tăng cường công tác phòng không là một nhiệm vụ cấp bách, khẩn trương
đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo toàn diện và tiến hành tích cực”. Tiếp đó tháng
8/1964, Bộ Chính trị Chính trị Trung ương Đảng chỉ thị cho toàn dân, toàn
quân tăng cường sẵn sàng chiến đấu chống âm mưu và hành động khiêu kích
phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, công tác phòng
không nhân dân bắt đầu được đẩy mạnh, chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu
từ thường xuyên lên tăng cường và lên cao. Tháng 7/ 1964, Quân uỷ Trung
ương và Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã ký quyết định
chuyển bộ đội phòng không, không quân, hải quân và một số đơn vị khác sang
chế độ sẵn sàng chiến đấu, quân số thường trực đảm bảo 100%, phân công
trực ban, trực chiến, trực chỉ huy duy trì hết sức nghiêm túc, chế độ canh gác

phòng gian bảo mật được thực hiện 24/24 giờ trong ngày.
Chính nhờ có chủ trương sáng suốt kịp thời của Đảng cho lên mọi công
tác đã được chuẩn bị chu đáo, thận trọng, tỉ mỉ và khẩn trương, quân và dân
miền Bắc không bị bất ngờ trước những hành động điên cuồng của đế quốc


Mỹ gây ra đối với miền Bắc, đồng thời đánh trả kịp thời cuộc tấn công của
máy bay địch trong ngày 5/8 1964.
Bước sang năm 1965, chiến lược chiến tranh cục bộ mà đế quốc Mỹ
tiến hành diễn ra hết sức mau lẹ. Trước tình hình đó, tháng 1/ 1965, Hội đồng
quốc phòng đã họp, dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định
nhiệm vụ mới của miền Bắc là: Tăng cường công tác phòng thủ, trị an và sẵn
sàng chiến đấu, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, tích
cực xây dựng và củng cố miền Bắc về mọi mặt.
Với những quyết định sáng suốt của Hội nghị Hội đồng quốc phòng,
quân và dân miền Bắc đã nâng cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, tích
cực chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đánh trả nếu như đế quốc liều lĩnh tấn công ra
miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Triển khai Nghị quyết đại hội III, trên tinh thần nối tiếp tinh thần giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa của
các Hội nghị Trung ương trước, Hội nghị lần thứ 11 của ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá III) họp từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 3 năm 1965 bàn về
“Tình hình và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam”. Trong Hội nghị
có rất nhiều các ý kiến khác nhau đánh giá về những âm mưu và hành động
của đế quốc Mỹ. Trong Hội nghị lần thứ 11 ( khóa III) của Đảng đã chỉ rõ
phương châm: vừa xây dựng kinh tế, vừa chiến đấu bảo vệ thành quả của chủ
nghĩa xã hội, xây dựng kinh tế phải phù hợp với tình hình cả nước có chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đối với miền Bắc không chỉ thực hiện nhiệm
vụ trực tiếp chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn
phải sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng tiềm lực

kinh tế, tiềm lực quốc phòng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra đó là:
Đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất
nước nhà.
Hội nghị lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) đã
nhận định đánh giá đúng tình hình, đưa ra phương châm chỉ đạo sát đúng, giải


quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa một
cách hợp lý, đặt nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa lên
hàng đầu, vấn đề này được thể hiện rõ trong quyết định của Hội nghị Trung
ương 11.
Để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa đồng thời với chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế, Đảng chủ
trương tăng cường quốc phòng đáp ứng với yêu cầu bảo vệ miền Bắc và giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước. Giải quyết nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương tăng cường bộ đội thường trực, gọi nhập
ngũ lại một số cán bộ và quân nhân phục viên, tuyển thanh niên vào bộ đội,
tăng thêm thời hạn nghĩa vụ quân sự, tăng thêm số người phục vụ trực tiếp cho
Bộ quốc phòng, củng cố tăng cường dân quân. Đẩy mạnh công tác phòng
không nhân dân và tích cực phát động phong trào toàn dân bắn máy bay Mỹ.
Giúp cho chủ trương của Đảng thấm sâu vào trong từng người dân tạo
lên sức mạnh đoàn kết trăm người như một đánh đuổi đế quốc Mỹ hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, Đảng chủ trương chuyển
hướng công tác tư tưởng và công tác tổ chức, với mục đích làm cho toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức rõ âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ,
thấy rõ được đặc điểm mới của đất nước đó là cả nước có chiến tranh. Đảng
quyết định chuyển toàn bộ hoạt động miền Bắc từ thời bình sang thời chiến,
tuyên truyền vân động toàn dân nhận thức rõ nhiệm vụ giải phóng miền Nam
là trách nhiệm chung của đồng bào cả nước. Miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản
xuất, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Về công tác tổ chức, tiến hành

điều chỉnh lực lượng công nhân, viên chức giữa các ngành, các địa phương, bố
chí lại lực lượng cán bộ cho phù hợp với việc chuyển hướng kinh tế và tăng
cường lực lượng cho quốc phòng. Cải tiến bộ máy Nhà nước, sửa đổi lề lối
làm việc ở tất cả các cấp cho phù hợp với thời chiến. Như vậy toàn bộ nội
dung chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức đã thể hiện rất rõ việc giải quyết
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa của Đảng ta.


Trong điều kiện miền Bắc có chiến tranh, chủ trương của Đảng tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ vừa xây dựng vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, với hai nhiệm vụ này thì Đảng đã đặt nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa lên hàng đầu, tập trung cao độ công tác tư tưởng cũng như công tác
tổ chức thực hiện nhiệm vụ này.
Chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ bằng không quân và hải
quân đã đi vào chiều sâu, diễn biến ngày càng phức tạp và vô cùng ác liệt.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở Hội nghị lần thứ 12
(12/1965). Hội nghị đã phân tích đặc điểm tình hình, âm mưu thủ đoạn của đế
quốc Mỹ, đưa ra những chủ trương sát đúng. Tiếp nối tư tưởng giải quyết mối
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong các Hội
nghị Trung ương trước, Hội nghị trung ương 12 đã khẳng định một lần nữa
quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng bất cứ tình huống nào, miền Bắc tiếp
tục thực hiện nhiệm vụ vừa đánh Mỹ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phát huy truyền thống đánh giặc của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm đánh giặc của các nước trên thế giới vận dụng vào điều kiện cụ thể
của cách mạng vào thời điểm khó khăn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Đảng nhận thức rất rõ ràng đế quốc Mỹ là tên đế quốc có
tiềm lực kinh tế và tiềm lực quân sự rất mạnh, muốn đánh Mỹ cần phải chuyển
hoá lực lượng bằng cách kéo dài thời gian. Đế quốc Mỹ sử dụng chiến lược
đánh nhanh, thắng nhanh, ta chủ động phát động chiến tranh nhân dân, càng
đánh càng mạnh, địch càng đánh càng yếu. Với nhận thức đúng đắn đó, Trung

ương Đảng vạch ra phương châm chỉ đạo chiến lược cho toàn bộ cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đó là: “Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính”.
Đánh lâu dài không có nghĩa là kéo dài kháng chiến vô hạn độ, mà là tạo thời
cơ, thúc đẩy thời cơ, chờ đợi thời cơ, nắm thời cơ, chớp thời cơ giành thắng
lợi trong thời gian tương đối ngắn. Nghị quyết Trung ương 12 (khoá III) chỉ
rõ: “Trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng đánh lâu dài, chúng ta cần phải
cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ


giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường
miền Nam. Dựa vào sức mình là chính là không đồng nghĩa với tự đóng kín,
không cần sự giúp đỡ từ bên ngoài, mà phải ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ và giúp đỡ quốc tế.
Như vậy chủ trương: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đây là
một chủ trương đúng đắn, chủ trương thể hiện rõ việc giải quyết mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa nói riêng, tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam trong
những năm 1965 - 1968 diễn ra trong hoàn cảnh cực kỳ gay go phức tạp, đòi
hỏi Đảng ta phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư duy độc lập, tự chủ
sáng tạo đánh giá toàn diện tình hình, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Quyết tâm chống Mỹ cứu nước của Đảng ta là sản phẩm của sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh
cách mạng vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam trong những năm 1965
- 1968, đó chính là sản phẩm của tư duy độc lập sáng tạo của Đảng Cộng sản
Việt nam.
Trên cơ sở quyết tâm chống Mỹ cứu nước đó, Đảng chỉ rõ chủ trương
chung để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa là:
“Vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh

phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện
cho miền Nam, ra sức giúp đỡ cho cách mạng Lào, đồng thời tích cực chuẩn bị
đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước”. Đồng thời
Trung ương còn nhấn mạnh, muốn hoàn thành những nhiệm vụ nêu trên, miền
Bắc cần phải được củng cố về mặt chính trị, quân sự, kinh tế.
Như vậy, trong thời kỳ mới miền Bắc đứng trước nhiệm vụ hết sức quan
trọng nặng nề: Giữ vững sản xuất, đảm bảo đời sống nhân dân, đồng thời đối
phó với chiến tranh phá hoại rất ác liệt do Mỹ gây ra. Đây là một vấn đề vô


cùng khó khăn bởi lẽ cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất đã thấp kém, mặt
khác lại bị bom Mỹ thường xuyên đánh phá. Nhân dân miền Bắc đảm bảo
cuộc sống đã khó nay lại càng khó khăn hơn. Trên thực tế nhân dân miền Bắc
vừa căng sức tăng gia sản xuất phục phụ đời sống, mặt khác phải dồn sức
người, sức của cho chiến trường miền Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế. Như
vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân miền Bắc cùng
một lúc phải đảm nhiện ba nhiệm vụ, đúng như nhiều nhà sử học sau này đánh
giá: Miền Bắc không phải chỉ tiến hành hai nhiẹm vụ chiến lược mà là ba
nhiệm vụ chiến lược. Sản xuất và chiến đấu xây dựng miền Bắc; chi viện đầy
đủ sức người, sức của cho chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế.
Trong ba nhiệm vụ chiến lược mà Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải
quyết có mối quan hệ biện chứng thống nhất qua lại tác động lẫn nhau thúc
đẩy nhau cùng hướng tới mục tiêu chung đó là hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong phạm vi cả nước. Đối với nhiệm vụ trọng tâm của
miền Bắc lúc này dồn sức chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân của đế quốc Mỹ để bảo vệ cho chuyển hướng xây dựng kinh tế tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội để tạo ra sức mạnh
chính trị tinh thần cũng như của cải vật chất đảm bảo cho chống chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ đồng thời chi viện đắc lực cho tiền tuyến miền Nam.
Chủ trương của Đảng về tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều

kiện có chiến tranh phá hoại trong Nghị quyết Trung ương 12 (12/1965) nêu
rõ: Nhiệm vụ của miền Bắc hiện nay là vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Sản xuất
phục vụ chiến đấu và chiến đấu phải nhằm bảo vệ sản xuất... Trong bất cứ tình
huống nào, chúng ta cũng phải khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp. Việc xây dựng công
nghiệp cần phải làm theo lối phân tán với quy mô vừa và nhỏ cho thích hợp
với hoàn cảnh chiến tranh”. Nghị quyết còn chỉ rõ: Phải xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng. Theo tinh thần đó không những miền
Bắc phải chuyển hướng xây dựng kinh tế mà còn cần phải tăng cường củng cố


quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về số lượng và chất
lượng. Phải động viên cao độ quần chúng nhân dân hăng hái quyết tâm chiến
đấu và phục vụ chiến đấu.
Chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế tiếp tục xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc không phải là một chủ trương duy ý chí mà là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có chiến tranh
phải chịu tác động của quy luật chiến tranh và quy luật kinh tế, trong đó quy
luật chiến tranh chi phối đến hoạt động của nền kinh tế xã hội. Việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc không thể xây dựng theo lối cũ. mọi chủ trương
biện pháp, kế hoạch xây dựng, chỉ tiêu, quy mô tốc độ và phương hướng
không thể theo kế hoạch cũ, mà phải thay đổi chủ trương, phương hướng,
biện pháp cho phù hợp với tình hình mới. Phương châm lúc này là tiếp tục xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ đặc biệt với bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa. Như vậy trong mọi hoạt động của các lĩnh vực xây dựng
đã có yếu tố bảo vệ trong đó, trong các hoạt động bảo vệ đã tính đến yếu tố
xây dựng trước mắt cũng như phát triển kinh tế dài lâu của đất nước.
Tóm lại: Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn còn

dưới ách đô hộ của bọn đế quốc và tay sai Ngô Đình Diệm, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa,
truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là
thực tiễn miền Bắc từ những năm1954 đến 1968 để đề ra chủ trương: Giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm
1965 đến năm 1968. Đây là cơ sở khoa học để Đảng ta chỉ đạo giải quyết mối
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
2.2 Sự chỉ đạo của Đảng chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968


* Đảng chỉ đạo chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc, tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh.
Thực hiện chủ trương trong nghị quyết Trung ương 11 và 12 ( khoá III)
và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu ngày 17/7/1966, Đảng chỉ
đạo quân và dân miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu, bảo vệ hậu phương
miền Bắc, đồng thời chi viện tối đa cho cách mạng miền Nam.
Biến chủ trương thành hành động cách mạng, hàng loạt các phong trào
cách mạng của quân dân miền Bắc diễn ra liên tiếp. Với tinh thần quyết tâm
xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đánh thắng chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, Đảng động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đủ mọi
lứa tuổi, thành phần thi đua góp sức cho công cuộc xây dựng và bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương trên, Đảng ta đã chỉ đạo các bộ,
các ngành, các địa phương tiến hành hàng loạt các hoạt động cụ thể.
Ngày 10 tháng 4 năm 1965, Quốc hội ra nghị quyết giao cho Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội một số quyền như: quyền quyết định kế hoạch Nhà nước,
xét và phê chuẩn ngân sách Nhà nước, quyền ấn định các thứ thuế, quyền phê
chuẩn và phân định ranh giới cấp tỉnh và tương đương. Mục đích nhằm động
viên sức người, sức của phục vụ kháng chiến, cơ quan quân sự địa phương

nhanh chóng kiện toàn, hướng dẫn, chỉ đạo, tham mưu cho cấp uỷ địa phương
các hoạt động phục vụ cho chiến tranh nhân dân, các cơ quan địa phương, xí
nghiệp có phương án sẵn sàng chiến đấu, phương án phòng không sơ tán. Các
cấp uỷ địa phương, cơ quan xí nghiệp phải đổi mới phương thức lãnh đạo phù
hợp với điều kiện có chiến tranh. Các hợp tác xã xác định rõ phương thức sản
xuất, huyện phải trực tiếp chỉ đạo sản xuất nông nghiệp. Tỉnh nắm chắc nông
nghiệp và công nghiệp địa phương, giao thông vận tải tỉnh.
Với sự chỉ đạo trên, Đảng giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo
vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa hết sức sát đúng, giao quyền chủ động cho Nhà
nước, các cấp, các ngành, các địa phương giải quyết mối quan hệ giữa sản
xuất và chiến đấu, vừa sản vừa bảo vệ sản xuất.


Trước khi Quốc hội giao cho Uỷ ban thường vụ quốc hội một số quyền
thì Đảng Lao động Việt Nam chỉ đạo Ban Chấp hành Trung ương Đoàn thanh
niên Lao động Việt Nam phát động phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên
miền Bắc vào tháng 2 năm 1965. Nội dung của ba sẵn sàng đó là:
Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng vào bộ đội.
Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất kỳ
tình huống nào.
Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần.
Với ba nội dung rất cụ thể phong trào ba sẵn sàng của thanh niên miền
Bắc thể hiện vai trò xung kích đi đầu trong xây dựng và bảo vệ miền Bắc thân
yêu, bằng những việc làm cụ thể, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng lao động, sẵn
sàng làm bất cứ nhiệm vụ gì khi Tổ quốc cần.
Nhận thức của Đảng ta rất rõ ràng, trong xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa không chỉ có lực lượng thanh niên mà còn có các lực lượng
khác cùng tham gia. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức có vai trò
to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, do vậy
Đảng chỉ đạo phong trào hội với các nội dung rất cụ thể.

Ngày 19 tháng 3 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam đã phát động phong trào “Ba đảm đang”, nội dung của
phong trào ba đảm đang đó là:
Đảm đang trong sản xuất và công tác thay thế chồng con đi chiến đấu.
Đảm đang việc gia đình cho chồng con yên tâm chiến đấu, khuyến khích
người thân trong gia đình tòng quân và phục vụ lâu dài trong quân đội.
Đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, luyện tập quân sự
để sẵn sàng chiến đấu, phục vụ công an, bộ đội, dân quân tự vệ khi chiến đấu.
Giai cấp công nhân đã phát huy truyền thống kiên cường bất khuất, ngày
đêm bám máy đảm bảo sản xuất và phục vụ chiến đấu, khẩu hiệu “Tay búa,
tay súng, vừa sản xuất, vừa đánh địch, cố giành ba điểm cao: Năng suất cao,
chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều.


Giai cấp nông dân tập thể miền Bắc được hình thành dưới sự lãnh đạo
của Đảng, giai cấp nông dân liên minh với giai cấp nông dân, khẩu hiệu “Tay
cày, tay súng”, thi đua “ Hai giỏi” sản xuất giỏi và chiến đấu giỏi, phấn đấu ba
mục tiêu trong nông nghiệp đó là: 5 tấn thóc, 2con lợn, 2 vụ lúa trên một ha.
Tháng 11/1964, Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động phòng trào
3 quyết tâm trong giới trí thức:
Phục vụ tốt sản xuất và chiến đấu.
Đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng văn hoá.
Quyết tâm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức.
Đối với lực lượng vũ trang: Có phong trào thi đua: “Quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược” khẩu hiệu: “ Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Đăng
ký vào Nam chiến đấu”, “Chống bỏ đảo ngũ”, “Chống ngại rèn luyện”.
Đảng chỉ đạo các lực lượng trong xã hội bằng các phong trào thi đua với
nội dung cụ thể. Trong nội dung của các phong trào thi đua đó thể hiện sự gắn
kết chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trong xây
dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, Đảng tập trung chỉ đạo sát sao, quyết liệt hơn

cả là mặt trận sản xuất nông nghiệp. Bởi lẽ, sản xuất nông nghiệp chính là đảm
bảo lương thực, thực phẩm, ổn định cuộc sống, giải quyết hậu cần tại chỗ. Để
nông nghiệp phát triển bền vững, sản xuất có hiệu quả, quán triệt quan điểm
vừa chiến đấu vừa sản xuất, Đảng chỉ đạo: Phát triển nông nghiệp ở các vùng
trung du và miền núi, tập trung vào hai ngành trồng trọt và chăn nuôi.
Với sự chỉ đạo trên của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, bởi lẽ, trung du,
miền núi đất rộng, người thưa, núi đồi nhấp nhô địch ít có khả năng đánh phá,
đây là điều kiện tốt để ta tăng gia sản xuất lấy lương thực, thực phẩm phục
phụ trực tiếp đảm bảo đời sống nhân dân, mặt khác cung cấp cho chiến sĩ trực
tiếp cầm súng đánh đuổi quân thù bảo vệ sản xuất, chi viện cho tiền tuyến
miền Nam. Mặt khác đây chính là để nông nghiệp ở Trung du, miền núi phát
triển, thu hẹp khoảng cách phát triển nông nghiệp giữa đồng bằng và trung du
miền núi sau khi hoà bình lập lại.


Trong khi chỉ đạo phát triển nông nghiệp ở trung du và miền núi, Đảng
không ngừng chỉ đạo phát triển sản xuất ở các tỉnh trọng điểm lúa của miền
Bắc như: Thái Bình, Hải Hưng, Nam Định, Hà Tây. Các tỉnh này vẫn duy trì 5
tấn thóc trên một ha. Những người lao động thuần tuý ở những nơi thôn quê
quanh năm gắn bó với xóm làng, khi giặc đến lại kề vai sát cánh cùng nhau
xây dựng chiến hào ngay trên mảnh đất thân yêu, đánh địch ngay tại chỗ bảo
vệ sản xuất, với khẩu hiệu “tiếng hát át tiếng bom” cùng nhau lao động quên
mình vì độc lập tự do của dân tộc.Trong những năm chiến đấu ác liệt, sản xuất
ngay dưới làn bom đạn của kẻ thù nhưng nông nghiệp miền Bắc vẫn phát
triển. Trong 4 năm 1965 - 1968, miền Bắc có thêm 60 công trình đại thuỷ
nông, hàng trăm công trình thuỷ nông và mạng lưới kênh mương rộng khắp.
Năm 1967 diện tích có bờ vùng, bờ thửa được mở rộng chiếm 60% tổng diện
tích đất canh tác. Phong trào làm phân xanh, cải tiến công cụ, công cụ vận
chuyển cũng như việc phát triển các hình thức chăn nuôi tập thể thích ứng với
khả năng quản lý hợp tác xã được phát triển ở nhiều vùng nông thôn đồng

bằng, trung du, miền núi.
Nhờ có chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đúng
đắn, Đảng đã chỉ đạo quân và dân miền Bắc nhanh chóng chuyển hướng xây
dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện có chiến
tranh. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, các tổ chức trong xã hội đã dấy lên phong
trào thi đua sôi nổi kết thành một cao trào chống Mỹ, cứu nước và xây dựng
chủ nghĩa xã hội vô cùng rộng lớn chưa từng có trên khắp các địa phương
miền Bắc. Sự chỉ đạo đó thể hiện ở các chỉ thị, nghị quyết, các phong trào thi
đua cụ thể trên các lĩnh vực của đời sống, kinh tế - xã hội tạo nên sức mạnh
tổng hợp, sức mạnh nội sinh để bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa
Đảng chỉ đạo chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân của Mỹ, bảo vệ thành quả chủ nghĩa xã hội
Từ giữa năm `1965 đến đầu năm 1967, không quân Mỹ leo thang đánh
phá ra miền Bắc ở mức độ cao hơn, chúng đánh vào hai thành phố lớn đó là


Hà Nội và Hải Phòng. Chúng dùng máy bay B52 và pháo binh bắn phá phía
bắc giới tuyến quân sự tạm thời, thuỷ lôi phong toả các cửa sông Cả, sông
Gianh ở miền Bắc. Chúng tập trung đánh phá vùng Cán Xoong (Quảng Bình Vĩnh Linh), nơi trọng điểm của các tuyến đường vận tải chiến lược Trường
Sơn từ Bắc vào Nam. Để đáp ứng với tình hình diễn biến hết sức phức tạp,
Đảng chủ trương tăng thêm bộ đội thường trực. Các quân binh chủng được
tăng cường cả vũ khí lẫn lực lượng. Thực hiện chiến tranh nhân dân, Đảng đã
phát động toàn dân bắn máy bay Mỹ bằng các loại vũ khí kiên quyết bảo vệ
miền Bắc thân yêu.
Biến quyết tâm thành những hành động cụ thể, khắp các địa phương, các
lực lượng trên miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chủ động, tích cực
phòng tránh bom đạn của kẻ thù. Tuỳ theo từng điều kiện, các cấp, các ngành,
các địa phương đã phát động phong trào thi đua yêu nước như: “mỗi người
làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, “nhằm thẳng quân thù mà
bắn”, “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang”…Thông qua nội dung, chỉ tiêu thi đua của

các phong trào đã thể hiện rõ việc Đảng chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa
xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Trước những hành động leo thang đánh phá miền Bắc hết sức khốc liệt,
hưởng ứng lời kêu gọi ngày 17/7/1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần
“không có gì quí hơn độc lập tự do”, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Chỉ tính tháng 8/1964 đến tháng
11/1968, miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay, trong đó có 6 B52, 3 máy bay
F111. Lực lượng phòng không không quân bắn rơi 1.191 máy bay, lực lượng
dân quân tự vệ bắn rơi 282 chiếc, bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến, tàu biệt
kích Mỹ, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái máy bay Mỹ.
Với những chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo tài tình của Đảng Cộng sản
Việt Nam, quân và dân miền Bắc trên dưới một lòng, đồng cam cộng khổ,
chiến đấu anh dũng, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chính vì vậy đã đánh thắng
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ tuyên


bố chấm dứt ném bom, bắn phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải
quân, chấp nhận việc đàm phán tại hội nghị Pa ri vào ngày 01/11/1968. Đây là
một chiến thắng vô cùng quan trọng nó thể hiện tinh thần độc lập tự chủ sáng
tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đúng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: “Thắng lợi đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng
đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của toàn
dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng, thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa
tốt đẹp. Đó là thắng lợi chung của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc”.
Hết lòng chi viện cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ.
Chi viện sức người, sức của cho miền Nam là nhiệm vụ vô cùng to lớn
của quân và dân miền Bắc, ý thức sâu sắc điều đó, Trung ương Đảng và Bộ
Chính trị luôn nhấn mạnh việc chi viện người và của cho tiền tuyến miền Nam
là công tác đặc biệt quan trọng. Hội nghị lần thứ 12 (1965) Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khảng định : “Nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước hiện nay rõ
ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc ta, của nhân dân ta từ Bắc chí Nam.
Để thực hiện đánh thắng đế quốc Mỹ thì: Nhân dân miền Bắc phải phát huy
cao độ tác dụng của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam, động
viên sức người, sức của, tăng cường chi viện miền Nam, thực hiện khẩu hiệu:
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Trong 4 năm
(1965 -1968), dưới sự chỉ đạo của Đảng hàng chục vạn cán bộ đảng viên, công
nhân, viên chức được điều động ra mặt trận, với khẩu hiệu hành động: “Thóc
không thiếu một cân , quân không thiếu một người”, để dồn sức chi viện cho
cách mạng miền Nam. Các địa phương trên toàn miền Bắc nghe tiếng gọi
thiêng liêng của Đảng, chấp hành lệnh tổng động viên của Nhà nước, đã thực
hiện vượt chỉ tiêu tuyển quân theo nghĩa vụ quân sự. Phong trào “Ba sẵn sàng”
đã lôi cuốn hàng triệu thanh niên miền Bắc lên đường chiến đấu và phục vụ
chiến đấu. Tuyệt đại đa số thanh niên vào bộ đội với lý tưởng cao đẹp giải
phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, đó chính là kết quả to lớn của công tác


giáo dục tư tưởng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong phong trào
tòng quân nhiều địa phương đã vượt chỉ tiêu kế hoạch, nhiều thanh niên
không đủ tuổi nhưng vẫn hăng hái tham gia tòng quân. Những điển hình tiên
tiến trong các phong trào xuất hiện ngày càng nhiều.
Thời kỳ 1965 - 1968, là thời kỳ lịch sử đặc biệt của miền Bắc. Miền Bắc
vừa phải tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa tiếp tục chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại, vừa phải dốc sức chi viện cho chiến trường miền Nam.
Đi lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có chiến tranh, vừa phải chịu sự tác
động của quy luật chiến tranh, vừa chịu sự tác động của quy luật kinh tế, trong
đó quy luật chiến tranh chi phối toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đứng trước khó khăn thử thách một mất một còn. Đảng Cộng sản Việt nam
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững
vàng, tư duy độc lập sáng tạo đã đề ra chủ trương đường lối và sự chỉ đạo

đúng đắn, sáng suốt kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế, tư tưởng và tổ
chức, tăng cường lực lượng quốc phòng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ, hậu phương với tiền tuyến, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội và đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân
của đế quốc Mỹ.
3. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo
giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968
3. 1.Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
* Thành tựu.
Thành tựu về xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Bằng những chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam, miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam mang lại kết
quả to lớn trên tất cả các mặt đời sống kinh tế – xã hội.
Thành tựu trong bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.


Trong những năm 1965 - 1968, cả miền Bắc là một chiến trường phòng
tránh đánh trả đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quân và dân miền Bắc
đã kiên cường đánh trả quân xâm lược, với các biện pháp, hình thức chiến đấu
vô cùng mưu trí dũng cảm. Việc sơ tán người khỏi nơi đông dân ở các thành
phố, các khu vực trọng điểm mà chúng thường xuyên dấnh phá được thực hiện
một cách nghiêm túc. Chỉ trong thời gian ngắn hệ thống hầm hào trên toàn
miền Bắc được xây dựng, 33 triệu hố cá nhân, hơn 12 triệu hầm tập thể, 43
nghìn km hào giao thông, 80 nghìn hầm mái nóc, 700 nghìn gia súc và của cải
được bảo vệ an toàn.Với cách đánh thông minh sáng tạo, lực lượng phòng
không của ta đã đánh hạ 2.243 máy bay trong tổng số 41.810 chiếc rơi trong
cả cuộc chiến tranh ở miền Bắc. Lực lượng dân quân tự vệ bắn rơi 282 chiếc,
trong đó nữ dân quân bắn rơi 22 chiếc và các cụ bô lão bắn rơi 6 chiếc. Nhân

dân miền Bắc ngoài việc bắn rơi máy bay Mỹ trên không, còn bắn cháy, chìm
271 tầu chiến Mỹ. Trong thời gian từ năm 1965 - 1968, quân và dân miền Bắc
đã đánh bại chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ buộc chúng phải
xuống thang. Ngày 01/11/1968, Tổng thống Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom
bắn phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, chấp nhận đàm phán 4 bên
tại Pa ri. Đó là thắng lợi lớn trên lĩnh vực chiến đấu bảo vệ thành quả cách
mạng xã hội chủ nghĩa của quân và dân miền Bắc.
Trên lĩnh vực chi viện cho chiến trường miền Nam.
Công tác chi viện cho miền Nam trong thời gian này thu được thắng lợi
to lớn: tính chung trong những năm 1965 - 1968, quá nửa lực lượng và 80%
vũ khí đạn dược, phương tiên sử dụng trên chiến trường miền Nam là từ hậu
phương miền Bắc chuyển vào. Trong vòng 4 năm 1965 -1968, miền Bắc đưa
vào miền Nam 244.765 tấn vật chất các loại, 404.493 khẩu súng các loại.
Riêng lực lượng phòng không là 20 tiểu đoàn cao xạ 37 li, một tiểu đoàn 12,7
li, pháo phản lực là 443 dàn pháo, 214.960.271 viên đạn các loại, 841.235 lựu
đạn, 155.000 mìn các loại, 2.662 máy vô tuyến điện, 5.954 máy hữu tuyến
điện, 10.385 km dây điện thoại, 336.914 ngưòi đã vượt núi rừng vào Nam


chiến đấu. Riêng 1968 miền Bắc động viên 311.749 thanh niên vào bộ đội, bổ
sung cho chiến trường miền Nam 141081 người [40, tr.358]. Tổng khối lượng
vận chuyển vào miền Nam và sang Lào năm 1968 tăng gấp hai lần , quân số
gấp 1,7 lần so với năm 1967.
Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã gây tổn thất
nặng nề đối với đời sống nhân dân và nền kinh tế xã hội miền Bắc, nhưng
quân và dân miền Bắc vẫn kiên cường bám trụ dưới làn mưa bom bão đạn,
đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, giữ vững nhịp độ sản xuất,
không những thế mà còn xây dựng được một số cơ sở vật chất cho chủ nghĩa
xã hội. Mặt khác, sự chi viện đúng lúc của miền Bắc đã tạo cho quân và dân
miền Nam đập tan hai cuộc phản công của đế quốc Mỹ, đặc biệt là cuộc tổng

tiến công Mậu Thân 1968.
Những thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa đã chứng minh cho việc Đảng lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hoàn đoàn đúng đắn.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được xây dựng trên quê hương miền Bắc, quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển, phù hợp với tính
chất trình độ lực lượng sản xuất. Các ngành, vùng sản xuất đã được điều chỉnh
đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các ngành gắn chặt
với nhau hơn. Các giai tầng trong xã hội xích lại gần nhau hơn, tất cả vì mục
tiêu chung là đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược giành độc lập cho dân tộc. Tất
cả những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc xã hội chủ
nghĩa đã tạo ra sức mạnh nội sinh, sức mạnh của cả một dân tộc quyết tâm
đứng dậy để đánh thắng giặc Mỹ. Chính vì ta xây dựng được chế độ xã hội
chủ nghĩa tốt đẹp do vậy ta đã phát động thành công chiến tranh nhân dân bảo
vệ miền Bắc. Các lực lượng từ già đến trẻ đều chung tay bảo vệ quê hương,
đánh địch bằng tất cả các loại vũ khí hiện có. Lực lượng vũ trang không ngừng
lớn mạnh, trưởng thành. Kỹ chiến thuật đánh địch ngày càng hoàn thiện. Kỷ
cương trong xã hội thực hiện tốt hơn. Chính nhờ có giải quyết tốt mối quan hệ


giữa xây dựng và bảo vệ miền bắc xã hội chủ nghĩa, trong bảo vệ có xây dựng,
trong xây dựng có bảo vệ do vậy ta đã xây dựng được chủ nghĩa xã hội thời
chiến, bảo vệ vững chắc thành quả trong quá trình xây dựng, chi viện đắc lực
cho chiến trường miền Nam.
*Hạn chế.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa đôi lúc chưa thật nhịp nhàng. Xây dựng quan hệ sản xuất chưa thật phù
hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất. Giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương chưa thật đúng đắn, kinh tế địa
phương chưa được quan tâm đúng mức. Hệ thống quản lý, tổ chức sản xuất

chưa phát huy đầy đủ vai trò của các ngành, chưa kết hợp đúng đắn quản lý
theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Công tác kế hoạch
hoá làm chưa tốt, trong quản lý còn nặng nối quản lý quan liêu, hành chính,
xem nhẹ đến hiệu quả và chất lượng. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng có
lúc, có nơi làm chưa thật tốt trong kế họach, quy hoạch và trong tổ chức thực
hiện.
Chúng ta giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc
trong điều kiện nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thời gian xây dựng chủ nghĩa
xã hội chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm trong hoạch định mục tiêu phương
hướng trong điều kiện hoàn cảnh hoàn toàn khác biệt cả nước có chiến tranh.
Miền Bắc dồn sức để chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ
miền Bắc, chi viện cho tiền tuyến miền Nam, thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Đảng giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện kém hiệu lực. Mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng cấp, từng đơn vị chưa xác
định rõ ràng. Pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa chặt chẽ. Công tác xây dựng
Đảng, công tác cán bộ, công tác tư tưởng chưa gắn chặt với phát triển kinh tế
và quốc phòng.


×