Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ĐẢNG LÃNH đạo GIẢI QUYẾT mối QUAN hệ GIỮA độc lập dân tộc và CHỦ NGHĨA xã hội GIAI đoạn 1986 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.55 KB, 98 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
ĐLDT và CNXH là mục tiêu cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nguồn gốc, nguyên nhân đưa đến mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng.
Tổng kết quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nêu rõ: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân
tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc” [15, tr.4].
Công cuộc đổi mới đất nước kể từ (12/1986) đến nay diễn ra trong bối cảnh tình hình
thế giới và khu vực có nhiều biến đổi phức tạp. Hệ thống XHCN lâm vào khủng hoảng,
đặc biệt vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 các nước XHCN ở Liên Xô, Đông Âu
sụp đổ. Đảng ta trong đường lối, quan điểm cũng như trong hành động đã dứt khoát xác
định dù trong hoàn cảnh nào cũng phải tiến hành đổi mới vì ĐLDT gắn liền với CNXH.
Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta, là quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam. Sự khẳng định đó đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng và
phẩm chất cao quý của nhân dân trước những thử thách lớn.
Thực hiện đường lối đổi mới vì ĐLDT và CNXH Đảng và nhân dân ta đã vượt qua
nhiều khó khăn thử thách, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết đúng đắn các
mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH và đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những thành tựu đó đã góp phần quan trọng vào việc


củng cố vững chắc nền ĐLDT, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH
của nước ta trong suốt quá trình đổi mới.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa
ĐLDT và CNXH còn nhiều vấn đề bất cập; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành,
các địa phương trong giải quyết các mối quan hệ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
còn nhiều hạn chế. Trong nhận thức cũng như trong hành động của một bộ phận không ít
cán bộ, đảng viên và nhân dân còn có biểu hiện mơ hồ, lệch lạc về ĐLDT và CNXH về


con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình khó khăn của đất nước, chúng luôn ra sức tìm
mọi cách chống phá quyết liệt cả mục tiêu ĐLDT và CNXH bằng chiến lược “diễn biến
hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhằm mục đích xoá bỏ Đảng, Nhà nước ta, xoá bỏ chế độ
XHCN của nước ta.
- Trước bối cảnh đó việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và đề xuất những giải
pháp đúng đắn nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự kết hợp chặt chẽ giữa ĐLDT và CNXH trong
công cuộc đổi mới là vấn đề có tính cấp thiết.
- Với lý do trên tác giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải quyết
mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới từ
1986 đến 2001” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
ĐLDT và CNXH là vấn đề chiến lược cơ bản xuyên suốt, là quan điểm nhất quán của
Đảng đã được Đảng tổng kết nhiều lần thành bài học kinh nghiệm qua các kỳ đại hội IV,


VII, VIII, IX, X. Với tầm quan trọng của việc kết hợp giữa ĐLDT và CNXH các nhà lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, nhiều nhà khoa học và tập thể khoa học đã nghiên cứu vấn đề này
với các hình thức khác nhau như: chuyên đề, chuyên luận, tác phẩm, đề tài, bài viết khoa
học, thể hiện tập trung ở các khía cạnh:
Nhìn chung các tác phẩm, công trình, các bài viết khoa học nêu trên đã trình bày
những nội dung cơ bản về ĐLDT về CNXH, mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH, sự kết
hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc… Song chưa có
công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng về Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH từ 1986 đến
2001, nhưng các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu quý giúp tác giả kế thừa,
phát triển trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích

Làm rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tính độc lập sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo
giải quyết mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH từ 1986 đến 2001. Từ đó chỉ ra những
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm, góp phần vào việc vận
dụng giải quyết mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH trong tình hình mới hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa
ĐLDT và CNXH trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến 2001.
- Làm rõ quá trình nhận thức và chỉ đạo của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa
ĐLDT và CNXH trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến 2001.


- Nêu lên những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm Đảng
lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH trong những năm đổi mới từ 1986
đến 2001.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Luận văn nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết mối
quan hệ giữa ĐLDT và CNXH trong công cuộc đổi mới.
* Phạm vi: Luận văn giới hạn nghiên cứu trong thời gian từ 1986 đến 2001, tuy nhiên
để đảm bảo tính kế thừa có hệ thống, luận văn có đề cập đến một số sự kiện liên quan
trước 1986.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về ĐLDT và CNXH.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin, luận văn chủ yếu vận dụng
phương pháp chuyên ngành, kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp lôgíc, đồng
thời sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, thống kê, so sánh, phân kỳ, lịch
đại, đồng đại.
6. Ý nghĩa của luận văn

- Luận văn khẳng định việc giải quyết mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH là một vấn
đề chiến lược đúng đắn của Đảng trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến 2001; góp phần


tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa ĐLDT và
CNXH nhằm vận dụng có hiệu quả vào việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu phục vụ cho nhiệm vụ
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng ở các Học viện, các nhà trường trong và ngoài quân
đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết) kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT MỐI
QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN 2001
1.1. Yêu cầu khách quan về giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến 2001
1.1.1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng đã được
xác định trên những nội dung cơ bản, thể hiện sự gắn bó giữa ĐLDT và CNXH. Trong
khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, Đảng ta vẫn kiên định
sự lựa chọn con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Sự kiên định đó trước hết Đảng đã


dựa chắc vào những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa ĐLDT và CNXH.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong xã hội có giai cấp thì vấn đề dân

tộc bao giờ cũng gắn với giai cấp, không thể tách dân tộc khỏi giai cấp, không bao giờ có
dân tộc chung chung. Mỗi giai cấp đều có quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp đó. Ở mỗi thời đại khác nhau bao giờ
cũng có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, giai cấp đó có khả năng đứng ra giải quyết
vấn đề dân tộc và giương cao ngọn cờ dân tộc theo quan điểm giai cấp mình để đưa dân
tộc tiến lên. Ở thế kỷ XVI - XVII khi giai cấp phong kiến lỗi thời lạc hậu thì vấn đề dân
tộc gắn với giai cấp tư sản, lúc này giai cấp tư sản đứng ở vị trí trung tâm, có khả năng
giải quyết vấn đề dân tộc theo xu hướng dân tộc tư sản và giai cấp tư sản là giai cấp có
khả năng giương cao ngọn cờ dân tộc, đưa dân tộc tiến lên.
Khi CNTB chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản mất hết vai trò tích
cực, vai trò trung tâm của lịch sử, chúng tăng cường áp bức bóc lột, kìm hãm sự phát
triển của dân tộc, sẵn sàng hy sinh lợi ích dân tộc. Mặt khác chúng ra sức xâm lược, áp
bức các dân tộc khác, mở rộng thống trị ra ngoài biên giới quốc gia dân tộc, cấu kết với
các thế lực phản động để buộc các dân tộc khác phải sống trong chế độ lạc hậu, cực khổ
tối tăm. Quan điểm của Mác-Ăngghen lúc này chỉ rõ: “Hãy xoá bỏ nạn bóc lột người thì
nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các
giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng
thời mất theo” [40, tr.565].
Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, vấn đề dân tộc đã trở thành dân tộc thuộc
địa. CNĐQ lúc này vừa là kẻ thù của giai cấp vô sản vừa là kẻ thù của các dân tộc bị áp


bức. Lênin nhắc lại khẩu hiệu: “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại” [37, tr.97]. Đặc biệt sau cuộc cách mạng Tháng Mười năm 1917, giai cấp vô sản đã
thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình là lật đổ CNTB đưa dân tộc phát triển đi
lên CNXH. Vấn đề dân tộc lúc này được trao vào tay giai cấp công nhân, là giai cấp duy
nhất có khả năng giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, kết hợp lợi ích chân chính của giai
cấp mình với lợi ích chung của dân tộc. Đó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử đưa dân tộc
tiến lên CNXH và CNCS. Với xu hướng đó quan điểm của Stalin nêu rõ: các Đảng Cộng
sản và giai cấp công nhân hãy giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ mà tiến lên. Quan

điểm đó thể hiện ĐLDT gắn liền với CNXH.
Thực chất mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
đây là mối quan hệ cơ bản, bản chất nhất, bởi từ mối quan hệ này làm nảy sinh các mối
quan hệ khác như: mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc; giữa
ĐLDT và CNXH; giữa dân tộc với quốc tế. Nói về mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp
với giải phóng dân tộc, quan điểm của Các Mác-Ph.Ăngghen chỉ rõ: “giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc,
phải tự mình trở thành dân tộc” [41, tr.74]. Đồng thời các ông còn nêu rõ: giải phóng giai
cấp vô sản phải gắn với giải phóng dân tộc và giải phóng dân tộc có tác động ngược trở
lại với giải phóng giai cấp.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: ĐLDT và CNXH luôn mang yếu tố thời đại mới,
vì vậy theo tư tưởng của Người, ĐLDT và CNXH luôn luôn quan hệ biện chứng, xâm
nhập chặt chẽ lẫn nhau, làm điều kiện cho nhau. Không có tư tưởng XHCN thì vấn đề
dân tộc không bền vững nâng lên tầm thời đại được. Ngược lại không có yếu tố dân tộc
thì ý thức hệ vô sản không có cơ sở tồn tại.


Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là Người mácxít – lênin nít chân chính, triệt để và
sáng tạo, với thế giới quan kiểu mới cách mạng và khoa học, hấp thụ những tinh hoa tư
tưởng của dân tộc và nhân loại. Người nắm rất vững học thuyết duy vật về lịch sử, lý luận
đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, áp dụng lý luận đó vào việc phân
tích tính chất xã hội và các quan hệ xã hội ở Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong
kiến, Người đã phát hiện ra một điều cực kỳ quan trọng là ở Việt Nam không chỉ có áp
bức bóc lột giai cấp, mà còn có cả áp bức bóc lột dân tộc; không chỉ có đấu tranh giai cấp
mà còn có đấu tranh dân tộc. Ở Việt Nam, có sự bóc lột của tư bản với công nhân, của địa
chủ với nông dân, nhưng kẻ bóc lột lớn nhất, áp bức bóc lột nặng nề nhất đối với cả công
nhân và nông dân Việt Nam và cũng là đối với cả dân tộc Việt Nam là ách áp bức bóc lột
của chế độ thực dân, kẻ thù giai cấp đồng thời là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam. Như
vậy, ở Việt Nam cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp phải gắn bó khăng khít với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Quan điểm của Người khẳng định rõ: “Chỉ có giải phóng giai

cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [43, tr.416].
Vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, Người đã từng khẳng định rằng, chỉ có
CNXH và CNCS mới có thể giải quyết triệt để vấn đề ĐLDT, mới có thể đem lại tự do và
hạnh phúc thực sự cho mọi người, cho tất cả các dân tộc và toàn thể loài người trên trái
đất; chỉ có CNXH và CNCS mới có thể xoá bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị
của CNTB, mới thực hiện được sự giải phóng hoàn toàn và triệt để đối với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động của tất cả các dân tộc trên thế giới, tiến tới tự do, dân chủ,


công bằng và bình đẳng cho mọi người. Chính vì vậy, Người đã đưa ra kết luận quan
trọng:
Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi
của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ
tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ
nghĩa” [48, tr.304 - 305].
Đồng thời, Người khẳng định xu thế khách quan đi lên CNXH của các dân tộc “sớm
hay muộn, tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội” [46, tr.442].
Điểm khác biệt căn bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề ĐLDT so với các quan
điểm của các sĩ phu yêu nước tiền bối là ở chỗ: Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc
vào quỹ đạo của cách mạng vô sản do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, gắn mục
tiêu giải phóng dân tộc (giành độc lập) với các mục tiêu của giải phóng giai cấp (mục tiêu
của CNXH); đặt ĐLDT vận động và phát triển theo xu hướng đi tới CNXH; CNXH là
bước phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc. Khẳng định mối quan hệ gắn
bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng XHCN. Người viết:
Các dân tộc bị áp bức trên thế giới thấy rằng, chỉ có dựa vào phong trào cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đi theo đường lối của giai cấp công nhân thì mới đánh đổ được bọn đế

quốc để giành lại độc lập dân tộc hoàn toàn và bình đẳng thật sự giữa các dân tộc. Cách
mạng tháng Mười Nga đã gắn liền phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa với phong trào


cách mạng giải phóng dân tộc trong một mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc [47,
tr.580].
Tư tưởng độc lập cho dân tộc và tự do hạnh phúc cho nhân dân luôn là tư tưởng chủ
đạo, xuyên suốt trong toàn bộ nhận thức và hoạt động cách mạng của Người. Lúc nào
Người cũng đặt NƯỚC đi liền với DÂN, Người đã nói quan điểm của mình về ĐLDT
như sau: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”: [45, tr.56]. Muốn dân được hưởng trọn vẹn độc lập, tự do thì phải làm cách
mạng vô sản, giải phóng giai cấp, xoá bỏ áp bức, bóc lột, thực hiện dân chủ, bình đẳng,
tức xây dựng chế độ XHCN chứ không thể quay lại chế độ phong kiến hay đi theo chế độ
bóc lột tư bản được. Nghĩa là, nếu đã giành được độc lập cho dân tộc thì phải tiếp tục làm
cách mạng XHCN để giải phóng hoàn toàn giai cấp, quyết không thể dừng lại nửa chừng.
Tư tưởng ĐLDT gắn liền với CNXH của Hồ Chí Minh chính là sự thể hiện sinh động
và cụ thể tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ĐLDT và CNXH của Người là một quá trình phát
triển liên tục, mỗi thời điểm khác nhau, nội dung và cách lập luận khác nhau nhưng cốt
lõi tư tưởng của Người là sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, giải phóng con người, ĐLDT gắn liền với CNXH. Trong đó ĐLDT
gắn liền với CNXH là luận điểm cơ bản, trung tâm và xuyên suốt trong toàn bộ luận điểm
quan trọng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Nó là cơ sở để hình thành
và phát triển đường lối cách mạng Việt Nam trong các thời kỳ lịch sử – đường lối giương
cao ngọn cờ ĐLDT và CNXH.
Trên phương diện lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giai cấp,
ĐLDT và CNXH chúng ta thấy rằng dân tộc và giai cấp, ĐLDT và CNXH có mối quan


hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, làm điều kiện cho nhau, đó là cơ sở để Đảng ta

nhận thức vận dụng, tiếp tục gương cao ngọn cờ ĐLDT và CNXH trong công cuộc đổi
mới.
1.1.2. Đặc điểm tình hình và chủ trương của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới
* Đặc điểm tình hình.
Công cuộc đổi mới vì ĐLDT vì CNXH do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo diễn ra
trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp,
biến động lớn.
Trên thế giới, từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 cuộc cách mạng khoa học
công nghệ không ngừng phát triển mạnh mẽ, tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế,
xã hội toàn thế giới.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ một mặt nó tạo điều
kiện cho các dân tộc nâng cao trình độ mọi mặt, lôi cuốn tất cả các quốc gia dân tộc phát
triển hay chưa phát triển đều có khả năng tận dụng cơ hội này để ứng dụng những thành
tựu mới về khoa học vào các lĩnh vực kinh tế – xã hội, khoa học quân sự, đặc biệt là
những nước có nền công nghiệp phát triển.
Mặt khác, khoa học công nghệ càng phát triển cũng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn
có, tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau đưa đến sự thoả hiệp giữa các nước lớn trong việc giải
quyết các vấn đề của thế giới. Thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất, quốc tế hoá nền
kinh tế thế giới, tạo ra quan hệ giao lưu kinh tế, khoa học kỹ thuật, xu thế hoà bình hợp


tác trong khu vực và trên thế giới ngày càng phát triển. Song xu thế đó cũng gây nên
những khó khăn mới trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh của đất nước, bảo vệ nền ĐLDT.
Yêu cầu khách quan đòi hỏi mỗi nước, mỗi quốc gia phải tự điều chỉnh chiến lược của
mình cho phù hợp với tình hình mới, để vừa hoà nhập vào trào lưu chung của thế giới
hiện đại, vừa giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước và bản sắc dân tộc. Sức mạnh của
mỗi quốc gia, dân tộc là sức mạnh tự thân, sức mạnh nội sinh. Nhưng để tạo ra sức mạnh
của mình các nước phải dựa vào nhau (đặc biệt là các nước đang phát triển) và vận dụng
các quan hệ quốc tế để có vốn và công nghệ mới rút ngắn được khoảng cách tụt hậu để

tiếp cận nền văn minh đương đại.
CNTB hiện đại, để tồn tại và phát triển chúng đã và đang tìm cách điều chỉnh, thích
nghi với điều kiện mới. CNTB đã tận dụng được những thành tựu của cách mạng khoa
học, công nghệ, áp dụng các biện pháp cổ phần hoá, quốc tế hoá về kinh tế… đã làm cho
nền kinh tế trong các nước tư bản phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, Nhà nước tư bản đã
sửa đổi một số chính sách xã hội như giải quyết việc làm, tiền lương, tiền trợ cấp thất
nghiệp… làm dịu đi làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong
các nước tư bản, giữ vững sự thống trị của giai cấp tư sản. Đặc biệt CNTB luôn thay đổi
chính sách đối ngoại, thay đổi chiến lược chống phá cách mạng thế giới, chống phá các
nước XHCN: chúng nêu chiều bài “dân chủ”, “đa nguyên”, lợi dụng những khó khăn, sai
lầm của CNXH để chống CNXH. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay CNĐQ
đã nhiều lần thay đổi chiến lược chống phá cách mạng thế giới bằng mọi thủ đoạn, đặc
biệt chúng đã thực hiện được âm mưu làm sụp đổ một bộ phận lớn các nước XHCN trên
thế giới.


Mặc dù CNTB hiện đại có sự điều chỉnh thích nghi, nhưng sự điều chỉnh thích nghi đó
không phải là thích nghi được mãi mãi, không làm thay đổi bản chất của CNTB. CNTB
không thể tự điều chỉnh để đi lên CNXH như một số người lầm tưởng. Trong xã hội tư
bản, nhà nước tư bản vẫn là nền chuyên chính của giai cấp tư sản. Tuy nhiên trước sự
phát triển của kinh tế – văn hoá - xã hội ngày càng tạo ra những tiền đề của CNXH trong
lòng các nước tư bản chủ nghĩa, hoàn toàn phù hợp với sự tiên đoán của Mác, Đảng Cộng
sản và giai cấp công nhân ở đó cần triệt để lợi dụng tình hình trên để đẩy nhanh tiến trình
cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân… Sự điều chỉnh, thích nghi
của CNTB được xem là những gợi mở cho các Đảng Cộng sản về sự điều chỉnh chiến
lược kinh tế – xã hội của mình cho phù hợp để CNXH đứng vững, phát triển trong điều
kiện mới.
CNXH đã trải qua thời kỳ phát triển rực rỡ, đạt nhiều thành tựu to lớn, thúc đẩy mạnh
mẽ tiến trình phát triển của cách mạng thế giới. Tuy nhiên trong sự phát triển của mình,
CNXH trên thế giới đã phạm những sai lầm, khuyết điểm, dẫn đến khủng hoảng. Đặc biệt

là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng từ cuối những năm 70 và kéo dài trong nhiều năm sau
đó. Cuộc khủng hoảng đó đã gây tổn thất nặng nề, làm suy yếu, tan rã một bộ phận lớn
các nước XHCN và tác động tiêu cực đến phong trào cách mạng thế giới. Nguyên nhân
chính là do lạc hậu nhận thức lý luận về CNXH, duy trì quá lâu cơ chế, mô hình cũ về
CNXH (mô hình của Liên Xô trước đây); không tận dụng được những thành quả của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, do đó đã làm cho tình hình kinh tế – xã hội ở các
nước XHCN ngày càng xấu đi. Tình hình trên đặt các nước XHCN trên thế giới đứng
trước sự lựa chọn mới: hoặc là vẫn tiếp tục con đường mòn như đã làm. Hoặc là tự phê


phán, tự nhận thức lại mình, tìm ra con đường mới có hiệu quả nhằm xây dựng và hoàn
thiện CNXH.
Từ thực tế đó đòi hỏi phải thay đổi cách nghĩ, cách làm và cải cách, cải tổ, đổi mới đã
trở thành trào lưu chung của các nước XHCN, bắt đầu từ những năm cuối 70, đầu những
năm 80 của thế kỷ trước. Quá trình này diễn ra ở các nước với những tên gọi khác nhau,
cải cách ở Trung Quốc (12/1978), cải tổ ở Liên Xô (4/1985), sau đó các nước XHCN ở
Đông Âu tiến hành cải tổ, Việt Nam tiến hành đổi mới (12/1986).
Cải cách, cải tổ, đổi mới là nhằm thoát khỏi trì trệ, là quá trình tự hoàn thiện để thể
hiện sức sống, tính ưu việt của CNXH. Quá trình đó đã đạt được nhiều thành tựu đáng
khích lệ ở một số nước, nhưng phần lớn các nước XHCN đã vấp phải nhiều khuyết điểm,
sai lầm nghiêm trọng về đường lối, quan điểm, hình thức, bước đi, đã làm cho cuộc
khủng hoảng ở các nước này ngày càng trầm trọng hơn. Đặc biệt cải tổ ở Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu ngày càng sa lầy, chệch khỏi quỹ đạo XHCN, dẫn tới tan rã sụp
đổ. Đây là bi kịch chưa từng có trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói
chung, của cộng đồng các nước XHCN nói riêng. Sự thất bại của cải tổ đã tác động tiêu
cực tới phong trào cách mạng thế giới, làm cho so sánh lực lượng trên thế giới về nhiều
mặt, trong đó có thế cân bằng chiến lược về quân sự bất lợi cho cách mạng.
Lối thoát duy nhất để ra khỏi sự khủng hoảng đó là cải cách, đổi mới hay cải tổ…
nhưng phải tuân thủ nguyên tắc của CNXH khoa học, nếu không rất dễ đi chệch hướng
và mắc sai lầm như ở Liên Xô, Đông Âu vừa qua. Một bài học cho tất cả các Đảng cầm

quyền nếu muốn giữ vững sự lãnh đạo đối với toàn xã hội.


Về phương diện an ninh chính trị thế giới đang diễn ra sự chuyển biến từ trật tự thế
giới cũ sang trật tự thế giới mới. Mặc dù tình hình thế giới được coi là có cơ hội cho hoà
bình và ổn định, nhưng thật sai lầm nếu coi hoà bình là vững chắc và ổn định lâu dài.
Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến những biến đổi về an ninh chính trị là sự mất đi
của trật tự cũ hai cực Xô - Mỹ và sự đối đầu Đông – Tây với ý thức là giới tuyến. Tác
động của nó dẫn đến một loạt những thay đổi có tính chất xu thế. Xu thế hoà hoãn, hoà
dịu và hợp tác ngày càng chiếm ưu thế trong các quan hệ quốc tế. Quá trình giải trừ quân
bị đang diễn ra, Mỹ và Nga đang đẩy mạnh thực hiện các hiệp định kiểm soát vũ khí
chiến lược. Hình thái chiến lược cũ không còn nữa. NATO đang điều chỉnh lại nhiệm vụ,
chức năng và cơ cấu tổ chức của nó. Tác động sự đối đầu hai cực cũ không còn nữa cũng
làm cho một số xung đột khu vực và mâu thuẫn cục bộ, vốn chịu sự chi phối của cuộc đối
đầu Đông – Tây, đã và đang đi vào hoà hoãn, hoà dịu. Thế giới đang chứng kiến nhiều sự
bắt tay giữa các đối thủ cũ, chứng kiến sự hợp tác, liên kết mới với nhiều màu sắc và cấp
độ khác nhau.
Hoà bình và an ninh chính trị đã trở thành yêu cầu của thời đại, cho nên mọi dân tộc
phải đặt chúng ở vị trí hàng đầu, và các quốc gia một mặt cạnh tranh quyết liệt với nhau,
thậm chí mâu thuẫn sâu sắc về quyền lợi, nhưng mặt khác lại cần có hoà bình và an ninh
chính trị là điều kiện để phát triển. Cho nên, họ phải cùng nhau bảo đảm hoà bình và an
ninh chung. Nhận thức này càng được củng cố bởi sự tuỳ thuộc lẫn nhau tăng lên và sự
giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, bên cạnh chiều hướng giảm bớt việc bảo
hộ an ninh của các nước lớn đối với các nước nhỏ, cũng bắt đầu xuất hiện xu hướng tự
lực về việc bảo đảm an ninh thông qua quá trình hiện đại hoá quốc phòng của mỗi nước


và việc hợp tác khu vực. Đây cũng là một điều phản ánh xu hướng khu vực hoá trong
quan hệ quốc tế.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có giá trị về mặt địa lý, đa dạng về đất

đai, về biển, tài nguyên phong phú, có nền văn hoá từ lâu đời, là khu vực rộng gấp hai lần
Châu Âu và Hoa Kỳ. Chiếm 1/2 dân số thế giới, có thị trường rộng lớn, là khu vực năng
động phát triển kinh tế, có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trên thế giới, hiện nay là
động lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Là khu vực đa dạng về văn hoá, chủng tộc, sắc tộc,
tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ. Do đó các nước Châu Á - Thái Bình Dương duy trì hoà
bình và ổn định có lợi cho sự phát triển kinh tế. Tuy vậy vẫn tiềm ẩn những khả năng
biến động và xung đột, nguy cơ chiến tranh lãnh thổ và tài nguyên, chạy đua vũ trang ở
biển Đông vẫn xảy ra. Sự cạnh tranh gay gắt về mục tiêu kinh tế và tranh giành ảnh
hưởng chính trị ngày càng mạnh mẽ. Chính vì vậy trong công cuộc xây dựng CNXH
Đảng phải không ngừng củng cố và tăng cường quốc phòng bảo đảm an ninh quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ bảo vệ chế độ XHCN.
Tình hình trong nước
Thực trạng tình hình kinh tế – xã hội của đất nước sau 10 năm xây dựng CNXH (1976
– 1986), công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc đã đạt được những thành tựu và
những tiến bộ đáng kể trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội. Nhưng nhìn chung
nền kinh tế của đất nước vẫn là nền kinh tế sản xuất nhỏ, điểm xuất phát bước vào công
cuộc xây dựng CNXH thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, đất nước lâm vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, bắt đầu từ cuối những năm 70 và kéo dài trong
nhiều năm sau. Biểu hiện rõ nét nhất là sản xuất đình trệ, mất cân đối nghiêm trọng, năng
suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng giảm sút, sản xuất hàng hoá ngày càng nghèo nàn,


lưu thông ách tắc rối ren “sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 0,6%, nông
nghiệp tăng 1,9% thu nhập quốc dân tăng 0,4% trong khi đó dân số tăng 4,5 triệu người”
[74, tr.60]. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, tiêu cực xã hội có chiều hướng phát
triển, các giá trị truyền thống, tinh thần và đạo đức bị xói mòn, hoạt động kinh tế – xã hội
lâm vào tình thế rối ren kéo dài, gây nên tâm trạng hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, vào CNXH, đồng thời những nhân tố gây mất ổn định về chính trị cũng
gia tăng.
Đánh giá thực trạng đó, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình bày

trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) đã nêu rõ:
Năm năm qua, bên cạnh thắng lợi và thành tựu, có rất nhiều khó khăn; và hiện nay,
trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt. Kết quả thực
hiện các kế hoạch trong 5 năm (1976 – 1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối
nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi số dân tăng
nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã
hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ. Lương thực, vải mặc
và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu… Thị trường và vật giá không ổn định. Số
người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó
khăn… [11, tr.35].
Phân tích nguyên nhân của tình hình khó khăn trên, sau khi nói rõ nguyên nhân khách
quan: nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề
của chiến tranh lâu dài, lại phải tiếp tục cuộc chiến tranh giữ nước, thiên tai lớn dồn dập
xẩy ra, Báo cáo Chính trị của Đại hội V còn chỉ rõ:


Song mặt khác, khó khăn còn do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà
nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trên
những mặt nhất định khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là nguyên nhân chủ yếu
gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội trong những
năm qua [11, tr.36].
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đặc biệt là tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của
nhân dân, Đảng đã đề ra một số chủ trương đổi mới trên các lĩnh vực, trước hết là trên
lĩnh vực kinh tế, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt. Những chủ trương đổi mới
của Đảng đã góp phần quan trọng làm tăng đáng kể tốc độ phát triển kinh tế 5 năm (1981
– 1985). Tuy vậy, trong thời gian này những nhược điểm của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp chưa được khắc phục về cơ bản, đã tiếp tục cản trở sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Những tiến bộ và mức độ tăng trưởng kinh tế chưa đủ để khắc phục khó khăn,
đất nước còn bị bao vây, cấm vận và phải chi phí lớn về quốc phòng. Thêm vào đó là một
số sai lầm về xử lý vấn đề giá - lương – tiền làm cho khủng hoảng kinh tế - xã hội tiếp tục

diễn ra gay gắt, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Dù sao kết quả của đổi mới từng
phần cũng đã cung cấp cho ta nhiều kinh nghiệm quý. Chính dựa trên tổng kết thực tiễn,
xem xét những kinh nghiệm ấy và nghiên cứu tham khảo những kinh nghiệm của các
nước trên thế giới mà Đại hội lần thứ VI (tháng 12/1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, đưa đất nước tiến lên.
Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật,
đánh giá đúng sự thật. Đại hội đã nghiêm khắc kiểm điểm những khuyết điểm, sai lầm và
nguyên nhân. Ngoài những nguyên nhân khách quan. Đại hội chỉ rõ về chủ quan là do


khuyết điểm sai lầm trong lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trong việc đánh giá tình hình,
xác định mục tiêu, hình thức, bước đi, sai lầm trong tổ chức thực hiện.
“Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương,
chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” [12, tr.26].
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt trong chính sách kinh
tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế – xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường
lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu
khuynh…
Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế – xã hội bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây
là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
* Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến 2001
Từ những đặc điểm tình hình trên, khi bước vào công cuộc đổi mới cũng như trong
suốt quá trình đổi mới vì ĐLDT gắn liền với CNXH Đảng luôn khẳng định:
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần
và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích
cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân

tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội [12, tr 37 - 38].


Chúng ta phải thấu suốt và thực hiện đúng quan điểm “Toàn dân xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, kiên trì chấp hành
và cụ thể hoá đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[12, tr.38].
Sau 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, Cương lĩnh Đại hội lần thứ VII của Đảng
(6/1991) lại khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm
chiến lược của cách mạng Việt Nam” [15, tr.10]. Đại hội coi đây là một trong những
phương hướng cơ bản chỉ đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VIII lại
tiếp tục khẳng định: “Cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [17, tr.80].
Trong khi xác định xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Đảng còn xác định xây dựng
CNXH là nhiệm vụ hàng đầu, bảo vệ Tổ quốc nhiệm vụ thường xuyên quan trọng, Đảng
chỉ rõ: “Trong khi không ngừng chăm lo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta
tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội” [12, tr.40].
Đến Đại hội VIII, Đảng lại tiếp tục chỉ rõ: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn
luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”
[17, tr.39].
Để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược Đảng còn chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,
Đảng chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, kết hợp chặt chẽ kinh tế, quốc phòng và an ninh, đẩy


mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng và an ninh toàn dân, xây dựng hậu phương đất
nước một cách toàn diện” [12, tr.38].
Đến Đại hội lần thứ VII của Đảng, Đảng tiếp tục khẳng định “kết hợp chặt chẽ kinh tế

với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế
của cả nước và trên từng địa phương; xây dựng, củng cố vững chắc các khu căn cứ hậu
phương chiến lược; chuẩn bị các phương án động viên khi cần thiết” [14, tr.85].
Về quan hệ đối ngoại, với tư cách là mũi nhọn tấn công để nhằm bảo vệ Tổ quốc từ
xa, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc, Đảng chỉ rõ:
Trong những năm tới, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là
ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà
bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới… tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội [12, tr.99].
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đại hội VI về quan hệ đối ngoại, căn cứ vào tình
hình của thế giới và trong nước trong tình hình mới, Đại hội lần thứ VII của Đảng lại chỉ
rõ:
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan
hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội [14, tr.88].


Những chủ trương và quan điểm trên của Đảng đã thể hiện rõ sự kết hợp gắn bó chặt
chẽ giữa ĐLDT và CNXH; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN,
đó còn là sự thể hiện sự nhanh nhạy về bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng trước tình
hình mới của thế giới và trong nước, đồng thời đó còn là cơ sở để Đảng nhận thức và chỉ
đạo thực hiện giải quyết mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH trong quá trình đổi mới.
1.2. Quá trình nhận thức và chỉ đạo của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến 2001
1.2.1. Quá trình nhận thức của Đảng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
công cuộc đổi mới

ĐLDT gắn liền với CNXH là nét chủ đạo xuyên suốt hệ tư tưởng Hồ Chí Minh là
quan điểm nhất quán của Đảng trong suốt lịch sử hơn 76 năm qua của cách mạng Việt
Nam.
Trong những năm đổi mới vừa qua, trước sự đổ vỡ của chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu, Đảng và nhân dân ta đã vượt qua những thử thách rất to lớn. Thành tựu của đổi
mới và xu hướng phát triển tích cực của xã hội ta trong đổi mới, trước hết là do Đảng đã
kiên định sự lựa chọn con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Sự vững vàng và nhất quán
về quan điểm của Đảng đã được sự ủng hộ sâu rộng của các tầng lớp nhân dân đảm bảo
cho đổi mới vì ĐLDT và CNXH ở nước ta diễn ra đạt được những kết quả to lớn. Đó là
một nhân tố cực kỳ quan trọng trong tiến trình phát triển đất nước vì mục tiêu của
CNXH.
Quan niệm của Đảng ta về ĐLDT trong quá trình đổi mới: ĐLDT trước hết phải
giữ vững chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của đất nước, làm


thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch ở trong nước và ngoài nước cấu
kết với nhau, xâm nhập vũ trang, hoạt động lật đổ và thực hiện chiến lược “diễn biến hoà
bình” chống lại dân tộc ta, Đảng và Nhà nước ta. Giữ vững ĐLDT còn là giữ vững con
đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN, giữ vững truyền thống và bản sắc văn
hoá dân tộc.
ĐLDT phải bảo đảm cho dân tộc quyền tự quyết dân tộc không phụ thuộc và lệ thuộc
vào nước ngoài, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường phát triển đất nước.
Do đó mỗi quốc gia dân tộc, độc lập thực sự phải được bảo đảm bởi độc lập về chính trị
và độc lập về kinh tế. Đó là cơ sở bảo đảm cho dân tộc và quốc gia dân tộc có độc lập về
văn hoá, và các giá trị đạo đức của dân tộc mình.
ĐLDT đòi hỏi phải xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với
dân tộc khác về kinh tế, về chính trị và tinh thần. Do đó độc lập phải gắn liền với tự do
bình đẳng, ĐLDT phải bảo đảm chủ quyền của dân tộc trong các quan hệ quốc tế đã được
khẳng định trong thực tế. Đó là chủ quyền của một quốc gia độc lập, có sự thống nhất
toàn vẹn về lãnh thổ, những công việc nội bộ của quốc gia – dân tộc phải do quốc gia đó

giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
ĐLDT yêu cầu sự trao đổi, hợp tác dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn
trọng chủ quyền các quốc gia, vì sự hữu nghị giữa các dân tộc và điều nổi bật lên là cuộc
đấu tranh vì độc lập tự do của mỗi dân tộc thống nhất hữu cơ với mục tiêu đấu tranh
chung của thời đại, của tất cả các dân tộc vì hoà bình, ĐLDT, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, ĐLDT là tiền đề là điều kiện cơ bản để xây dựng đất nước.
Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới Đảng ta chỉ rõ: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên


quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho
độc lập dân tộc”. [15, tr.4], bởi ĐLDT có hai điều kiện quyết định đó là hoà bình và chủ
quyền để xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước, trước
xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc
gia và các khu vực trên thế giới. Quan niệm về ĐLDT của Đảng ta cũng còn có nội dung
khác trước, đó là ĐLDT không phải đứng biệt lập hoàn toàn và khép kín mà phải tiến
hành mở cửa, mở rộng quan hệ hợp tác, tiếp thu thành tựu văn hoá của các dân tộc, tinh
hoa văn hoá nhân loại có chọn lọc, để vươn lên kịp trình độ tri thức thế giới, nhưng phải
có chính sách khôn khéo và chiến lược thông minh trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ,
với nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
ĐLDT trong thời đại mới phải gắn liền với giai cấp công nhân và chỉ có giai cấp công
nhân mới thực hiện được sự kết hợp lợi ích chân chính của giai cấp mình với lợi ích dân
tộc, lợi ích dân tộc này với lợi ích của dân tộc khác. Xoá bỏ triệt để tình trạng bóc lột và
áp bức giai cấp là điều kiện cơ bản nhất để xoá bỏ ách áp bức dân tộc, để thực sự có
ĐLDT, bảo vệ nền ĐLDT mình phải thống nhất với việc tôn trọng nền độc lập của dân
tộc khác.
Quan niệm của Đảng ta về CNXH. Trải qua hơn 20 năm xây dựng CNXH trên miền
Bắc (1954 – 1975) và hơn 20 năm xây dựng CNXH trên cả nước kể từ sau 1975. Quá
trình đó, Đảng ngày càng nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn về CNXH, về con đường đi
lên CNXH ở nước ta.
CNXH ở miền Bắc trước đây là mô hình CNXH thời chiến, chịu sự chi phối tác động

của hai loại qui luật, quy luật chiến tranh và qui luật kinh tế, trong đó, qui luật chiến tranh
chi phối nhiều hơn qui luật kinh tế. Mô hình đó được Đảng xác định là: xây dựng đời


sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, xây dựng miền Bắc trở thành căn
cứ địa vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; góp
phần tăng cường phe XHCN, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Khi cả nước độc lập thống nhất đi lên CNXH Đảng ta xác định mô hình CNXH cho cả
nước là: “xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”
[10, tr.67], nhưng mô hình đó vẫn chịu tác động của những tư duy truyền thống về xây
dựng CNXH ở miền Bắc trước đây.
Công cuộc đổi mới, do Đảng khởi xướng, lãnh đạo, từng bước hình thành những quan
niệm mới về CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do
Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua chỉ rõ:
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm mo, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.


×