Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TIỂU LUẬN ĐẢNG LÃNH đạo xây DỰNG QUÂN đội VỮNG MẠNH về CHÍNH TRỊ TRONG TÌNH HÌNH mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.08 KB, 33 trang )

1
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng lòng cốt của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn
sàng đấu tranh hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì
hạnh phúc của nhân dân”, ra đời trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ngày
càng trưởng thành hơn qua đấu tranh dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công
nhân, mang tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Chính bản chất giai cấp công
nhân đã quy định bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội. Đó là lực
lượng tiến hành các trận đánh quyết định trong cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Trong thời kỳ tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội quân đội là lực lượng vũ trang thường trực có chức năng ngăn
chặn và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc trước những thế lực xâm phạm chủ quyền thiêng liêng của đất nước
trong tình hình mới.
Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt ra mục tiêu xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam
“chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại hóa” về mọi mặt, trong đó Đảng luôn coi trọng
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị nhằm đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trước những thay đổi mau lẹ, diễn biến phức tạp của tình hình trong nước
và quốc tế, việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, làm cho quân đội luôn vững vàng về chính trị, tư tưởng
tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đản, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong điều kiện hiện nay, xây dựng
quân đội về chính trị đang đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng phải đối diện
với nhiều thách thức. Chính vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ sự lãnh đạo của
Đảng trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là điều cần thiết, có giá
trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.


2


NỘI DUNG
Chương 1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1.1. Một số khái niệm
Trước hết chúng ta cần làm rõ một số khái niệm cơ bản như: quân đội, quân
đội nhân dân Việt Nam, xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là gì?
Hiểu rõ những khái niệm cơ bản đó sẽ là tiền đề để chúng ta tìm hiểu, làm sáng tỏ
những quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác xây dựng
quân đội vững mạnh về chính trị.
* Quân đội.
Trên thế giới có rất nhiều những khái niệm khác nhau về quân đội. Theo Ăngghen
quân đội là “một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do Nhà nước xây dựng để dùng vào
cuộc chiến tranh tiến công hoặc cuộc chiến tranh phòng ngự”. Ở nước ta, theo Từ điển
Bách khoa quân sự do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản năm 2004, đã đưa ra
khái niệm về quân đội đó là: “Quân đội là lực lượng vũ trang chuyên nghiệp, tập trung,
thường trực của một giai cấp, Nhà nước, tập đoàn xã hội, làm công cụ bạo lực để tiến
hành đấu tranh vũ tranh nhằm thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, Nhà nước,
tập đoàn xã hội, tổ chức ra quân đội”.
Bản chất giai cấp, mục tiêu chiến đấu và chức năng, nhiệm vụ của quân đội
phụ thuộc vào bản chất giai cấp, mục đích chính trị của giai cấp, Nhà nước, tập
đoàn xã hội tổ chức ra quân đội, không có quân đội phi giai cấp, đứng ngoài
chính trị. Sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào sức mạnh tổng hợp của
chế độ chính trị, trình độ kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội... của đất
nước; số lượng, chất lượng sĩ quan và binh sĩ, nghệ thuật quân sự, vũ khí, phương
tiện kỹ thuật quân sự, trình độ tổ chức, chỉ huy... Quy mô tổ chức của quân đội
phụ thuộc vào nhiệm vụ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ lịch sử nhất định.
* Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân từ nhân dân mà ra, mọi mục tiêu
đều phục vụ lợi ích của nhân dân, lợi ích của dân tộc. Về khái niệm quân đội



3
nhân dân Việt Nam đã được đưa ra trong Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam
của Nhà xuất Quân đội nhân dân Việt Nam được hiểu là:
Quân đội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, thuộc quyền
thống lĩnh của Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chỉ huy
điều hành của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; một quân đội kiểu mới, quân đội của
nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện; lực lượng
nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong nhiệm vụ giải phóng
dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp
công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu, có mục đích chiến đấu nhất quán “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”.
* Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
Khái niệm về xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị đã được
nêu ra trong Từ điển Công tác đảng,công tác chính trị quân đội nhân dân
Việt Nam như sau:
Xây dựng quân đội về chính trị, một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Hiện nay, xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân, tính dân tộc, làm cho quân đội tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng, luôn vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, luôn luôn là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vô sản cao cả, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Xây dựng Quân đội

nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị là cơ sở để xây dựng quân đội vững mạnh về
mọi mặt.
Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, thực chất đó
là quá trình xây dựng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng
của quân đội cho phù hợp với sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ xây dựng và


4
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quá trình xây dựng quân đội nhân dân Việt
Nam vững mạnh về chính trị, chính là quá trình làm cho quân đội thấm nhuần chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng nhằm
nâng cao giác ngộ chính trị, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, xác định mục
tiêu chiến đấu đúng đắn vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cùng với đó là xây
dựng quân đội theo đường lối chính trị, quân sự của Đảng, xác lập cơ chế lãnh đạo
trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt của Đảng đối với quân đội.
Đảng xác định xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị nhằm nâng cao sức
chiến đấu, năng lực nhận thức của quân đội trước những biến đổi nhanh chóng,
phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Đó là nhiệm vụ đấu tranh chống lại
những khuynh hướng sai trái, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, tham gia xây dựng,
củng cố chính quyền, vận động quần chúng thực hiện các nhiệm vụ của Đảng, tuân
thủ Hiến pháp tạo nên sự nhất quán trong toàn quân, toàn dân ý chí một lòng, vượt
qua mọi gian nan, thử thách, trong bất kỳ tình huống nào, thắng không kiêu, bại
không nản, quyết tâm xây dựng nền tảng chính trị vững chắc của quân đội.
Có thể thấy được về nội hàm của khái niệm xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
về chính trị bao hàm nội dung rất rộng, đây cũng là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
quân đội kiểu mới, cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội.
1.2. Những yêu cầu khách quan đối với xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị
* Tình hình thế giới và khu vực.
Bước sang thế kỷ XXI, tình hình quốc tế có nhiều biến động to lớn, phức

tạp nảy sinh nhiều vấn đề lớn đối với cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia. Trong
đó, vấn đề chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia đã và đang trở thành một
trong những vẫn đề đáng lo ngại, cần được giải quyết trên cơ sở bình đẳng, tôn
trọng hòa bình, an ninh, khu vực trên thế giới. Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, một trật tự thế giới mới được hình
hình thành đó là thế giới đa cực. Sự đối đầu giữa hai hệ thống xã hội tuy không
còn nữa, nhưng cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên thế giới trong
những năm đầu thế kỷ XXI và những năm tiếp theo vẫn tiếp tục diễn ra quyết liệt
với nhiều hình thức, cách thức khác nhau.


5
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam là khu vực đang có khả
năng phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định
như vấn đề tranh chấp về chủ quyền, biên giới, đặc biệt là vấn đề biển đảo đang
tạo lên những thách thức, những áp lực cho nhiều quốc gia. Điều này đã được
Đảng nhận định: trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế
giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi
với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế
lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ có
những bước tiến mới. Khu vực Đông Nam Á, Châu Á - Thái Bình Dương sau
khủng hoảng tài chính, kinh tế có khả năng phát triển năng động nhưng vẫn
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Cùng với đó là ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tác động
đến nhiều ngành, nghề, lĩnh vực vừa tạo ra những thuận lợi nhưng cùng tiềm ẩn nhiều
nguy cơ. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã ảnh hưởng lớn
đến quân sự, nhiều quốc gia đã chế tạo thành công nhiều vũ khí có sức công phá lớn, sức
hủy diệt cao và lấy đó làm thế mạnh tạo áp lực đối với các quốc gia khác, tạo lên sự mâu

thuẫn trong quan hệ quốc tế. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến suy nghĩ, tư tưởng của
nhiều chiễn sĩ đang tham gia trong quân đội, chưa tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của
nền quân sự nước mình, Việt Nam cũng không nằm ngoài những tác động đó. Điều này
dẫn đến suy giảm sức mạnh tổng hợp của quân đội, đòi hỏi phải xây dựng bản lĩnh chính
trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội trong mọi tình huống. Đó chính là một trong
những nguyên nhân cần tiến hành xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
* Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt
động chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược "diễn biến hoà bình".
Trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch
đã có những thay đổi chính sách chống phá, làm sụp đổ các nước xã hội chủ
nghĩa, trong đó có Việt Nam bằng một chiến lược mới “diễn biến hoà bình” kết
hợp “bạo loạn lật đổ” chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân
dân ta. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn giương lên chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” để kích động, chia rẽ, phân hoá làm cho ta


6
tự diễn biến dẫn tới sụp đổ. Chiến lược chống phá này được chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch kết hợp chặt chẽ với việc chống phá ta về chính trị, tư tưởng,
văn hoá, tạo điều kiện gây bạo loạn lật đổ và có thể sử dụng biện pháp quân sự
nhằm lật đổ Nhà nước ta.
Có thể thấy được âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là
xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thủ tiêu chế độ xã hội chủ
nghĩa của nhân dân ta xây dựng là không bao giờ thay đổi. Chiến lược ấy được
thực hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đối với quân đội chúng thực
hiện “phi chính trị hoá” quân đội, chúng đưa ra những luận điểm như: cần xây
dựng quân đội trung lập, quân đội quốc gia, quân đội chỉ cần bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, không cần trung thành với Đảng, đăt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
xoá bỏ bản chất giai cấp, làm cho quân đội mất phương hướng, mục tiêu chiến
đấu, hoài nghi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là những thách

thức đối với xây dựng quân đội về chính trị đảm bảo phát huy được sức mạnh của
toàn quân đáp ứng yêu cầu mới về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Tình hình kinh tế - xã hội trong nước.
Bước sang thế kỷ XXI, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta tiếp tục được đẩy mạnh. Những thành tựu
trong quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là cơ sở,
nền tảng để Đảng thực hiện hiện đại hoá nền quốc phòng toàn dân, hiện đại hoá
quân đội. Bên cạnh những thuận lợi có được, tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta
cũng tồn tại nhiều hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến sự ngiệp xây dựng quân đội
của Đảng trong giai đoạn mới.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang trở thành
một trong ba vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay. Đây thực sự là nguy
cơ lớn đối với công tác xây dựng Đảng nói riêng và xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần được khắc phục trong thời gian tới.
Như vậy, tình trạng suy thoái nêu trên cùng với sự chống phá của chủ nghĩa
đế quốc, các thế lực thù địch đã tác động không nhỏ đến xây dựng quân đội về
chính trị trong tình hình mới.


7
* Thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng quân đội về chính trị trong những năm
trước thế kỷ XXI.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội lần thứ VI (1986)
của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đất nước, trong đó có quân đội: xây dựng
quân đội nhân dân chính quy ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày
càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình
độ chiến đấu và sức chiến đấu cao. Tổ chức tốt bảo vệ chủ quyền và giữ vững an
ninh các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo, xây dựng và củng cố bộ
đội biên phòng vững mạnh. Tiếp tục phát triển dân quân tự vệ với số lượng và

chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Tăng cường xây dựng lực lượng dự
bị, Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển nền khoa học và nghệ thuật quân sự
Việt Nam.
Triển khai tinh thần Đại hội Đảng VI và trong các Đại hội Đảng VII, VIII,
Đảng uỷ Quân sự Trung ương đã tập trung quán triệt đường lối chính trị, đường lối
quân sự quốc phòng của Đảng, các chính sách của Nhà nước, tăng cường cảnh giác
cách mạng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phát huy mọi nguồn lực, kết hợp
chặt chẽ quốc phòng với kinh tế - xã hội, quốc phòng với an ninh đối ngoại, làm
nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong đó, xây dựng quân đội về chính trị từ Đại hội Đảng VI (1986) đến trước
thế kỷ XXI được xác định đó là: tập trung xây dựng bản chất cách mạng cho quân
đội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên trì đường lối đổi mới của
Đảng; tiến hành công tác giáo dục, tuyên truyền vận động quần chúng cách mạng
gắn chặt với chăm lo bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội; xây dựng
quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; thực hiện nhất quán đường lối
quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, thực hiện nghĩa vụ quốc tế; tập trung
xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức.


8
Thực hiện những chủ trương của Đảng về xây dựng chính trị trong quân đội, Đảng ủy
Quân sự Trung ương đã luôn coi trong công tác, giáo dục chính trị, tư tưởng làm cho cán
bộ, chiến sĩ luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, quán triệt và thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Công tác giáo dục chính trị đã từng bước đổi mới, hoạt động

nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn được chú trọng, một số vấn đề lý luận đã từng bước
được làm rõ, góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra theo yêu cầu nhiệm vụ của
quân đội trong giai đoạn mới. Các tổ chức đảng trong quân đội được kiện toàn, cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội tiếp tục được hoàn thiện, nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội tiếp tục được củng cố. Đảng ủy Quân sự Trung
ương đã tập trung làm tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và chi bộ, tạo được
sự chuyển biến về sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ
đảng viên làm hạt nhân lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân
đội.
Nhìn chung trong thời kỳ từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, trong đó có quân đội đến trước thế kỷ XXI đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, đặc biệt là về chính trị đó là: quân đội vẫn luôn kiên định, vững vàng,
thực sự là lực lượng chính trị đặc biệt, lực lượng chiến đấu trung thành tin cậy
của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân, hoàn thành tốt các nhiệm vụ của Đảng và
nhân dân giao cho, cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được thì hoạt động xây dựng quân đội về
chính trị trong giai đoạn này vẫn cò có những hạn chế, khuyết điểm:
Trong nhận thức về nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị ở một số cấp uỷ
đảng còn có biểu hiện phiếm diện, chỉ nhấn mạnh việc xây dựng bản chất giai cấp
công nhân một các trừu tượng, hoặc quá nhấn mạnh tính dân tộc mà chưa biết
khai thác để phát huy hết sức mạnh tiềm năng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ
thống chính trị, tham gia xây dựng quân đội về chính trị
Chất lượng chính trị của một số tổ chức đảng tuy có chuyển biến tích cực
những chưa toàn diện và vững chắc. Tiêu chí xây dựng đảng bộ, chi bộ trong


9
sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện chưa được xác

định thống nhất cho phù hợp với sự phát triển của tình hình nhiệm vụ mới.
Chất lượng, trình độ của một số đảng viên, cán bộ, tổ chức đảng chưa đáp
ứng với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới. Nguyên tắc
tập trung dân chủ có nơi, có lúc vẫn còn có những cấp uỷ, cán bộ, đảng viên chấp
hành chưa nghiêm.
Bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ chưa thật sự vững vàng.
Trước những thủ đoạn chống phá của kẻ thù, sự phát triển của vũ khí công nghệ
cao đã có những biểu hiện dao động, lo sợ chưa thật sự tin tưởng vào sức mạnh
của quân đội, nhân dân và dân tộc. Trong huấn luyện bộ đội còn biểu hiện tư
tưởng chỉ coi trọng chuyên môn kỹ thuật đơn thuần, không chú trọng trau dồi
phẩm chất chính trị, đạo đức của người quân nhân cách mạng, dẫn đến hiện
tượng phát sinh tiêu cực, gây tác động không tốt đến hoạt động xây dựng quân
đội về chính trị trong điều kiện mới.
Những yếu kém khuyết điểm trên đã tác động tiêu cực đến hoạt động xây
dựng quân đội về chính trị trong tình hình mới. Thực trạng trên đã đặt ra những
nội dung yêu cầu mới đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị của Đảng.
Nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, quân đội cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đi đầu trong cuộc
đấu tranh phi vũ trang chống "diễn biến hoà bình" và bạo loạn lật đổ; là lực lượng
nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân
dân, bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở các quy mô và
trình độ khác nhau.
Thứ hai, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ ba, tích cực tham gia xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các nhiệm vụ trên quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, phản ánh vai
trò quan trọng của quân đội đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng trong bối

cảnh lịch sử mới. Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đó, phải đẩy mạnh xây


10
dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại có
số lượng hợp lý, với chất lượng cao, lấy xây dựng quân đội về chính trị làm cơ
sở. Từ đó đặt ra những yêu cầu mới về xây dựng quân đội về chính trị trong tình
hình mới đó là:
- Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính
dân tộc sâu sắc.
- Xây dựng quân đội thực sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Bảo đảm cho quân đội có đủ sức mạnh chiến đấu cao hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao.
- Phát huy bản chất truyền thống tốt đẹp cuả quân đội, giữ vững đạo đức, lối
sống "Bộ đội Cụ Hồ".
Chương 2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
2.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh về chính trị
Bước sang thế kỷ XXI, trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp; Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã đưa ra nhận định về tình hình thế giới: thế
kỷ XXI, tình hình thế giới sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước
tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Thế giới đang đứng trước những vấn
đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp
tác đa phương.
Trên cơ sở phân tích, nhận định tình hình Đại hội đã đề ra đường lối phát

triển kinh tế - xã hội, trong đó về quốc phòng - an ninh đã nêu rõ: thường xuyên
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng an ninh. Từ đó, Đại
hội đã đi đến khẳng định: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân


11
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có trình độ văn hoá kiến thức ngày càng cao, quý trọng và hết lòng phục vụ
nhân dân; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân”.
Trước đó, tháng 1 năm 2001, Đảng uỷ Quân sự Trung ương đã tổ chức Đại
hội đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VII, trên cơ sở phân tích đặc điểm tình
hình trong nước và quốc tế. Đại hội đã nêu rõ những thành tựu đã đạt được của
Đảng bộ quân đội trong nhiệm kỳ 1996-2000. Từ đó, đề ra phương hướng, nhiệm
vụ lãnh đạo của Đảng bộ quân đội nhiệm kỳ 2001-2005. Phương hướng , nhiệm
vụ xây dựng Đảng bộ quân đội trong 5 năm (2001-2005) được xác định đó là:
Quán triệt đường lối, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng Đảng về nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn Đảng đối với quân đội, bồi dưỡng nâng cao tính tiền
phong, gương mẫu, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cơ sở xây dựng quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Kiên quyết khắc phục có hiệu quả
mặt còn yếu kém, ngăn chặn, chấm dứt các biểu hiện suy thoái, bảo đảm quân đội
luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân
dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Thực hiện chủ trương được đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(4/2001), trước những yêu cầu đặt ra Ban chấp hành Trung ương Đảng đã triệu
tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8. Hội nghị đã ra Nghị quyết
“Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Hội nghị đã xác định mục
tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đó là: Bảo vệ

vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và
môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Hội nghị đã nêu rõ: tăng cường quốc
phòng, giữ vững an ninh, quốc phòng và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Tiếp tục xây dựng Quân đội


12
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ thông qua tại các đại
hội và hội nghị kể trên là cơ sở để Đảng ta xác định những chủ trương, phương
hướng xây dựng quân đội về chính trị.
Chủ trương xây dựng quân đội về chính trị của Đảng trong thời kỳ mới đó là:
Một là, xây dựng nền tảng tư tưởng của quân đội ta, đó là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường giáo dục mục tiêu, lý tưởng cách
mạng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội trong tình hình mới. Trong điều kiện mới,
cần tập trung giáo dục, tuyên truyền sâu rộng làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ nắm
vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để củng cố niềm tin vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng và vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn xây dựng quân đội.
Giáo dục chính trị, tư tưởng trong quân đội trong tình hình mới cần giáo dục một cách
có hệ thống lý luận khoa học và nghệ thuật quân sự vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin cho
đội ngũ cán bộ quân đội. Tập trung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với những vấn đề
chiến lược của cách mạng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân
dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân. Qua đó, phát triển khoa học và nghệ
thuật quân sự vô sản trong điều kiện đặc thù Việt Nam. Vận dụng quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới vào xây dựng quân đội ta. Giáo dục lý

luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hệ thống và toàn diện cho cán
bộ, chiến sĩ, cần kết hợp với giáo dục đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, nghị quyết của đảng bộ các cấp trong quân đội.
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong quân
đội, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nhằm xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị.
Công tác xây dựng Đảng cần quán triệt sâu sắc đường lối nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ xây dựng Đảng và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới,
tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tập trung
nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo toàn diện, năng lực tổ chức thực hiện của
các tổ chức đảng, xây dựng cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh gắn
với cơ quan đơn vị vững mạnh toàn diện; xây dựng chi bộ đại đội đủ quân vững


13
chắc có chi uỷ, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên cả về chính trị và phẩm chất
đạo đức, lối sống; phát huy hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị trong thực hiện
nhiệm vụ; xây dựng cơ quan tổ chức, cán bộ vững mạnh về mọi mặt, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt động của quân đội, bảo đảm quân đội luôn là lực
lượng chính trị, tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận
và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải xây dựng Đảng bộ Quân đội
cũng như các tổ chức đảng trong toàn quân thực sự trong sạch vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cũng như chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới mà Hội nghị lần thứ 8, khoá IX của Đảng đã đề ra.
Bên cạnh việc làm tốt công tác Đảng trong quân đội cần tăng cường củng cố,
kiện toàn các tổ chức đoàn thể trong quân đội theo hướng đổi mới về nội dung và
hình thức hoạt động, trong đó tích cực đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng,
các cuộc vận động cách mạng, góp phần thiệt thực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

chính trị đã được đề ra.
Ba là, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong quân đội và giữa quân đội với
các thành tố trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với bạn bè quốc tế.
Để thực hiện chủ trương trên, Đảng đã đề nhiệm vụ cần đa dạng hoá các
hình thức tập hợp nhân dân, thực hiện tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi
tổ chức, thành viên về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Ngoài tổ chức
là các đoàn thể chính trị - xã hội, cần hướng vào tổ chức theo nghề nghiệp, theo
ngành kinh tế - kỹ thuật, theo các nhu cầu của nhân dân trên mọi lĩnh vực khoa
học - kỹ thuật, thể dục, thể thao, nhân đạo, hữu nghị. Tuy nhiên không dừng lại ở
dạng tổ chức xã hội hay nghề nghiệp đơn thuần, mà phải thông qua đó để tiến hành
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và định hướng các hoạt động thực hiện các
nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong các tổ chức đó. Kết hợp
tốt việc tổ chức theo ngành nghề với tổ chức cơ sở theo địa bàn, chú trọng xây
dựng các tổ chức chính trị - xã hội cơ sở gắn với tổ chức đảng, chính quyền ở địa
phương, phối hợp thực hiện các hoạt động xây dựng quân đội vững mạnh về chính
trị làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện.


14
Về tăng cường mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân, Đảng chủ trương cần
phải có thêm nhiều hình thức và phương pháp tiến hành công tác xây dựng khối
đoàn kết quân dân phù hợp với tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng
mới. Trước mắt cần tập trung vào nhiệm vụ tham gia xây dựng cơ sở chính trị,
phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, xoá đói giảm nghèo giúp nhân dân các địa
phương, giữ vai trò nòng cốt và triển khai có hiệu quả mối quan hệ quân dân như
cá với nước, góp phần xây dựng thế trận lòng dân vững chắc.
Về quan hệ giữa quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội các nước trên thế
giới, Đảng đã xác định: tăng cường mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và
đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế
lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ

quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết
các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất bại mọi âm
mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Trong tình hình mới, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục quán
triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương VIII (khoá IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới và các nghị quyết chuyên đề về quốc phòng - an ninh của Bộ
chính trị, xây dựng ngành đối ngoại quân sự vững mạnh, xứng đáng là lực lượng
tin cậy trên mặt trận đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Tại Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ VIII (12/2005) trên cơ sở phân tich
tình hình, đánh giá kết quả thực hiện phương hướng, nhiệm vụ xây dựng quân đội
nhiệm kỳ 2000-200, Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ trong xây
dựng quốc phòng trong 5 năm tới đó là: quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung
ương 8 (khoá IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tập trung
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội, tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ và đồng bộ về quân sự, quốc phòng; động viên mọi nguồn lực, xây
dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại,
thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của
Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ, quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống; xây
dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, ngăn ngừa, đẩy lùi, làm thất


15
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động
bất ngờ, góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về phương hướng xây dựng Đảng bộ Quân đội nhiệm kỳ 2006-2010 được xác định:
tiếp tục phát huy bản chất cách mạng, khoa học của giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực

tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội; thực hiện có hiệu quả việc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng. Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội thực sự vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, có tầm trí tuệ cao, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao có
phương thức lãnh đạo khoa học; đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng,
thực sự tiền phong gương mẫu về phẩm chất, đạo đức, lối sống, đủ sức lãnh đạo toàn quân
vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, luôn xứng đáng là lực lượng
chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân
dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) đã khẳng định: “nâng cao chất lượng
tổng hợp, sức mạnh chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong
sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân,
được nhân dân tin cậy, yêu mến”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục
nhấn mạnh và xác định rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu, xây dựng Quân đội nhân dân với số
quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao”.
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể khái quát về chủ trương của Đảng
trong xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2011
trên một số nội dung:
Thứ nhất, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao giác ngộ mục
tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ quân đội trong giai đoạn cách mạng
mới.


16
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân thực chất là xây dựng
quân đội ta vững mạnh về chính trị. Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân

tộc tiếp tục diễn ra gay go, quyết liệt với nhiều nội dung, hình thức mới trong bối
cảnh quốc tế, khu vực có nhiều thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó
lường. Điều đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục nâng cao cảnh
giác, chăm lo sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới. Tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc
của quân đội trong tình hình mới trở thành nội dung quan trọng hàng đầu, xuyên
suốt quá trình xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta.
Tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội trong giai đoạn hiện cần
phải nâng cao cảnh giác, nhận rõ những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế,
khu vực đang từng ngày, từng giờ tác động tới sự nghiệp cách mạng nước ta; và
kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhận rõ chiến lược “diễn biến hoà
bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
Để chủ động làm thất bại mọi âm, thủ đoạn phá hoại của địch cần quán triệt sâu sắc
chủ trương, phương hướng của Đảng:
Bồi dưỡng, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho quân đội luôn là vấn
đề căn bản, hệ trọng trong mọi thời kỳ xây dựng và trưởng thành của quân đội. Mục tiêu lý
tưởng chiến đấu xuyên suốt bao trùm của quân đội ta là vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, đây vừa là tiêu chí căn bản phản ánh tập trung nhất bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta, vừa là cơ sở để xây dựng, củng cố và tăng cường
mối quan hệ mật thiết giữa quân đội với nhân dân.
Đây cũng chính là mục tiêu chiến đấu, nhiệm vụ chính trị trung tâm của quân đội
ta trong giai đoạn cách mạng mới; đòi hỏi cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp
trong toàn quân phải nhận thức đúng đắn, giáo dục quán triệt sâu sắc cho bộ đội. Đồng
thời, tuỳ theo tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ của từng đơn vị, tổ chức lãnh đạo, chỉ huy
đơn vị hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; không ngừng nâng cao cảnh giác
cách mạng, cùng toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
mọi bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào.



17
Hai là, không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị trong tình hình mới.
Cơ chế lãnh đạo có vai trò rất quan trọng, không có cơ chế lãnh đạo đúng,
Đảng không thể giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Thực tế lịch sử quá trình tổ chức, xây dựng quân đội đã chứng rằng, cơ chế lãnh
đạo của Đảng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả lãnh đạo của Đảng và sức
mạnh chiến đấu của quân đội. Nếu cơ chế lãnh đạo phù hợp sẽ nâng cao hiệu
quả lãnh đạo của Đảng và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Ngược lại, nếu cơ
chế lãnh đạo không phù hợp, sẽ làm cản trở, hạn chế sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội và do đó làm giảm sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Ngày 20/7/2005, Bộ Chính trị khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW
về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người
chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân
Việt Nam. Nghị quyết khẳng định: mhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng xây
dựng quân đội, đặc biệt là nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đảng, công tác
chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy
của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và của nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao trong mọi tình huống.
Đến ngày 20/11/2007, Bộ Chính trị ban hành quy định số 105-QĐ/TW về tổ chức
đảng trong quân đội; ngày 09/10/2007, Ban Bí thư ban hành Quy định số 91-QĐ/TW về tổ
chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp theo đến ngày 08/8/2008,
Ban Bí thư có Công văn số 208-CV/TW về việc sửa đổi, bổ sung Quy định về chức năng,
nhiệm vụ đảng bộ, chi bộ cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Để cơ chế nhanh chóng đi vào thực tế và phát huy tác dụng, đòi hỏi các cấp uỷ, cán
bộ chủ trì các cấp trong toàn quân phải quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện triệt để;
các cơ quan chức năng trong quân đội cần phát huy vai trò tham mưu, giúp cấp uỷ các
cấp cụ thể hoá và chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện nghiêm túc cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội theo Nghị quyết 51/NQ-TW của Bộ Chính trị; kịp thời rút


18
kinh nghiệm để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
cho phù hợp với sự vận động của thực tiễn.
Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới đòi hỏi công
tác đảng, công tác chính trị phải góp phần quan trọng làm hạn chế mức thấp nhất
sự tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đến nhận thức, tư tưởng, tình
cảm của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Đó là những hiện tượng quan liêu, tham
nhũng, suy thoái về phẩm chất đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, sự phân hoá giàu nghèo, phân hoá giai
cấp, phân tầng xã hội, sự biến đổi, chuyển dịch giá trị, định hướng giá trị trong xã
hội, chủ nghĩa cá nhân thực dụng, cơ hội về chính trị và các hiện tượng tiêu cực xã
hội khác.
Ba là, tích cực, chủ động đấu tranh ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng chống phá cách mạng nước ta.
Xây dựng quân đội về chính trị phải gắn với việc đấu tranh chống lại sự chống
phá và âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch, là tất yếu
khách quan của quá trình xây dựng quân đội về chính trị. Đấu tranh chống âm mưu
“phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch là một biện pháp quan trọng,
một đòi hỏi tất yếu và càng trở nên bức thiết đối với sự nghiệp xây dựng quân đội ta
về chính trị trong thời kỳ mới. Không phải chúng ta cường điệu hoá sự chống phá và
những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhưng rõ ràng sự chống phá của
chúng đối với cách mạng Việt Nam nói chung, đối với quân đội ta nói riêng ngày
càng quyết liệt với nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc và tinh vi. Trong điều kiện kinh

tế - xã hội của nước ta hiện nay, nhất là khi nước ta đã là thành viên chính thức của
Tổ chức Thương mại thế giới, các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,
thâm nhập vào các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội, vào các hoạt động
hợp tác, đầu tư, du lịch... khiến cho chúng ta không dễ dàng nhận biết và rất khó
đấu tranh.
Cần thấy rằng, sự chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch làm cho
cán bộ, chiến sĩ dễ dẫn đến lơ là, mất cảnh giác, rơi vào tả khuynh hoặc hữu khuynh
trong quá trình đấu tranh; khó phát hiện và nhận mặt chỉ tên các thế lực thù địch;
lúng túng trong xử lý các tình huống cụ thể; khó khăn trong việc phân biệt đâu là


19
thiếu sót, khuyết điểm của ta, đâu là sự chống phá của chúng, để tìm cách đấu tranh
có hiệu quả.
Bốn là, giữ gìn và phát huy các mối quan hệ cơ bản của quân đội, góp phần
nhân lên sức mạnh vô địch của quân đội trong tình hình mới.
Trong tình hình hiện nay, để quân đội xứng đáng là công cụ bạo lực trung
thành, sắc bén của Đảng, của nhân dân, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong sự
nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 8, khoá IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mớ”i của Đảng chúng ta càng phải ra sức củng cố, tăng cường thắt chặt
mối quan hệ mật thiết giữa quân đội với nhân dân, thực hiện quân với dân một ý
chí, quyết tâm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Để tăng cường mối quan hệ giữa quân và dân trước hết cần phải đẩy mạnh hơn
nữa công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, chiến sĩ quân đội nhận thức sâu
sắc về truyền thống quan hệ, đoàn kết quân dân và vai trò, tầm quan trọng của
việc củng cố, tăng cường quan hệ, đoàn kết quân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Từ đó, nêu lên được những giải pháp nhằm tăng
cường mối quan hệ giữa quân và dân đưa những giải pháp đó vào thực tế.

Cùng với đó, cần tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp đó thông qua các
phong trào hành động cách mang: hành quân về nguồn, về với nhân dân, sống
trong lòng dân, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân, thông qua các việc làm
thiết thực như: tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương, lao động sản xuất
giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo, xoá mù chữ, khắc phục bão lụt, thiên tai, xây
dựng đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, giữ gìn trật tự trị an, thôn bản, đấu
tranh bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội.
Trong hoạt động đối ngoại quốc phòng cần nắm vững quan điểm của Đảng đó là:
nước ta không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào, nhưng sẵn sàng quan hệ hợp tác
với các nước vì lợi ích chung của cộng đồng. Thực hiện đúng các nguyên tắc trong quan
hệ hợp tác với từng đối tượng theo quy định như: với các nước láng giềng có chung biên
giới; các nước bạn bè truyền thống; các nước trong khối ASEAN; các nước lớn trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mục đích quan hệ là nhằm tăng cường hiểu biết, tin


20
cậy và đoàn kết, cùng nhau giải quyết các vấn đề liên quan, giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
2.2. Sự chỉ đạo của Đảng trong việc thực hiệc xây dựng quân đội vững mạnh
về chính trị đáp ứng yêu cầu của tình hình mới
Bước sang thế kỷ XXI trong nước và quốc tế có nhiều biến động phức tạp. Kinh tế
thế giới và khu vực đan xen những biểu hiện suy thoái, phục hồi và phát triển; hoạt động
cạnh tranh, bảo hộ của một số nước đã tác động không nhỏ đến kinh tế - xã hội nước ta.
Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ đẩy mạnh chiến lược toàn cầu cực
quyền và hiếu chiến, lợi dụng chiêu bài chống khủng bố ra sức kích động chủ nghĩa ly
khai, xung đột tôn giáo, sắc tộc, dân tộc và ngang nhiên can thiệp vào công việc nội bộ
các nước.
Đối với nước ta, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến
lược “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lập đổ”, "”phi chính trị hoá” quân đội nhằm xoá bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó,

tình trạng tham nhũng, tệ quan liêu, lãng phí, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối
sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đang là vấn đề bức xúc của
xã hội.
Trong bối cảnh đó, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng quân đội về chính trị
được thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Một là, nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, tăng cường giáo dục lý tưởng, mục tiêu chiến đấu vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội của quân đội.
Thực hiện chủ trương của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, việc quán triệt và
đưa đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng vào mọi mặt hoạt động của quân đội
được chú trọng, đã tập trung xây dựng quân đội về chính trị, làm cơ sở nâng cao
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, củng cố vững chắc sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội.
Công tác giáo dục chính trị đã quán triệt sâu sắc và kiên định mục tiêu, lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; kiên định quyết tâm thực hiện
công cuộc đổi mới theo quan điểm, nguyên tắc, bước đi của Đảng; khắc phục những biểu
hiện dao động, bi quan, bảo thủ, giáo điều, chủ quan, nóng vội và đặc biệt là những biểu
hiện lỏng lẻo, xa rời quan điểm, nguyên tắc của Đảng.


21
Thường xuyên tuyên truyền giáo dục về tình hình nhiệm vụ và âm mưu thủ
đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lập đổ của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, qua đó nêu cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, làm cho bộ đội nhận rõ đối tượng, đối tác, thấy hết tính chất gay
go quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong điều kiện mới.
Tích cực tổ chức đấu tranh trực diện trên các diễn đàn, phát huy thế mạnh của các
phương tiện thông tin đại chúng để phản bác những quan điểm phản động, tư
tưởng sai trái góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo
vệ đường lối quan điểm của Đảng. Đồng thời tích cực tuyên truyền vận động nhân

dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, kiên quyết đấu tranh làm thất
bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để
chống phá sự nghiệp cách mạng, góp phần tăng cường “thế trận lòng dân”, giữ
vững ổn định chính trị trên từng địa bàn.
Thường xuyên chăm lo nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ chính trị của quân đội, nhất là trong sẵn sàng chiến đấu, kiên
quyết làm thất bại mọi âm mưu, thủ đọan “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, “phi chính
trị hoá quân đội” của các thế lực thù địch; đồng thời đẩy mạnh công tác vận động quần
chúng, coi đây là một nhiệm vụ chiến lược của Đảng, của quân đội.
Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 7 năm 2003,
dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Tổng cục Chính trị
tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quân nghiên cứu học tập 10 chuyên đề tư tưởng Hồ
Chí Minh. Sau hội nghị cán bộ toàn quân, các đảng bộ trực thuộc Đảng uỷ Quân
sự Trung ương và toàn quân lần lượt tổ chức các đợt học tập, nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đây là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong toàn quân.
Qua đợt học tập, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ củng cố sự kiên định về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quyết tâm rèn luyện nâng cao phẩm
chất đạo đức cách mạng, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ngày 4/10/2004, Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương ra Chỉ thị số
339/CT-ĐUQSTW “Về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua Quyết
thắng, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến trong quân
đội”. Chỉ thị nêu rõ: Các cấp uỷ Đảng, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thi đua - khen thưởng; mỗi chi bộ, đảng viên cần phát


22
huy tốt vai trò của các tổ chức quần chúng, các cấp, các ngành trong việc phối
hợp tổ chức các hoạt động thi đua, làm cho thi đua thật sự trở thành phong trào
hành động cách mạng sâu rộng trong cơ quan đơn vị.
Hai là, tiếp tục củng cố kiện toàn các tổ chức trong quân đội, kiên định

nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối
với Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 26/11/2004, Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương tổ chức Hội nghị tổng
kết thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá V) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng”.
Hội nghị đã tổng kết và đánh giá về kết quả quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết 27NQ/TW của Bộ Chính trị đã tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong quá trình
tổ chức thức hiện, đáp ứng sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ; xây dựng các tổ chức
quần chúng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là phù hợp với đặc điểm về tổ chức, hoạt
động của quân đội. Các quy định của cấp uỷ, chỉ huy các cấp trong Đảng bộ Quân đội
quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc. Hệ thống tổ chức đảng các cấp được củng cố,
kiện toàn đúng Điều lệ Đảng và các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Chế độ một người chỉ huy được quán triệt và tổ chức thực hiện ở các
cấp trong toàn quân đã góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của đơn vị và quân đội. Hệ
thống tổ chức cơ quan chính trị và cán bộ chính trị được củng cố, kiện toàn, làm nòng cốt
tiến hành công tác đảng, công tác chính trị và xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị
trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết vẫn còn bộc lộ những vướng
mắc, hạn chế, dẫn đến năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các cấp
uỷ Đảng so với yêu cầu tình hình, nhiệm vụ còn có những bất cập. Việc thực hiện
các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách ở một số nơi chưa thực hiện nghiêm túc…Cá biệt còn biểu hiện dân
chủ hình thức trong sinh hoạt của cấp uỷ, làm cho sức chiến đấu, năng lực lãnh
đạo của tổ chức đảng bị hạn chế.
Để tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình
hình mới, khắc phục những mặt hạn chế của cơ chế cũ, Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 51/NQ-TW ngày 20/7/2005 về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh


23

đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ
chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Đây là cơ sở quan
trọng để đảm bảo vững chắc cho sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội và là điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ quân đội lãnh đạo,
chỉ đạo xây dựng quân đội về chính trị đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn.
Đến ngày 01/12/2005 Đảng uỷ Quân sự Trung ương có Nghị quyết số
513/NQ-ĐUQSTW “về lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết số 51NQ/TW của Bộ Chính trị”.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức đảng của các đơn vị làm nhiệm vụ
ở các địa bàn trọng điểm, đơn vị mới thành lập và đơn vị đủ quân sẵn sàng chiến
đấu; chỉ đạo rút kinh nghiệm về vị trí, vai trò công tác đảng, công tác chính trị
trong huấn luyện, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật cho cán bộ chính trị ở cơ
sở; chỉ đạo rút kinh nghiệm và xây dựng chi bộ đại đội đủ quân có chi uỷ, đổi
mới quy trình ra nghị quyết, bồi dưỡng năng lực điều hành của bí thư và nâng cao
tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ, đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực trong đơn vị; qua đó năng lực lãnh đạo toàn diện, sức
chiến đấu của các tổ chức đảng được nâng lên, thực sự là hạt nhân chính trị ở cơ
sở, lãnh đạo đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Về công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Quân đội đã tập trung kiện toàn cấp uỷ
với sắp xếp, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, thường xuyên coi trọng xây dựng tổ chức
cơ sở đảng gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng chi
bộ đại đội đủ quân có chi uỷ. Tích cực bồi dưỡng nâng cao năng lực công tác
đảng, công tác chính trị cho đội ngũ bí thư, cấp uỷ viên; gắn xây dựng, bố trí, sắp
xếp đội ngũ cán bộ chủ trì với lựa chọn nhân sự cấp uỷ để giới thiệu với đại hội
đảng bộ bầu vào cấp uỷ khoá mới.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển của quân đội, Tổng cục Chính trị đã
tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra chỉ thị số 181/CT-QP về đào tạo
nguồn và giải quyết cán bộ cơ sở.
Đến tháng 10/2003, Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương tổ chức Hội
nghị cán bộ toàn quân nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX)
về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Hội nghị chỉ rõ năm mục

tiêu mà nghị quyết xác định là: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền thống nhất


24
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi
trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đã đẩy mạnh phong trào xây dựng đơn vị
an toàn gắn với xây dựng địa bàn an toàn ở các loại hình đơn vị. Thường xuyên
quan hệ, hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong và ngoài quân đội
trong đấu tranh và xử lý những đối tượng xâm phạm và gây phương hại cho an
ninh quân đội, an ninh quốc gia. Kịp thời đề xuất những chủ trương, biện pháp
giáo dục, phòng ngừa bảo vệ nội bộ. Bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các mục tiêu
trọng điểm, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn khách quốc tế thăm
và làm việc với quân đội. Thực hiện tốt nhiệm vụ an ninh kinh tế - đối ngoại.
Tham gia bảo vệ tốt Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ VIII
và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo các tổ chức quần chúng có nhiều hoạt động
phong phú, thiết thực, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị,
xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện ở từng cơ
quan, đơn vị. Các tổ chức quần chúng trong quân đội thường xuyên được củng
cố, kiện toàn, có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động, đặc biệt là
đã tích cực đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua quyết thắng, các cuộc vận
động cách mạng, thu hút được đông đảo hội viên tham gia.
Ngày 6/12/2001, Tổng cục chính trị tổ chức Hội nghị thanh niên toàn quân
tổng kết xây dựng mô hình “Ba đỉnh cao quyết thắng”. Cùng với đó, công tác
phụ nữ và phong trào phụ nữ quân đội được tiến hành chủ động với nhiều hoạt động
đúng hướng; thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với
đặc điểm các đối tượng nữ trong quân đội và từng loại hình đơn vị. Tập trung đẩy

mạnh phong trào thi đua “Phụ nữ quân đội tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh phúc”, phong trào “giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Ba là, tăng cường các mối quan hệ quân dân, quan hệ nội bộ và quan hệ
quốc tế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới.
Về mối quan hệ nội bộ, Đảng chỉ đạo tăng cường xây dựng tình đoàn kết
giữa cán bộ và chiến sĩ, cấp trên và cấp dưới. Biện pháp hàng đầu là các tổ chức


25
đảng và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chỉ huy luôn luôn gương mẫu, tôn trọng và phát
huy dân chủ, kỷ luật, đề cao phê bình và tự phê bình, quan tâm đến đời sống vật
chất, tinh thần cho bộ đội.
Về mối quan hệ quân dân, Đảng chỉ đạo các cấp lãnh đạo, chỉ huy các cơ
quan, đơn vị trong toàn quân tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng,
thiết thực hướng vào phát huy vai trò của quân đội trong chăm lo, giúp đỡ và bảo
vệ dân. Qua đó củng cố, tăng cường và phát triển quan hệ, đoàn kết quân dân như
cá với nước cho phù hợp với thực tiễn tình hình cách mạng mới và nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân.
Về mối quan hệ quốc tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế mà Đảng đã
đề ra. Đến ngày 4/8/2003, Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ thành lập Viện Quan hệ quốc
tế về quốc phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ của Viện là nghiên cứu các
thông tin chiến lược về tình hình quân sự, an ninh khu vực và chính sách quốc
phòng của các nước; xây dựng và phát triển quan hệ với các tổ chức có liên quan
trong và ngoài nước; tổ chức các hội nghị, hội thảo về nghiệp vụ quan hệ đối ngoại
quân sự. Việc thành lập Viện Quan hệ quốc tế về quốc phòng là bước phát triển mới
về công tác đối ngoại quân sự trong tình hình mới.
Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị, Đảng uỷ
Quân sự Trung ương đã phát động trong toàn quân Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo dức Hồ Chí Minh”. Đây là đợt sinh hoạt chính trị có ý

nghĩa hết sức quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng chính trị của quân đội
trong thời kỳ mới. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn quân, nâng cao
đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi những biểu
hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, ngăn chặn và hạn chế đến mức
thấp nhất vi phạm kỷ luật trong quân đội, pháp luật Nhà nước.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc
phòng mà thường xuyên, trực tiếp là sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị; sự lãnh
đạo chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chỉ huy các cấp, công tác giáo dục chính trị
trong quân đội đã được triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện ở tất cả các cấp và
đạt được những kết quả quan trọng.


×