Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Nghiên cứu nhu cầu và mức độ tiếp cận thông tin trong sản xuất của nông hộ trường hợp nghiên cứu trong nông hộ chăn nuôi tại xã quảng vinh, quảng điền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.39 KB, 26 trang )

Đề tài: “Nghiên cứu nhu cầu và mức độ tiếp cận thông tin trong sản xuất của
nông hộ: Trường hợp nghiên cứu trong nông hộ chăn nuôi tại xã Quảng Vinh,
Quảng Điền”.
MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. Thực trạng chăn nuôi lợn nông hộ giai đoạn 2010 – 2015 ở Việt Nam
Bảng 2. Tình hình đàn lợn giai đoạn 2011 - 2015 của tỉnh Thừa Thiên Huế
Bảng 3. Tình hình chăn nuôi lợn trong những năm gần đây (ĐVT: Con)
Bảng 4. Đặc điểm cộng đồng vùng nghiên cứu
Bảng 5. Đặc điểm về quy mô chăn nuôi lợn của hộ khảo sát
Bảng 6. Thực trạng các phương tiện tiếp cận thông tin của xã Quảng Vinh
Bảng 7. Thực trạng về phương tiện tiếp cận thông tin của các hộ khảo sát
Bảng 8. Thực trạng thời điểm tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi tại xã Quảng
Vinh (ĐVT: %)
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Hình 1: Bản đồ vị trí địa lý xã Quảng Vinh - Huyện Quảng Điền – TT.Huế
Biểu đồ 1. Cơ cấu thu nhập của hộ điều tra tại xã Quảng Vinh
Biểu đồ 2. Mức độ tiếp cận thông tin của các nông hộ chăn nuôi lợn
Biều đồ 2.1. Biểu đồ mức độ tiếp cận theo từng loại thông tin của nông hộ chăn nuôi
lợn tại xã Quảng Vinh
Biểu đồ 3. Phương tiện mong muốn tiếp cận của các nông hộ chăn nuôi

1


Biểu đồ 4. Loại thông tin mong muốn tiếp cận của nông hộ chăn nuôi lợn tại xã
Quảng Vinh
Biểu đồ 5. Thời gian mong muốn tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi lợn tại xã
Quảng Vinh


Biểu đồ 6. Mức độ áp dụng thông tin vào hoạt động sản xuất của nông hộ chăn nuôi
lợn

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NNNT
PT-TH

:

Nông nghiệp nông thôn

:

Phát thanh – Truyền hình

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

BQ

:

Bình quân

PV


:

Phỏng vấn

ĐVT

:

Đơn vị tính

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn một thập kỷ trở lại đây, ở nước ta, thông tin và truyền thông có những bước
phát triển đột biến, đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự phát
2


triển của mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội. Các phương tiện truyền thông
đã và đang trở thành kênh thông tin quan trọng phản ánh mọi mặt của đời sống. Đặc
biệt, trong giai đoạn hội nhập quốc tế, vai trò của thông tin và truyền thông càng
được khẳng định, đó là cầu nối giữa nhiều quốc gia, khu vực.
Ở Việt Nam, với 70% dân số sống ở khu vực nông thôn, vai trò của thông tin
nông nghiệp nông thôn (NNNT) luôn luôn được đánh giá cao. Nhất là trong bối
cảnh hiện nay, khi người nông dân Việt Nam đang tham gia vào nền kinh tế thị
trường và chịu tác động ngày càng mạnh của sự cạnh tranh, thì thông tin càng trở
thành một nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của họ.
Thực tế cho thấy, do thiếu thông tin nên nông dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói
riêng, nông dân trên cả nước nói chung hầu như đều tự mình “phán đoán” thị
trường giá cả. Điều này thể hiện rõ mỗi khi giá lúa có xu hướng tăng lên vài trăm

đồng là diễn ra tình trạng găm hàng không chịu bán, rồi khi có biến động về giá đi
xuống lại xảy ra tình trạng “bán tống, bán tháo” dẫn đến tình cảnh bị thương lái ép
giá. Còn nhiều hàng nông sản khác mà nông dân không tìm được đầu ra cho sản
phẩm của mình vì không nắm được thị trường. Cũng như thiếu thông tin về các
dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và cách phòng tránh khi chúng mắc bệnh nên ảnh
hưởng đến quá trình nuôi của họ... Đây là một ví dụ cho thấy vai trò quan trọng của
thông tin đối với người nông dân.
Nông dân cần thông tin, và thực tế là chúng ta đã phát triển một số kênh thông
tin NNNT. Trên hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin NNNT cũng
đã được chuyển tải với một số chuyên mục/nội dung, vào các thời điểm khác nhau
và theo nhiều hình thức truyền tải, ở cả cấp trung ương và địa phương.
Ở cấp trung ương, một số chương trình có thể kể tên là Nông thôn Ngày nay,
Bản tin Nông nghiệp, Nhà nông làm giàu, Cùng Nông dân bàn cách làm giàu, Mách
nhỏ bà con, (VTV1); Đối thoại chính sách (Nông thôn Ngày nay); Phân tích thị
trường nông sản (Kênh InfoTV truyền hình cap Việt Nam), kênh truyền hình
chuyên biệt về nông nghiệp, nông dân, nông thôn…
Ở cấp tỉnh, ngoài các chương trình NNNT do các cơ quan truyền thông của tỉnh
sản xuất, (Đài PT-TH tỉnh, Báotỉnh), đang có sự xuất hiện tham gia của của các
doanh nghiệp như Viettel Media trong hoạt động truyền thông NNNT (truyền hình
và điện thoại).

3


Tuy nhiên, dù nhà nước đã có nhiều quan tâm đến mạng lưới thông tin nông
nghiệp nông thôn nhưng thời điểm vừa qua, việc người nông dân được tiếp cận với
những thông tin cần thiết, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp còn khá hạn chế, đặc
biệt là thông tin của nông hộ sản xuất chăn nuôi. Nguyên nhân của vấn đề này một
phần có thể là do hiệu quả của các kênh truyền thông còn một số bất cập. Bởi thế,
dù mạng lưới thông tin rất rộng nhưng người nông dân vẫn “đói” thông tin và chịu

nhiều thiệt thòi bởi những khoảng trống do việc thiếu thông tin mang lại.
Hiện nay ở nước ta chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hiệu quả
của các kênh thông tin NNNT trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin trong sản xuất
của nông dân về chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn của nông hộ.
Vì vậy, Nghiên cứu xây dựng hệ thống cung cấp thông tin thị trường cho nông hộ
chăn nuôi có ý nghĩa rất quan trọng không những đối với sinh kế của người dân mà
còn có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
Đây chính là lý do mà nhóm chúng tôi nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu nhu cầu
và mức độ tiếp cận thông tin trong sản xuất của nông hộ: Trường hợp nghiên
cứu trong nông hộ chăn nuôi tại xã Quảng Vinh, Quảng Điền”.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
-

Tìm hiểu thực trạng tiếp cận thông tin phục vụ sản xuất của nông hộ.
Đánh giá nhu cầu tiếp cận thông tin nông nghiệp của nông hộ.
Xác định các yếu tố thúc đẩy và cản trở tiếp cận và sử dụng thông tin nông

nghiệp của các nông hộ.
PHẦN II. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Nhu cầu
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn,
nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo
trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có
những nhu cầu khác nhau.
Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì
khả năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu đồng


4


nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận thức có sự
chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn nhu cầu).
Nhu cầu của một cá nhân, đa dạng và vô tận. Về mặt quản lý, người quản lý chỉ
kiểm soát những nhu cầu có liên quan đến hiệu quả làm việc của cá nhân. Việc thoả
mãn nhu cầu nào đó của cá nhân đồng thời tạo ra một nhu cầu khác theo định hướng
của nhà quản lý, do đó người quản lý luôn có thể điều khiển được các cá nhân.
Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt hay mất cân
bằng của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối
thiểu hay còn gọi là nhu yếu đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát
triển và tiến hóa.
Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con
người nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và sử
dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, xã hội.
2.1.2. Thông tin

Thông tin (Information) là những ý tưởng, những kiến thức, những sự kiện con
người có thể hiểu biết về nó nhờ có sự trao đổi với nhau hoặc do con người nhận biết
bằng các giác quan. Thông tin là điều kiện tất yếu tạo thành tri thức của con người.
Thông tin là phương tiện con người dùng để giao tiếp và phát triển cộng đồng.
Thông tin thúc đẩy sự phát triển xã hội, xã hội càng phát triển nhu cầu thông tin càng
cao. Việc tận dụng các nguồn thông tin sẳn có để áp dụng vào sản xuất, vào đời sống
giúp con người rút ngắn thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và thúc đẩy phát triển kinh tế
nhanh hơn.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam đòi hỏi
tăng cường thông tin chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới đến nông dân để
nông dân áp dụng vào sản xuất nâng cao dân trí và đời sống.
* Tầm quan trọng của thông tin

Theo truyền thống, những bức thông điệp của Khuyến nông thường dựa vào
kinh nghiệm của nông dân hoặc những kết quả của công tác nghiên cứu khoa học
nông nghiệp. Ở nhiều nước, chính sách của nhà nước là rất quan trọng đối với việc
đưa ra các quyết định của nông dân, ví dụ những chính sách về thuế, chính sách về giá
cả...
2.1.3. Nông hộ

5


Về hộ nông dân, Ellis định nghĩa “Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông
nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu sức lao
động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ
yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có xu hướng hoạt động với
mức độ không hoàn hảo cao” (Ellis, 1988, p.19).
Nhà nông học Nga - Traianốp cho rằng "Hộ nông dân là đơn vị sản xuất rất ổn
định" và ông coi "Hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển nông
nghiệp". Luận điểm trên của ông đã được áp dụng rộng rãi trong chính sách nông
nghiệp tại nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển.
Ở nước ta, có nhiều tác giả đề cập đến khái niệm hộ nông dân. Theo nhà khoa
học Lê Đình Thắng (1993, trang 19) cho rằng: “Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là
hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”. Đào Thế Tuấn (1997) cho
rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao
gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn”.
Còn theo nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc (2001, trang 6), trong phân tích điều
tra nông thôn năm 2001 cho rằng: "Hộ nông nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50%
số lao động thường xuyên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt,
chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm đất, thuỷ nông, giống cây trồng, bảo vệ thực
vật,...) và thông thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp".
2.1.4. Nhu cầu sử dụng thông tin của nông hộ


Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tìm Nhu cầu tiếp cận thông tin của
nông hộ chăn nuôi ở 3 khía cạnh: nhu cầu về loại thông tin, nhu cầu về kênh thông tin
và nhu cầu về thời điểm tiếp cận thông tin, tần suất tiếp cận của nông hộ chăn nuôi và
tần suất cung cấp của địa phương. Bên cạnh đó, tác giả cũng tìm hiểu đánh giá của
người dân về hiệu quả của nội dung cũng như kênh thông tin trong chăn nuôi của
nông hộ để từ đó tìm hiểu mong muốn tiếp theo của người nông hộ nhằm phát huy
hiệu quả của các kênh thông tin.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng chăn nuôi lợn nông hộ ở Việt Nam

6


Từ năm 2010– 2015 tốc độ tăng đàn: 6,4%/ năm Trong đó đàn nái tăng 2,6%,
tổng sản lượng thịt hơi tăng 16,75%, khối lượng xuất chuồng tăng 2,75%, bình quân
thịt hơi/ đầu người tăng 8,43%.
Tuy nhiên, chăn nuôi lợn ở nước ta vẫn còn những hạn chế cơ bản là tỷ trọng từ
hình thức chăn nuôi nông hộ vẫn chiếm 65-70% về đầu con và 56-60% vể sản lượng;
tỷ lệ đàn nái trên tổng đàn chiếm 14,9% (năm 2015) trong khi trung bình của thế giới
là 8-10%; chất lượng đàn giống tuy đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu
cầu sản xuất (nhất là khu vực chăn nuôi nông hộ); tình trạng ô nhiễm môi trường trong
chăn nuôi lợn chưa được khắc phục.
Bảng 1. Thực trạng chăn nuôi lợn nông hộ giai đoạn 2010 – 2015 ở Việt Nam
Năm

2010

2011


2012

2013

2014

2015

Số lượng (triệu con)

27,37

27,1

26,5

26,3

26,8

27,7

3036,4

4170

4300

4300


3400

3500

Sản lượng thịt
(Nghìn tấn)

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Ngành chăn nuôi lợn có những bước tiến bộ đáng kể cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên năng suất chăn nuôi lợn chỉ bằng 45 – 50% các nước chăn nuôi tiên tiến,
thấp hơn một số nước trong khu vực.
Năng suất chăn nuôi lợn không đồng đều ở các khu vực (thành tích sản xuất thịt
lợn/nái/năm) bình quân cả nước 478,5 kg; miền Bắc 419,7 kg; Đông Nam Bộ 662 kg;
đồng bằng sông Cửu Long 761 kg; Trung du miền núi phía Bắc 322,5 kg.
Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến năng suất chất lượng của đàn lợn Việt Nam:
Cơ cấu đàn giống chủ yếu nuôi lợn địa phương có năng suất thấp, nhiều mỡ, ít nạc, tỉ
lệ nái ngoại và lai ít chiếm khoảng 8 – 10%; chưa phải là sản xuất hàng hóa sản phẩm
chủ yếu tiêu dùng nội địa. Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật còn thấp, tổ chức quản lý sản
xuất còn yếu, chưa đồng bộ, ít thông tin.
2.2.2. Thực trạng chăn nuôi lợn nông hộ ở Thừa Thiên Huế
Diễn biến đàn lợn của tỉnh Thừa Thiên Huế tăng đều từ năm 2011 đến nay. Nhìn
chung đàn lợn của tỉnh tăng cả về số lượng và sản lượng thịt và thay đổi cả cơ cấu
7


đàn. Những năm trước đây nghành chăn nuôi lợn ở đây còn nuôi theo hình thức quảng
canh, quy mô phân tán, nhỏ lẻ là chủ yếu. Với hình thức chăn nuôi như vậy sản phẩm
thịt lợn của tỉnh mới chủ yếu đáp ứng được nhu cầu nội tỉnh mà chưa đáp ứng được
nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên trong những năm gần đây các chương trình dự án phát
triển chăn nuôi như cải tạo đàn lợn, chương trình siêu nạc, phát triển trang trại có ảnh

hưởng tích cực đến phát triển chăn nuôi lợn của tỉnh. Ngoài ra các chính sách về hỗ
trợ khác như thú y, cho vay tín dụng,…công tác khuyến nông về chăn nuôi cũng được
tăng cường và mở rộng kết hợp với các lớp tập huấn mở rộng mô hình trình diễn, tổ
chức các chuyến tham quan cho hộ chăn nuôi đi học hỏi kinh nghiệm ở các địa
phương khác… đã góp phần lớn vào thức đẩy chăn nuôi lợn phát triển cả về số lượng
và chất lượng. Chúng ta có thể thấy rõ qua bảng sau:
Bảng 2. Tình hình đàn lợn giai đoạn 2011 - 2015 của tỉnh Thừa Thiên Huế
Danh mục

2011

2012

2013

2014

2015

Số lượng
(Con)

232,9

230,096

198,983

201,708


202,167

Sản lượng
(Tấn)

23,435

22,623

19,943

20,134

20,208

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế 2011- 2015)
PHẦN III. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu: nông hộ chăn nuôi lợn.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- 30 nông hộ chăn nuôi lợn tại xã Quảng Vinh – huyện Quảng Điền – tỉnh Thừa
Thiên Huế.
3.2. Nội dung nghiên cứu
-

Thực trạng tiếp cận thông tin phục vụ sản xuất nông nghiệp của nông hộ chăn
nuôi lợn tại xã Quảng Vinh.
8



-

Nhu cầu tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi lợn.

-

Các yếu tố thúc đẩy và cản trở việc tiếp cận và sử dụng thông tin nông nghiệp
của nông hộ chăn nuôi lợn

3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp

Tìm kiếm, đọc và tổng hợp nội dung liên quan đến đề tài ở tất cả các tài liệu
như: các báo cáo, tổng kết kinh tế xã hội ở địa phương, các tài liệu thống kê
của các cơ quan; các tạp chí khoa học; các tài liệu, số liệu của văn phòng dự


án.
Thu thập thông tin qua các cơ quan, đơn vị quản lý và chuyên môn nghiên



cứu bằng cách phỏng vấn sâu các cán bộ ban ngành liên quan.
Đọc một số nghiên cứu khoa học, tạp chí và các thông tin liên quan đến đề tài

3.3.2

ở trên những trang mạng internet tin cậy
Thu thập thông tin sơ cấp: thu thập qua điều tra, khảo sát thực tế, phỏng
vấn

 Khảo sát thực địa: Nhằm nắm bắt những thông tin cơ bản nhất của điạ bàn
nghiên cứu như: điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hoạt động trồng trọt,chăn
nuôi...
 Phỏng vấn người am hiểu: 1 cán bộ phụ trách nông nghiệp của xã, 1 phó chủ
tịch UBND xã, 4 trưởng thôn về tình hình chăn nuôi lợn của xã trong những
năm gần đây, danh sách các hộ chăn nuôi lợn trong xã, số lượng phương tiện
cung cấp thông tin bằng bảng hỏi bán cấu trúc.
 Phỏng vấn 30 hộ chăn nuôi lợn theo phương pháp ngẫu nhiên dựa vào danh
sách mà các trưởng thôn cung cấp bằng bảng hỏi bán cấu trúc về những nội
dung như: nhân khẩu, trình độ văn hóa, lao động, thu nhập, quy mô chăn
nuôi, đầu tư, năng suất, tình hình chăn nuôi của hộ, những thuận lợi, khó

khăn, hạn chế trong chăn nuôi lợn.
3.3.3. Phương pháp phân tích và xử lý thông tin
- Các thông tin định tính sẽ được tổng hợp và phân nhóm trong mối quan hệ với
nhau.
- Thông tin định lượng xử lý bằng phần mềm Excel. Được trình bày dưới dạng bảng
biểu và biểu đồ.

9


PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
I. Giới thiệu tình hình kinh tế - xã hội địa phương
1. Tổng quan chung về xã Quảng Vinh
Xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, có tỉnh lộ 11A đi ngang
qua, địa bàn tương đối rộng, kéo dài từ xã Phong Hiền, huyện Phong Điền đến giáp thị
trấn Sịa, huyện Quảng Điền, cách thành phố Huế khoảng 10-15km. Tổng diện tích đất
tự nhiên 1.976 ha.


Hình 1: Bản đồ vị trí địa lý xã Quảng Vinh - Huyện Quảng Điền – Thừa Thiên Huế
Quảng Vinh là một xã mà đa phần hộ nhân dân chủ yếu sống bằng nghề chuyên
canh lúa nước kết hợp nuôi cá nước ngọt, cá lúa, và các ngành nghề như: nón lá,
may mặc, mộc, nề, bên cạnh đó có làng chuyên làm nghề truyền thống, đó là làng
nghề làm bún thuộc thôn Ô Sa.
- Về tiểu thủ công nghiệp: Nhìn chung ngành tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn phát

triển tương đối ổn định, lượng hàng hóa xuất ra thị trường đa dạng và mang lại hiệu
quả; giá trị sản xuất của ngành là 76.641 tỷ đồng (2015). Trong năm ngành tiểu thủ
công nghiệp phát triển tốt, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động. Sản xuất
vật liệu xây dựng, cung ứng nguồn gỗ, sản xuất các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp,
mộc mỹ nghệ chuyển biến tích cực mang lại giá trị thu nhập cao, làng nghề bún phát
triển ổn định
10


- Về dịch vụ: Các ngành nghề dịch vụ tương đối phát triển, giá trị sản xuất ngành đạt

99,106 tỷ đồng (2015). Mạng lưới Dịch vụ - Thương mại ngày càng phát triển, chất
lượng dịch vụ- thương mại ngày càng được nâng lên, hàng hóa ngày càng đa dạng
đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Một số loại hình Dịch vụ Thương mại phát triển khá như dịch vụ vận tải hàng hóa nông sản phẩm, dịch vụ sửa
chữa xe máy, điện dân dụng, điện tử, dịch vụ vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng,
dịch vụ làm đất, thủy lợi, thu hoạch, sau thu hoạch và một số dịch vụ ăn uống giải
khát.
- Sản xuất nông nghiệp: Tổng sản lượng của các ngành sản xuất nông nghiệp ngày càng

gia tăng, giá trị sản xuất đạt 86.677 tỷ đồng (2015). Về trồng trọt, có các loại cây
trồng chính là lúa, lạc, ngô, hoa và rau màu các loại với tổng diện tích gieo trồng là
1.542,4 ha (2015). Trong quá trình tổ chức sản xuất đã làm tốt công tác chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp vào sản xuất. Bên

cạnh trồng trọt thì chăn nuôi cũng được xã chú trọng đầu tư phát triển. Tổng đàn trâu
bò 455 con, đàn lợn 8706 con, tổng đàn gia cầm là 74150 con, diện tích nuôi cá hồ là
14,63 ha. Về lâm nghiệp, công tác chăm sóc và bảo vệ rừng trong những năm qua
được triển khai khá tốt.. Việc phủ xanh đất trống bằng cây lâm nghiệp đã được chú
trọng bằng các hình thức chăm bón rừng trồng dự án 661 và trồng cây phân tán trên
các diện tích đất được giao.
Nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của xã ngày càng phát triển. Cơ cấu kinh tế
đang chuyển dịch theo hướng “Tiểu thủ công nghiệp – Dịch vụ - Nông nghiệp”,
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, tạo sự bền
vững nền kinh tế. Trong đó, tiểu thủ công nghiệp chiếm 29,2%, du lịch - dịch vụ
chiếm 37,8%, nông – lâm nghiệp là 33%.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xã còn gặp nhiều khó khăn về
vấn đề giải quyết việc làm, đào tạo nghề, xóa đói giảm nghèo, vấn đề tập trung
chuyên canh chưa được đầu tư đúng mức, phát triển kinh tế chưa tương xứng với
tiềm năng vốn có của địa phương. Vì vậy, chính quyền địa phương cũng như người
dân cần nỗ lực phấn đấu, thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh, gắn tăng trưởng kinh tế
với đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững.

11


2. Thực trạng chăn nuôi lợn quy mô nông hộ tại xã Quảng Vinh
Quảng Vinh là xã chăn nuôi trọng điểm của huyện Quảng Điền. Những năm trở
lại đây, tình hình chăn nuôi lợn trên địa bàn xã Quảng Vinh phát triển mạnh, đặc biệt
là chăn nuôi theo quy mô nông hộ. Với phương thức chăn nuôi bán công nghiệp và
hình thức nuôi từ nái đến thịt là chủ yếu. Do tận dụng nguồn giống của gia đình nên
giảm chi phí trong quá trình sản xuất, bên cạnh đó giải quyết được lao động nhàn rỗi
tại gia đình nông hộ. Nhờ phát triển theo hình thức này mà nhiều hộ dân cải thiện
được thu nhập, bộ mặt kinh tế của gia đình được cải thiện.
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn xã được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 3. Tình hình chăn nuôi lợn trong những năm gần đây (ĐVT: Con)
Năm
Tổng đàn
Lợn thịt
Lợn nái
Lợn con

2013
3928
1715
600
1613

2014
4025
1285
750
1990

2015
4556
1556
850
2150

Tỷ lệ 2015/2013 (%)
1,16
0.90
1,40
1,33


(Nguồn: Báo cáo KT – XH Quảng Vinh 2013, 2014, 2015)
Từ bảng số liệu trên ta thấy, trong những năm gân đây, ngành chăn nuôi xã Quảng
Vinh đã phát triển đáng kể. Kể từ năm 2013 đến nay ngành chăn nuôi có hướng phát
triển tương đối ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt đến 1,2 % năm. Đặc biệt
là lợn thịt năm 2015 so với năm 2013 tăng 1,5 % tăng từ 1285 con lên 2556 con. Từ
đó cho thấy, chăn nuôi lợn tại địa bàn xã ngày càng được chú trọng phát triển, đóng
góp một phần không nhỏ vào kinh tế của hộ gia đình và nhu cầu về lợn thịt của người
dân cũng tăng đáng kể là cơ sở để ngành chăn nuôi liên tục phát triển trong tương lai.
Nhờ các chính sách phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cũng như sự mạnh dạn
đầu tư con giống, thức ăn và chăm sóc, áp dụng các biện pháp thú y của các hộ chăn
nuôi lợn mà địa phương có sự tăng trưởng đột biến như vậy.
II.

Đặc điểm của nhóm hộ điều tra
1. Khái quát về nhóm hộ điều tra
Nhóm hộ được điều tra phân bố ở bốn thôn: Phổ Lại, Thanh Cần, Sơn Tùng, Lai

Trung. Các hộ này đều tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính.

12


Bảng 4. Đặc điểm cộng đồng vùng nghiên cứu
Chỉ tiêu
Trình độ văn hóa BQ chủ hộ
Số khẩu BQ/hộ
Số lao động BQ/hộ
Lao động chăn nuôi lợn BQ/hộ
Tổng thu nhập BQ/hộ

Thu nhập chăn nuôi lợn BQ/hộ

ĐVT
Lớp
Khẩu
Lao động
Lao động
Triệu đồng
Triệu động

Số lượng (N=30)
8,26
4,7
3,4
1,83
88,75
53,08

(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Qua bảng trên, đặc điểm của cộng đồng nghiên cứu được thể hiển qua các chỉ số:
số khẩu bình quân/ hộ là 4,7; số lao động bình quân/ hộ là 3,4; số lao động chăn nuôi
bình quân/ hộ là 1,83; tổng thu nhập bình quân/hộ là 88, 75 triệu đồng/năm; trong đó
thu nhập chăn nuôi bình quân/ hộ là 53,08 triệu đồng/năm chiếm 60% .
2. Cơ cấu thu nhập của nhóm hộ điều tra

Là một xã thuần nông thuộc huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, sinh kế của
người dân bao gồm các hoạt động sản xuất nông nghiệp: trồng trọt, chăn nuôi,nuôi
trồng .. ngoài ra còn có các khoản thu khác từ các hoạt động sản xuất phi nông
nghiệp như buôn bán, xây dựng, con em ở xa gửi về…


Biểu đồ 1. Cơ cấu thu nhập của hộ điều tra tại xã Quảng Vinh
( Nguồn: PV hộ 2016)
Qua kết quả khảo sát cho thấy, trong tổng cơ cấu thu nhập của người dân xã Quảng
Vinh thì thu nhập từ hoạt động chăn nuôi chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng cơ cấu thu
nhập của hộ ( chiếm 59.50%) chứng tỏ hoạt động chăn nuôi đóng vai trò hết sức quan
trọng trong đời sống của người dân. Mặc dù điều kiện tự nhiên và kỹ thuật trong chăn
nuôi còn một số điểm hạn chế nhưng người dân nơi đây vẫn chú trọng phát triển chăn
nuôi và xem đó là sinh kế chủ yếu quyết định kinh tế hộ gia đình.
Bên cạnh đó, ngành trồng trọt đóng vai trò không nhỏ trong cơ cấu kinh tế của hộ
( chiếm 24%), phần lớn các hoạt động nông nghiệp mang lại thu nhập cao hơn so với
các hoạt động dịch vụ, các công việc ngành nghề thì thường xuyên vì thế nếu lao động
cần cù, chịu khó, có sức khỏe tốt thì thu nhập cũng tương đối cao.
13


3. Đặc điểm về quy mô chăn nuôi lợn của hộ khảo sát

Bảng 5. Đặc điểm về quy mô chăn nuôi lợn của hộ khảo sát
Chỉ tiêu

ĐVT

Số lượng (N=30)

Số lượng lợn BQ/hộ

Con

39,3


Số lượng lợn thịt BQ/hộ

Con

19,66

Số lượng lợn nái BQ/hộ

Con

1,53

Số lượng lợn con BQ/hộ

Con

18,10

Trọng lượng lợn xuất chuồng BQ

Kg

57,56

(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Qua kết quả khảo sát cho thấy, chăn nuôi lợn quy mô nông hộ tại xã Quảng Vinh
còn nhỏ lẻ, số lượng lợn của hộ là 39 con/hộ. Mỗi hộ gia đình nuôi từ 1- 2 con lợn nái,
chủ yếu để cung cấp lợn giống cho gia đình.Nhìn chung số lượng lợn thịt của hộ là
khá lớn: 19 con/ hộ, do người dân chăn nuôi chủ yếu là để bán thịt, tận dụng thời gian
và lao động nhàn rỗi của lao động trong gia đình. Trọng lượng xuất chuồng bình quân

là 57,56kg/con, cung cấp thịt cho người dân tại địa phương là chính nên trọng lượng
lợn không quá lớn.
III.

Thực trạng tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi tại xã Quảng Vinh.
1. Thực trạng các kênh thông tin trên địa bàn xã
Cũng như các vùng nông thôn khác của Thừa Thiên Huế, đa số người dân ở xã Quảng
Vinh hoạt động sinh kế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trong đó thế mạnh là chăn
nuôi lợn. Vì vậy việc tiếp cận thông tin có vai trò rất quan trọng đối với quá trình
chăm sóc và tiêu thụ lợn của nông hộ. Tuy nhiên việc tiếp cận các thông tin này có
hiệu quả hay không phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của từng loại kênh cung
cấp thông tin.

14


Bảng 6. Thực trạng các phương tiện tiếp cận thông tin của xã Quảng Vinh
Đơn vị tính

Số lượng (cái)

Tỷ lệ so với số thôn/hộ
(%)

Số lượng loa truyền
thành

Cái

23


176

Số lượng tivi

Cái

2962

100

Số lượng đài Rađio

Cái

53

1.78

Máy tính kết nối mạng

Cái

296

10

Cái

3554


120

Điện thoại
smartphone

(Nguồn: PV cán bộ địa phương năm 2016)
Như vậy có thể thấy số lượng các kênh cung cấp thông tin thị trường ở địa phương
khá đa dạng trong đó kênh phổ biến nhất là Tivi với số lượng trung bình 1 cái/hộ, và
điện thoại với số lượng trung bình 3 cái/hộ. Tuy nhiên một số kênh như internet,
truyền thanh… số lượng còn hạn chế, riêng loa phát thanh trung bình mỗi thôn chỉ có
1 cái; mạng internet chưa phổ biến ở các hộ dân mà chỉ tập trung ở những hộ có con
cái sử dụng cho mục đích học tập và một vài hộ có điều kiện. Với số lượng các kênh
cung cấp thông tin tương đối lớn và nội dung thông tin đa dạng như vậy, đây sẽ là cơ
sở để người dân có thể tiếp cận được nhiều loại thông tin để từ đó áp dụng vào sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Bảng 7. Thực trạng về phương tiện tiếp cận thông tin của các hộ khảo sát

Ti vi
Điện thoại
smartphone
Radio
Máy tính kết nối

ĐVT

Số lượng

Trung bình


Cái

30

1

Cái

36

1,63

Cái
cái

2
2

0,07
0,07

15


internet

(Nguồn: PV hộ năm 2016)
2. Thực trạng tiếp cận loại thông tin của nông hộ

Thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất cũng như tiêu

thụ sản phẩm nông hộ, nó có thể quyết định đến hiệu quả của sản xuất bao
gồm các loại thông tin như thông tin về yếu tố đầu vào, giá cả, kỹ thuật,
giống, chính sách...

Biểu đồ 2 : Thực trạng tiếp cận loại thông tin của nông hộ
Từ kết quả biểu đồ cho thấy thông tin kỷ thuật là một loại thông tin mà
các nông hộ chăn nuôi có sự tiếp cận cao nhất chiếm tỷ trọng 35 %, cho thấy
được tầm quan trọng của thông tin kỹ thuật. Ngoài kinh nghiệm chăn nuôi
truyền thống thì các hộ chăn nuôi ở đây còn được tiếp cận thêm nhiều thông tin
kỹ thuật tiên tiến khác thông qua các lớp tập huấn và các thông tin trên kênh
tivi. Các loại thông tin khác cũng được người dân ở đây tiếp cận nhưng theo
từng mức độ khác nhau. Giảm dần từ thông tin giá cả, thông tin đầu vào, thông
tin con giống, thông tin nơi tiêu thụ và ít tiếp cận nhất là thông tin về chính
sách.

IV.

ĐÁNH GIÁ NHU CẦU TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA NÔNG HỘ CHĂN
NUÔI
1. Mức độ tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi.
Hiện nay, việc tiếp cận thông tin của người nông hộ làm nông nghiệp nói chung

và nông hộ chăn nuôi nói riêng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong xu thế sản xuất
hàng hóa. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng mức độ tiếp cận thông tin của
nông hộ chăn nuôi là khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu tiếp cận thông tin và điều kiện
của gia đình.
Sự tiếp cận với các loại thông tin là cơ sở để hộ lựa chọn các thông tin phù hợp
để áp dụng vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho gia đình mình. Tùy thuộc vào cách
nhìn nhận của mỗi hộ về tầm quan trọng của thông tin đối với các hoạt động sản xuất
thì mức độ tiếp cận các loại thông tin là khác nhau.


16


Trong phạm vi nghiên cứu, có ba mức độ tiếp cận thông tin đó là mức độ
thường xuyên tiếp cận thông tin, mức độ thỉnh thoảng tiếp cận thông tin và mức độ ít
khi tiếp cận thông tin. Ở ba mức độ, nông hộ chăn nuôi có mối quan tâm đến từng loại
thông tin khác nhau bao gồm: thông tin đầu vào, thông tin về giá, thông tin thị trường,
thông tin về kỹ thuật, thông tin về chính sách, và thông tin về giống.

Biểu đồ 3. Mức độ tiếp cận thông tin của các nông hộ chăn nuôi lợn
(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Qua biểu đồ trên ta thấy người dân tiếp cận ở 3 mức độ khác nhau. Họ chủ yếu tiếp
cận thông tin ở mức độ thỉnh thoảng 55%, ở mức độ thường xuyên tiếp cận thông tin
chỉ 34% và người dân ít khi tiếp cận thông tin chiếm 11%. Các loại thông tin được
tiếp cận chủ yếu là thông tin về đầu vào, giá cả, nơi tiêu thụ, kỹ thuật và con giống cụ
thể mức độ theo từng loại được thể hiện ở biểu đồ sau :

Biều đồ 3.1. Biểu đồ mức độ tiếp cận theo từng loại thông tin của nông hộ chăn nuôi
lợn tại xã Quảng Vinh
(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Nhìn chung với từng loại thông tin khác nhau có mỗi mức độ tiếp cận thông tin khác
nhau. Đối với loại thông tin đầu vào người dân ở đây không được tiếp cận ở mức độ
thường xuyên, mà chỉ tiếp cận ở mức độ thỉnh thoảng 67% và 33% hộ ít khi tiếp cận
với loại thông tin này. Loại thông tin về giá cả có 17% hộ thường xuyên tiếp cận, 60%
hộ thỉnh thoảng tiếp cận và 23% hộ ít khi tiếp cận loại thông tin này. Có 3% hộ nông
dân thường xuyên tiếp cận, 57% thỉnh thoảng và 40% ít khi tiếp cận loại thông tin về
nơi tiêu thụ và con giống. Về thông tin kỷ thuật, đây là loại thông tin được người dân
tiếp cận ở mức độ thường xuyên nhiều nhất 40%, ở mức độ thỉnh thoảng có 60% hộ.
Về thông tin chính sách người dân không được tiếp cận thường xuyên mà ít khi tiếp

cận chiếm 70%, thỉnh thoảng tiếp cận chiếm 30%. Sự khác nhau về các mức độ tiếp

17


cận trong từng loại thông tin tùy vào điều kiện của người dân và khả năng cung cấp
thông tin từ bên ngoài.
2. Nhu cầu tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi lợn.

a. Nhu cầu về phương tiện tiếp cận thông tin

Biểu đồ 4. Phương tiện mong muốn tiếp cận của các nông hộ chăn nuôi
(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Qua biểu đồ trên ta có thể thấy, các nông hộ chăn nuôi lợn tại xã Quảng Vinh
mong muốn tiếp cận thông tin qua phương tiện là tivi và cán bộ địa phương chiếm tỷ
lệ 24%.
Hầu hết các hộ trong xã đều có tivi (toàn xã 2962 cái), các hộ tiếp cận thông tin
tại nhà, tiết kiệm thời gian có thể xem trong lúc ăn cơm, xem khi nghỉ ngơi. Nhưng
hiện nay có quá nhiều chương trình cung cấp thông tin về chăn nuôi cũng như các
thông tin trong sản xuất nông nghiệp, việc lựa chọn chương trình nào cho hợp lí và
cung cấp đủ thông tin đó mới là vấn đề quan trọng.
Với mong muốn được tiếp cận thông tin từ cán bộ địa phương do các thông tin
mà họ mang lại có lựa chọn, sàng lọc một cách hợp lí vậy nên các thông tin có độ
chính xác cao.
Tiếp theo, các nông hộ muốn tiếp cận thông tin từ bạn bè hàng xóm chiếm tỷ lệ
16% do những đối tượng này có kinh nghiệm trong chăn nuôi lợn và có thể dễ dàng,
thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Nhân viên thị
trường là những người có kiến thức chuyên môn cao về các loại thức ăn nên các nông
hộ cũng có sự lựa chọn đối với kênh thông tin này (chiếm tỷ lệ 13%).
Hai kênh thông tin chiếm tỷ lệ thấp nhất 2% và 4% là cán bộ nghiên cứu và cán bộ

khuyến nông do bản chất của những người nông dân là không chủ động trong việc
tiếp cận thông tin cũng như thời gian ban ngày của nông hộ hạn hẹp.
b. Nhu cầu về loại thông tin
Mong muốn tiếp cận với các kênh thông tin là cơ sở để hộ ưu tiên lựa chọn các
thông tin phù hợp để áp dụng vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho gia đình mình.
Tùy thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi hộ về tầm quan trọng của thông tin thị trường
18


đối với các hoạt động sản xuất mà mong muốn tiếp cận các loại thông tin là khác
nhau.

Biểu đồ 5. Loại thông tin mong muốn tiếp cận của nông hộ chăn nuôi lợn tại xã
Quảng Vinh
(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Từ biểu đồ trên cho ta thấy mong muốn của hộ trong tiếp cận các kênh thông tin
về các loại thông tin là khác nhau, trong những thông tin mà hộ có nhu cầu tiếp cận thì
thông tin về thị trường có tỷ lệ mong muốn tiếp cận cao nhất chiếm 50%. Tiếp đến là
thông tin về kỹ thuật chiếm 25%. Phần lớn người dân chủ yếu quan tâm đến các thông
tin về thị trường ( giá bán,biến động giá,dịch bệnh…). Đây là những thông tin cơ bản
mà người sản xuất cần phải nắm bắt được. Điều này thể hiện rằng, người dân cũng đã
nhận thức được tầm quan trọng của các loại thông tin này trong phát triển sản xuất
kinh doanh của hộ.
Đối với những thông tin về dịch vụ đầu vào (12%), chính sách(10%) người dân
ít quan tâm. Thực tế sản xuất của nông hộ còn ở quy mô nhỏ, sản xuất với đàn lợn từ 3
– 5 con, khối lượng hàng hóa sản xuất ra ít do vậy mà những thông tin này cũng
không thực sự cần thiết cho hộ, chỉ có một số ít hộ có quy mô lớn quan tâm đến các
thông tin này.
c. Nhu cầu về thời gian tiếp cận thông tin


Biểu đồ 6. Thời gian mong muốn tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi lợn tại xã
Quảng Vinh
(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Kết quả khảo sát ( biểu đồ 5) cho thấy thời gian người dân mong muốn tiếp cận
thông tin đến sản xuất nông nghiệp xảy ra vào nhiều thời điểm khác nhau,trong trường
hợp này thời gian mong muốn tiếp cận thông tin được người dân đặc biết quan tâm là
vào thời gian buổi tối ( 7h -9h) và bất cứ lúc nào lần lượt chiếm 46% và 24% . Phần
19


lớn nông dân mong muốn tiếp cận thông tin vào thời điểm này vì hầu hết người dân
thường có nhiều thời gian rãnh hơn so với ban ngày. Bên cạnh đó thì thời gian mong
muốn tiếp cận thông tin của người dân hạn chế thường rơi vào các thời điểm như vào
sáng sớm ( 14%), chiều muộn ( 10%) và đặc biệt là vào buổi trưa ( 6% ). Từ đây cho
ta thấy thời gian lao động thường tập trung vào buổi ngày là chính nên rất ít có thời
gian rãnh vào các khoảng thời gian này, vì thế mà thời gian mong muốn tiếp cận thông
tin của người dân ở những thời điểm trên chiếm tỉ lệ không cao so với các thời điểm
khác.
3. Hiệu quả tiếp cận thông tin

Biểu đồ 7. Mức độ áp dụng thông tin vào hoạt động sản xuất của nông hộ chăn
nuôi lợn
(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Hiệu quả tiếp cận các kênh thông đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm việc áp dụng các thông tin vào hoạt động sản xuất nông nghiệp giúp người
dân nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế,ổn định đời sống. Tuy nhiên tùy vào mứa độ
áp dụng thông tin của hộ dẫn đến hiệu quả sản xuất của hộ cũng khác nhau. Vì vậy
nhằm nâng cao thu nhập, sinh kế của hộ điều tất yếu là các hộ dân đều có thể áp dụng
hiệu quả các loại kênh thông tin trong sản xuất
Kết quả khảo sát cho thấy ( biểu đồ 5) tỷ lệ áp dụng các kênh thông tin là khác

nhau, hiệu quả của các kênh thông tin thường được người dân áp dụng rơi vào các
khoản áp dụng từ ( 25% - 50 % ) chiếm 47% và từ ( 50 % - 75% ) chiếm 33 % và từ
(0% -25%) chiếm 17%. Điều này thể hiện rằng, người dân đã có cách nhìn tích cực và
tin tưởng đối với các loại thông tin và cũng đã nhận thức được tầm quan trọng cũng
như hiệu quả của các loại thông tin này trong phát triển sản xuất kinh doanh của hộ.
Bên cạnh đó, việc hộ dân áp dụng hiệu quả các kênh vào sản xuất mức tối đa vẫn
còn hạn chế. Cụ thể chỉ có 3% hộ dân áp dụng hiệu quả của các kênh thông tin từ mức
( 75% -100% ), nguyên nhân là do hộ sản xuất vẫn còn sản xuất theo kinh nghiêm,
cho nên mức độ tin tưởng áp dụng thông tin của các hộ dân vẫn chưa là tuyệt đối.

20


V. CÁC YẾU TỐ THÚC ĐẨY VÀ CẢN TRỞ VIỆC TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG
THÔNG TIN NÔNG NGHIỆP CỦA NÔNG HỘ CHĂN NUÔI LỢN
1. Các yếu tố thúc đẩy việc tiếp cận thông tin nông nghiệp của nông hộ
Có rất nhiều yếu tố khác nhau thúc đẩy việc tiếp cận và mong muốn tiếp cận
thông tin nông nghiệp của nông hộ nhưng có 2 yếu tố chính là yếu tố chủ quan và yếu
tố khách quan
Về yếu tố chủ quan thúc đẩy việc tiếp cận thông tin của nông hộ đầu tiên phải
kể đến là đặc điểm của nông hộ. Thực tế cho thấy được độ tuổi chủ hộ càng trẻ thì
mức độ và nhu cầu tiếp cận thông tin càng cao, những người lớn tuổi thường không
thích cái mới, chỉ dựa vào kinh nghiệm lâu năm là chính nên ít tiếp cận thông tin. Với
những người có mối quan hệ xã hội rộng thì mức độ tiếp cận thông tin nhiều, thông tin
tiếp cận cũng hiệu quả hơn. Những hộ dân có mức thu nhập cao hơn thường có điều
kiện về phương tiện và thời gian tiếp cận nên mức độ tiếp cận thông tin cũng cao hơn.
Với những hộ có quy mô chăn nuôi lớn thì mức độ và nhu cầu thông tin về nông
nghiệp cũng cao hơn, họ luôn mong muốn học hỏi kinh nghiệm thông tin để phát triển
hơn hoạt động chăn nuôi của mình.
Về yếu tố khách quan thúc đẩy việc tiếp cận thông tin của nông hộ có thể kể

đến như kênh thông tin, sự liên kết trong sản xuất và các chính sách, và sự quan tâm
hổ trợ từ chính quyền địa phương. Với kênh thông tin từ cán bộ khuyến nông, cán bộ
thú y khi họ có đủ năng lực, trình độ và độ tin cậy thì góp phần thúc đẩy sự quan tâm
của người dân. Những thương lái có kinh nghiệm sản xuất mua bán, kinh nghiệm về
sự biến động giá cả sẻ thu hút người dân quan tâm đến những thông tin của họ. Khi
người dân tham gia vào hợp tác xã, hay các đoàn thể khác như hội nông dân hội phụ
nữ thì mức độ tiếp cận của nông dân về thông tin nông nghiệp càng cao. Sự hổ trợ từ
chính quyền như lắp đặt hệ thống loa phát thanh cũng góp phần thúc đẩy sự tiếp cận
thông tin nông nghiệp của người dân. Ngoài ra chính quyền địa phương phối hợp với
cán bộ Khuyến nông huyện tổ chức các lớp tập huấn cho nông dân làm thúc đẩy nhu
cầu học hỏi và tiếp thu của họ.

21


2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận thông tin phục vụ sản xuất của nông
hộ
Trong thực tế sản xuất và tiêu thụ sản phẩm việc tiếp cận được với các thông
tin thị trường sẽ giúp cho người nông dân cải tiến sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế
hộ. Việc tiếp cận các thông tin thị trường của nông hộ phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau, bao gồm cả yếu tố chủ quan từ hộ và yếu tố khách quan do sự tác động từ
bên ngoài.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự tiếp cận thông tin của nông hộ và mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố này là khác nhau. Trong điều kiện phát triển sản xuất hàng
hóa như hiện nay, việc thiếu kênh cung cấp thông tin thị trường là một bất lợi lớn đối
với người nông dân.
Bảng 8. Thực trạng thời điểm tiếp cận thông tin của nông hộ chăn nuôi tại xã Quảng
Vinh (ĐVT: %)
Sáng
Kênh thông Thực

tin

trạng

Trưa

Chiều tối

Tối

Mong

Thực

Mong

Thực

Mong

Thực

Mong

muốn

trạng

muốn


trạng

muốn

trạng

muốn

Tivi

43

45

30

20

0

0

57

80

Loa

50


25

0

0

43

60

0

10

17

25

0

0

17

25

0

0


40

51

0

0

30

64

0

0

90

96

13

10

53

59

27


47

Nhân viên
thị trường
Cán bộ địa
phương
Bạn bè
hàng xóm

(Nguồn: PV hộ năm 2016)
Qua khảo sát có thể thấy rằng so với các yếu tố khác thì thiếu kênh thông tin là yếu tố
ảnh hưởng lớn trong tiếp cận thông tin thị trường của nông hộ bởi vì ngay tại địa
phương thì các kênh thông tin mang tính chất quần chúng chiếm tỉ lệ rất ít do đó
lượng thông tin mà người dân tiếp cận được cũng không nhiều. Ngoài ra, yếu tố thời
gian hạn chế và điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn cũng là những vấn đề ảnh hưởng
22


không nhỏ đến việc tiếp cận thông tin thị trường của hộ. Điều này là do hoạt động
sinh kế của hộ nông dân đa dạng, họ ít có thời gian rảnh rỗi và cũng không có điều
kiện để tiếp cận.
- Thời điểm tiếp cận thông tin là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến việc tiếp cận thông tin

của nông hộ.
Trên thực tế, người dân thường xuyên tiếp cận thông tin vào thời gian buổi
sáng và chiều tối chiếm đến 90%. Và họ cũng mong muốn tiếp cận thông tin vào
những thời điểm này vì đây là thời gian họ rảnh rỗi trong ngày, là thời gian người dân
có thể trao đổi thông tin và tiếp cận thông tin dễ dàng nhất. kênh mà họ mong muốn
tiếp cận là kênh bạn bè hàng xóm (96%)và loa phát thanh(59%). buổi sáng là khoảng
thời gian người dân đi chợ nên việc tiếp cận thông tin từ bạn bè hàng là kênh thông tin

đáng tin cậy do bạn bè hàng xóm là những người thân quen ở địa phương, có nhiều
kinh nghiệm trong sản xuất nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng. Ngoài ra ở thời
điểm này, người dân cũng tiếp cận các thông tin qua kênh loa phát thanh (chiếm 50%)
do chính quyền xã cung cấp thông tin từ kênh này song người dân không mong muốn
tiếp cận từ kênh này vào buổi sáng do họ thường đi làm sớm (chiếm 25%). Thời gian
chiều tối, người dân đa số đi làm đồng nên thường tiếp cận thông tin từ bạn bè hàng
xóm (chiếm 53%) thông qua trao đổi, nói chuyện trong khi làm do đó họ mong muốn
tiếp cận từ kênh này ( chiếm 59%) ở thời điểm chiều tối. Bên cạnh đó, họ còn tiếp cận
từ loa phát thanh 43% và mong muốn được tiếp cận chiếm 60%, họ tranh thủ thời gian
để tiếp cận các thông tin. Nếu các cán bộ địa phương tổ chức các cuộc họp, các buổi
tập huấn thì người dân mong muốn tiếp cận (chiếm 64%) ở thời điểm này, do buổi
chiều họ có thể sắp xếp được công việc của mình để tham gia.
Ngoài thời điểm sáng và chiều tối thì thời gian buổi trưa là thời gian nghỉ ngơi nên
khả năng tiếp cận các thông tin từ các kênh thông tin là rất ít chỉ có kênh tivi và bạn
bè hàng xóm chiếm 30% và 13%. Tối là thời điểm người dân hoàn thành mọi công
việc của ngày, là thời gian dành cho gia đình, do vậy họ tiếp cận thông tin nhiều nhất
ở kênh tivi 57% và mong muốn sẽ có nhiều chương trình tại thời gian này để tiếp cận
được nhiều thông tin (chiếm tỉ lệ 80%). Bên cạnh đó, bạn bè hàng xóm (chiếm 47%)

23


cũng là kênh mong muốn được tiếp cận khá nhiều do họ có thời gian tụ họp, nói
chuyện.
Qua phân tích trên, ta có thể thấy người dân có ít thời gian tiếp cận các thông tin từ
các kênh thông tin.
Về tác nhân cung cấp thông tin: UBND xã, Hợp tác xã, phòng nông nghiệp huyện, các
tổ chức phi chính phủ, sách báo, tivi, nông dân khác, thương lái, hộ kinh doanh vật tư
nông nghiệp, trưởng thôn, tổ đội sản xuất cũng ảnh hưởng không nhỏ trong việc tiếp
cận thông tin thông qua mỗi cách tiếp cận khác nhau sẽ đem đến hiệu quả và mức độ

tiếp cận khác nhau do tính chất của người nông dân là không chủ động trong tiếp cận
thông tin.
Ngoài ra, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn cũng là những vấn đề ảnh hưởng không
nhỏ đến việc tiếp cận thông tin thị trường của hộ. Điều này là do hoạt động sinh kế
của hộ nông dân đa dạng, họ ít có thời gian rảnh rỗi và cũng không có điều kiện để
tiếp cận.
PHẦN VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Hệ thống thông tin nông nghiệp nông thôn có vai trò quan trọng trong việc giúp
nông dân tiếp cận các dịch vụ sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
theo hướng sản xuất hàng hóa, đặc biệt với các hộ chăn nuôi.
Trường hợp nghiên cứu tại xã Quảng Vinh cho thấy hệ thống các kênh cung
cấp thông tin ở đây tương đối đa dạng và nội dung thông tin từ các kênh tương đối
đầy đủ tuy nhiên ở một số kênh, thông tin còn hạn chế hoặc không phù hợp với địa
phương do đó chưa thực sự đáp ứng được các nhu cầu của người dân. Qua số liệu điều
tra thì 100% hộ khảo sát đều có tiếp cận đến các thông tin nông nghiệp tuy nhiên mức
độ tiếp cận còn thấp và nội dung tiếp cận có sự khác biệt. Mối quan tâm lớn nhất của
người dân là những vấn đề liên quan về thị trường (50%), thông tin kỷ thuật (27%) ,
Bên cạnh đó thì người dân chưa được tiếp cận nhiều về thông tin đầu vào (13%),
thông tin chính sách chỉ có (10%).. Nhìn chung người dân nơi đây có nhu cầu tiếp cận

24


thông tin nông nghiệp ở nhiều kênh khác nhau . Tuy nhiên, phổ biến nhất là nhu cầu
tiếp cận thông tin ở kênh tivi chiếm 24%.
Thông tin thị trường (giá bán biến động giá, chi phí vận chuyển...) là một trong
những loại thông tin thu hút được sự quan tâm rất lớn của người nông dân Đây là
những thông tin cơ bản mà người sản xuất cần phải nắm bắt được, điều này cho thấy
người dân cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của loại thông tin này vào sản phát

triển chăn nuôi của hộ.
Bên cạnh các thông tin về thị trường, thông tin về kỹ thuật (kỹ thuật trồng, kỹ
thuật nuôi, tập huấn kỹ thuật...) cũng thu hút được sự chú ý lớn của người nông dân.
Trong khi các thông tin thị trường và thông tin kỹ thuật thu hút được sự quan tâm của
rất nhiều nông hộ thì các thông tin đầu vào và thông tin chính sách dường như vẫn khá
“xa lạ” với nhóm đối tượng này. Thông tin về đầu vào và thông tin chính sách NNNT
mặc dù hết sức quan trọng nhưng chưa được nhiều nông dân quan tâm.
Thời điểm tiếp cận thông tin nông nghiệp nông thôn có thể chia theo các khoảng
thời điểm lao động sản xuất và nghỉ ngơi trong ngày. Theo đó, phần lớn người nông
dân cho đặc biệt quan tâm là thời gian tiếp cận thông tin vào buổi tối ( 7 - 9h ). Trong
khoảng thời gian này, hầu hết người dân thường có nhiều thời gian rãnh hơn so với
ban ngày. Bên cạnh đó thì thời gian tiếp cận thông tin của người dân còn hạn chế
thường rơi vào lúc sáng sớm, buổi trưa và lúc chiều muộn. Thời điểm này là thời gian
thực hiện hoạt động sản xuất nên nông dân rất ít có thời gian rảnh vào thời gian này.
Hiện nay, việc tiếp cận thông tin thị trường của người dân còn gặp rất nhiều
khó khăn như thiếu kênh thông tin, thời gian tiếp cận còn hạn chế, một số thông tin
khó hiểu và không phù hợp với điều kiện địa phương và gia đình. Vì vậy chính quyền
địa phương, các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là các cán bộ khuyến nông, ban truyền
thanh xã, thôn...cần quan tâm hơn nữa đến các thông tin thị trường để có thể cung cấp
cho người dân một cách hiệu quả nhất.
2. Kiến nghị
Sau kết quả điều tra, phân tích, nhằm cải thiện việc tiếp cận thông tin thị trường cho
nông hộ chăn nuôi lợn tại xã Quảng Vinh chúng em xin đưa ra 1 số kiến nghị như sau:
Thứ nhất về kênh cung cấp thông tin:

25


×