Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Pháp luật về hành vi kinh doanh đa cấp bất chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.69 KB, 63 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Luật, Trường Đại học Công Đoàn và sự đồng
ý của Giảng viên hướng dẫn - Th.S Trần Ngọc Dung, em đã thực hiện đề tài
“Pháp luật về chống hành vi bán hàng đa cấp bất chính, thực trạng và giải
pháp”.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã
tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn
luyện ở trường Đại học Công Đoàn.
Xin cảm ơn Giảng viên hướng dẫn Th.S Trần Ngọc Dung đã tận tình, chu
đáo hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận với
thực tiễn cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Em rất mong được sự góp
ý của quý Thầy, Cô giáo và các bạn đồng khoa để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên Nguyễn Minh Đức.

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LCT:

Luật cạnh tranh.

BHĐC:

Bán hàng đa cấp.

TNHH:



Trách nhiệm hữu hạn.

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.................................................................................2
MỤC LỤC..............................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................5
1.Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................5
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................5
3.Mục đích nghiên cứu...................................................................................7
4.Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................7
5.Phương pháp nghiên cứu.............................................................................7
6.Kết cấu của khóa luận.................................................................................8
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................9
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH.........................9

1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngành bán hàng đa cấp trên thế giới
và quá trình du nhập vào Việt Nam...............................................................9
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngành bán hàng đa cấp........9
1.1.2 Sự xuất hiện của hành lang pháp lý cho hoạt động bán hàng đa cấp
ở Việt Nam...............................................................................................10
1.2 Khái quát chung về hành vi bán hàng đa cấp và bán hàng đa cấp bất
chính.............................................................................................................11
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp..................................11
1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính...................13
1.3 Kết luận chương.....................................................................................17

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH...............................19

2.1 Các quy định về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.............................19
2.2 Quy định của pháp luật về chống hành vi bán hàng đa cấp bất chính.. .21
3


2.2.1 Quy định về dấu hiệu nhận diện hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
..................................................................................................................21
2.2.2 Thủ tục xử lý đối với hành vi bán hàng đa cấp bất chính...............28
2.3 Thực trạng pháp luật về chống hành vi bán hàng đa cấp bất chính.......35
2.3.1 Thực trạng về bán hàng đa cấp ở Việt Nam....................................35
2.3.2 Thực trạng về bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam....................37
2.3.3 Hiệu quả từ những quy định của pháp luật đối với hành vi bán hàng
đa cấp bất chính........................................................................................41
2.3.4 Những bất cập còn tồn tại về quản lý hành vi bán hàng đa cấp bất
chính ở Việt Nam.....................................................................................43
2.4 Kết luận chương.....................................................................................50
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC QUY ĐỊNH CHỐNG
HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH....................................................................................................... 51

3.1 Tăng cường khả năng quản lý hoạt động bán hàng đa cấp ngay từ khâu
đăng ký, tăng điều kiện gia nhập thị trường của doanh nghiệp bán hàng đa
cấp................................................................................................................51
3.2 Thắt chặt các tiêu chuẩn chung và quy định cụ thể hơn trách nhiệm công
khai minh bạch từ phía doanh nghiệp bán hàng đa cấp...............................52
3.3 Tăng khung hình phạt đối với hành vi bán hàng đa cấp bất chính. .......52
3.4 Đưa nhiều cơ quan nhà nước vào cuộc hơn trong việc quản lý hoạt động
bán hàng đa cấp, tăng cường khả năng trao đổi thông tin giữa cơ quan quản
lý và người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp........................................53

3.5 Tăng khả năng truy cứu trách nhiệm đối với chủ thể vi phạm...............55
3.6 Đổi mới công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về
bán hàng đa cấp bất chính............................................................................55
3.7 Kết luận chương.....................................................................................56
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................61
4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh rất thành công ra đời từ
những năm 40 của thể kỉ XX nhưng chỉ mới được biết đến ở Việt Nam khoảng từ
đầu những năm 2000 trở lại đây. Lợi dụng sự mới mẻ, những kẽ hở của pháp luật
cũng như sự thiếu hiểu biết của người dân, nhiều doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực này đã biến tướng thành kinh doanh đa cấp bất chính, gây ra những hậu
quả nghiêm trọng tới nền kinh tế cũng như người tiêu dùng. Vì vậy năm 2004, lần
đầu tiên những quy định xung quanh vấn đề BHĐC đã được đề cập đến trong
LCT, cùng theo đó là cơ sở để các văn bản qui phạm pháp luật khác có liên quan
lần lượt ra đời. Thế nhưng, sau 12 năm kể từ khi có các quy định quản lý đầu tiên
cho tới này, những vấn đề về BHĐC vẫn chưa bao giờ hết nóng bỏng, không chỉ ở
các thành phố lớn, cơn bão đa cấp bất chính còn đi qua cả những làng quê hẻo
lánh gây ra thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho người dân, nhất là những đối
tượng có hoàn cảnh khó khăn, sinh viên, nông dân trở thành những nạn nhân bất
hạnh.
Với vốn hiểu biết về pháp luật cũng như thực tiễn và nguyện vọng về xây
dựng tương lai không còn bóng dáng nạn BHĐC bất chính, em chọn đề tài “Pháp
luật về chống hành vi bán hàng đa cấp bất chính, thực trạng và giải pháp” làm
đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Về đề tài pháp luật quy định về BHĐC, ở nước ta đã có rất nhiều nghiên cứu
cụ thể, từ các chuyên gia luật học cho đến những công trình của sinh viên trong
ngành. Trong đó tiêu biểu ta có thể kể đến các đề tài sau:
Bán hàng đa cấp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, Trần Thị Bảo
Ánh, Luận văn Thạc sĩ Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội.

5


Bản chất pháp lý của hợp đồng tham gia Bán hàng đa cấp, Đoàn Trung
Kiên, Luận văn Thạc sĩ Luật học – Trường Đại học Luật Hà Nội.
Pháp luật điều chỉnh Bán hàng đa cấp ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn,
luận văn thạc sĩ luật học, Hoàng Đào Thu Thuỷ ; PGS. TS. Trần Ngọc Dũng
hướng dẫn.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về quản lý hoạt động Bán hàng đa cấp, luận
văn thạc sĩ luật học Lê Vương ; PGS. TS. Nguyễn Thị Vân Anh hướng dẫn.
Tìm hiểu về hợp đồng tham gia Bán hàng đa cấp ở Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp; Trần Minh Tâm ; TS. Đoàn Trung Kiên hướng dẫn.
Một số nội dung pháp lý về Bán hàng đa cấp ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn
Thị Bích Hạnh, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trên đây là những đề tài nghiên cứu công phu về lĩnh vực BHĐC mang tính
tổng quan, nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc cạnh, dù vậy các công trình nghiên cứu
cụ thể về pháp luật quy định cho hành vi BHĐC bất chính không nhiều. Có thể kể
đến các đề tài như:
Pháp luật về Bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam, Ninh Thị Minh
Phương; Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.
Một số vấn đề pháp lý về Bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam, Nguyễn
Thị Huyền Trang; Khóa luận tốt nghiệp; Trường Đại học Luật Hà Nội.
Bán hàng đa cấp bất chính theo pháp Luật Cạnh tranh Việt Nam, khoá luận
tốt nghiệp; Nghiêm Xuân Tuyên; Th.S Hoàng Minh Chiến hướng dẫn.

Mặc dù đều khai thác về khía cạnh BHĐC bất chính nhưng những nghiên
cứu ở trên đã được hoàn thành từ lâu, gần đây nhất trong số những nghiên cứu đó
cũng đã được thực hiện vào năm 2012, so với các quy định mới của nhà nước, số
liệu cũng như thực tiễn xã hội về vấn đề đa cấp bất chính đang diễn ra hiện nay thì
những nghiên cứu này nhiều phần đã tỏ ra lạc hậu. Việc phải có một đề tài mới
mang tính thời sự, vận dụng những số liệu cũng như các quy định mới có tính tiệm
cận với thực trạng pháp luật về BHĐC hiện nay là rất cần thiết. Vì vậy em lựa
6


chọn đề tài “Pháp luật về chống hành vi bán hàng đa cấp bất chính, thực trạng
và giải pháp” với những khai thác cụ thể hơn về quy định mới của nhà nước, đặc
biệt là từ giai đoạn 2014 đến nay. Đây như một mảnh ghép mới, cập nhật, bám sát
hơn tình hình thực tế cho chuỗi những nghiên cứu về pháp luật trong lĩnh vực
BHĐC nói chung và pháp luật quy định về hành vi BHĐC bất chính nói riêng,
góp phần tái hiện thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ
thống quy định của nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh đặc biệt này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
của pháp luật về BHĐC bất chính; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về lĩnh
vực này để từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
BHĐC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, em sẽ tập trung khai thác các quy định của pháp luật về
BHĐC bất chính, liên hệ với thực tế để phân tích sự hiệu quả cũng như những
điểm còn hạn chế trong các quy định của pháp luật, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm
góp phần hoàn thiện hơn các quy định trong vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài của khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, đường lối, quan điểm định

hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
trong bối cảnh hội nhập.
Phương pháp nghiên cứu sử được sử dụng trong khóa luận là phép biện
chứng duy vật để nhìn nhận, đánh giá về pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh
nói chung, pháp luật về BHĐC bất chính nói riêng.
Bên cạnh đó, khóa luận cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu so sánh,
phân tích, tổng hợp, thống kê một cách thích hợp để triển khai các nhiệm vụ
nghiên cứu.
7


6. Kết cấu của khóa luận.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ
BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG HÀNH VI BÁN
HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC QUY ĐỊNH CHỐNG HÀNH VI BÁN
HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH.

8


PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ
BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH.
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngành bán hàng đa cấp trên thế
giới và quá trình du nhập vào Việt Nam.
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngành bán hàng đa cấp.
Lịch sử hình thành của phương thức bán hàng đa cấp gắn liền với tên tuổi

Karl Renborg. Năm 1927, Karl bắt đầu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng.
Ông đề nghị các bạn của ông giới thiệu chất bổ sung dinh dưỡng này cho người
quen của họ, nếu người quen của họ mua sản phẩm thì ông hứa sẽ trả hoa hồng.
Ông cũng quyết định trả hoa hồng cho các người quen của bạn mình nếu giới
thiệu sản phẩm tiếp theo quan hệ của họ. Đây trở thành công thức đầu tiên cho
ngành kinh doanh đa cấp. Năm 1934, ông sáng lập ra công ty Vitamins California
tại Mỹ nhờ vào phương pháp phân phối mới này. Chứng tỏ được hiệu quả kinh
doanh ưu việt của mình, phương thức BHĐC đã lan tỏa mạnh mẽ đến rất nhiều
công ty ở Mỹ và lan ra cả các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Tuy vậy, mãi cho tới những năm 70, phương thức kinh doanh này vẫn chưa
có những quy định pháp luật cho riêng mình. Từ những năm 1970, BHĐC vấp
phải sự công kích mạnh mẽ về vấn đề pháp lý. Công ty Amway trong bốn năm
liền phải theo hầu tòa (từ năm 1975-1979). Sau cùng, cuối năm 1979 toà án
thương mại Liên bang Hoa Kỳ công nhận phương pháp kinh doanh của Amway
không phải là “hình tháp ảo” và được chấp nhận về mặt luật pháp. Từ đó, Bộ luật
đầu tiên về BHĐC đã ra đời tại Mỹ. Đây trở thành tiền lệ đầu tiên đưa phương
thức kinh doanh đa cấp vào quy định trong hệ thống pháp luật, nó dẫn việc BHĐC
có một cơ chế phát triển mới với sự ra đời của hàng loạt quy định pháp luật về
kinh doanh đa cấp tại các quốc gia trên thế giới.1
1

Theo bài viêt “Lịch sử ngành bán hàng đa cấp” – Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam.
( />
9


Năm 1978, WFDSA – Liên đoàn các hiệp hội bán hàng trực tiếp 2 thế giới
được thành lập. Theo báo cáo thường niên của WFDSA, cho tới năm 2014, ngành
bán hàng trực tiếp đã có hơn 99 triệu nhà phân phối đã tham gia ở khắp mọi nơi
trên thế giới. Các sản phẩm rất đa dạng, bao gồm: thực phẩm dinh dưỡng, mỹ

phẩm, nội thất, trang sức, quần áo, sản phẩm năng lượng, viễn thông, bảo hiểm
hoặc các dịch vụ khác. Trong năm 2014, tổng doanh số của ngành BHĐC trên
toàn thế giới đạt 183 tỷ USD, tăng 6,4% so với kết quả đạt được năm 2013 và là
con số kỷ lục cho tới thời điểm đó.
1.1.2 Sự xuất hiện của hành lang pháp lý cho hoạt động bán hàng đa cấp
ở Việt Nam.
Phương thức BHĐC du nhập vào Việt Nam vào khoảng đầu những năm
2000. Đến năm 2004, có khoảng 20 doanh nghiệp BHĐC ở nước ta, phân phối sản
phẩm chủ yếu về thực phẩm chức năng3. Trong những năm đầu hoạt động tại Việt
Nam, những vấn đề bất cập liên quan đến phương thức kinh doanh BHĐC cũng
bắt đầu phát sinh do sự mới mẻ của nó đối với nền kinh tế, sự thiếu hiểu biết của
người tiêu dùng cũng như không có cơ chế điểu chỉnh riêng từ phía nhà nước.
Doanh nghiệp đa cấp biến tướng xuất hiện từ sớm và nhiều trong số đó trở thành
các công ty lừa đảo. Để ngăn chặn hành vi BHĐC bất chính và hoà nhập với xu
hướng chung của thế giới cũng như đáp ứng tình hình thực tế tại Việt Nam, hành
lang pháp lý cho lĩnh vực này đã dần hình thành.
- Ngày 01-07-2005, Luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành trong đó có những
điều khoản quy định về BHĐC.

2

Bán hàng trực tiếp: Direct sale – Có thể diễn đạt đơn giản là hình thức bán hàng thông qua người bán lẻ trực
tiếp, không có địa điểm kinh doanh cố định cũng như không có hoạt động quảng cáo trên phương tiện thông tin
đại chúng. Về lý thuyết, bán hàng trực tiếp có phạm vi rộng hơn BHĐC. Tuy nhiên ở nhiều quốc gia, hai khái
niệm này được coi như nhau.
3

Theo bài viêt “Bán hàng đa cấp tại Việt nam” – Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam.
( />
10



- Ngày 15-9-2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2005/NĐ-CP Quy
định chi tiết thi hành một số điều của luật cạnh tranh.
- Ngày 24-08-2005, Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ về Quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp được ban hành (Nghị định đã bị thay thế bởi Nghị định
42/2014/NĐ-CP).
- Ngày 08-11-2005, Bộ Thương mại ban hành Thông tư 19/2005/TT-BTM
hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý bán hàng
đa cấp (Thông tư đã hết hiệu lực).
- Ngày 15-5-2014 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP ra đời.
Cùng với đó là sự ra đời của Thông tư 197/2014/TT-BTC Quy định mức thu,
chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định, lệ phí cấp giấy chứng nhận
đăng kí hoạt động bán hàng đa cấp và Thông tư 24/2014/TT-BCT Quy định chi
tiết thi hành một số điều của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP Ngày 14 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp do Bộ Tài chính ban
hành cho tới nay đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối hoàn thiện cho hoạt động
BHĐC phát triển ở Việt Nam.
1.2 Khái quát chung về hành vi bán hàng đa cấp và bán hàng đa cấp bất
chính.
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp.
a) Khái niệm của bán hàng đa cấp.
Qua tham khảo Giáo trình Luật Cạnh tranh của Đại học Luật Hà Nội, Đại
Học Kinh tế - Luật TP. Hồ Chí Minh, các quy định của pháp luật cũng như nhiều
nghiên cứu về BHĐC, nhìn chung, khái niệm về BHĐC thường không được định
nghĩa một cách trực tiếp mà thay vào đó là những điều kiện để cấu thành nên hành
vi BHĐC. Các điều kiện này đều bao gồm những yếu tố bám sát theo quy định tại
Khoản 11 Điều 3 LCT 2004 mà cụ thể như sau:


11


“BHĐC là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau
đây:
- Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người
tham gia bán hàng gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
- Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp được tiếp thị trực tiếp cho
người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác
không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc người tham
gia.
- Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng
hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham
gia bán hàng đa cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được
doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.”
Tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 42/2014/NĐ-CP Về quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp, định nghĩa về BHĐC được rút gọn lại nhưng cũng không nằm ngoài
những nội dung về điều kiện để cấu thành hành vi BHĐC quy định tại Khoản 1
Điều 3 LCT 2004. Đó là: “Kinh doanh theo phương thức đa cấp là hình thức kinh
doanh thông qua mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác
nhau, trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích
kinh tế khác từ hoạt động kinh doanh của mình và của mạng lưới do mình xây
dựng.”
b) Đặc điểm của bán hàng đa cấp
BHĐC có những đặc điểm như sau:
- BHĐC là phương thức tiếp thị bán lẻ hàng hóa trực tiếp cho người tiêu
dùng thông qua mạng lưới người tham gia ở nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
- Người tham gia BHĐC không nhất thiết thiết là nhân viên của doanh
nghiệp mà có thể trở thành người tham gia mạng lưới qua một hợp đồng tham gia
BHĐC theo quy định của pháp luật.


12


- Doanh nghiệp BHĐC tiếp thị trực tiếp sản phẩm tại nơi làm việc, nơi ở
hoặc địa điểm khác cho người tiêu dùng mà không nhất thiết phải là địa điểm bán
lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc người tham gia.
- Người tham gia BHĐC được điều hành mạng lưới, hưởng tiền hoa hồng,
tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng của mình và của người tham
gia khác trong mạng lưới do họ tổ chức ra.
Từ những đặc điểm nói trên, có thể nói BHĐC là một phương thức kinh
doanh đặc thù, có nhiều điểm khác biệt so với phương thức kinh doanh truyền
thống về cách thức phân phối hàng hóa, về hệ thống kinh doanh, về hoa hồng, các
lợi ích vật chất khác và về tư cách của người tham gia. Do đó, những cơ chế quản
lý đối với doanh nghiệp đa cấp cũng cần phải có sự điều chỉnh phù hợp để đáp
ứng những nét đặc thù của loại hình kinh doanh này.
1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính.
a) Khái niệm bán hàng đa cấp bất chính.
Khái niệm về bán hàng đa cấp bất chính theo giáo trình Luật Cạnh tranh của
Đại học Luật Hà Nội được các tác giả định nghĩa thông qua sự tương đồng với mô
hình kim tự tháp4. Theo đó, bản chất của hoạt động BHĐC bất chính không liên
quan nhiều tới hành vi BHĐC mà thực chất đó là “một mô hình gây quỹ trong một
nhóm người được tổ chức thành nhiều cấp, thành viên cấp dưới với số lượng đông
hơn sẽ đóng góp tài chính cho các thành viên cấp trên. Những người tại cấp dưới
cùng là những người mới gia nhập nhóm sẽ phải gánh chịu số tiền mà toàn bộ
cấp trên được hưởng.” Với bản chất như vậy, mô hình kim tự tháp sẽ phải liên tục
tuyển thêm người tham gia để đảm bảo duy trì sự tồn tại của nhóm. Đến thời điểm
không thể tìm được người sãn sàng đóng tiền để tham gia, mô hình này chắc chắn
sẽ đổ vỡ, số đông thành viên ở cấp dưới sẽ chịu toàn bộ thiệt hại của các thành
4


Kinh doanh theo mô hình kim tự tháp là việc tiến hành hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, trong đó
thu nhập của người tham gia xuất phát chủ yếu từ: việc tuyển dụng người tham gia mới; việc gia hạn hợp đồng
của người đã tham gia; phí, tiền đặt cọc hoặc khoản đầu tư của người tham gia trong mạng lưới. (Khoản 10 Điều
3 Nghị định 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động BHĐC).

13


viên cấp trên. Với bản chất thu lợi bất công bằng và tính gây thiệt hại rộng như
vây mà mô hình kim tự tháp bị cấm ở rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Định nghĩa do Giáo trình Đại học Luật Hà Nội đưa ra đã thể hiện một góc
nhìn mới mẻ về dấu hiệu nhận diện của hành vi bán hàng đa cấp bất chính, khác
với quy định về hành vi này trong Luật Cạnh tranh năm 2004 lại có quan điểm cho
rằng BHĐC bất chính là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các quy định
về chống bán hàng đa cấp bất chính chủ yếu nhằm bảo vệ người tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp khỏi một số dạng lừa đảo của doanh nghiệp BHĐC. Cụ thể
tại Điều 48 LCT 2004 có quy định về những hành vi bán hàng đa cấp bất chính
như sau:
“Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ
việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng
hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới Bán
hàng đa cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán
cho người tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác
chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới Bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới Bán
hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ

người khác tham gia.”
Như vậy, theo LCT năm 2004, một hành vi được coi là BHĐC bất chính khi
đáp ứng đủ hai điều kiện: Một là thực hiện một trong các hành vi mà pháp luật liệt
kê; hai là nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mới. Dấu hiệu
khách quan của hành vi BHĐC bất chính là việc thực hiện một trong bốn hành vi
trên; và dấu hiệu chủ quan của nó là mục đích thu lợi bất chính mà doanh nghiệp
mong muốn thụ hưởng. Tóm lại, dù được nhận diện ở góc độ nào, BHĐC bất
14


chính vẫn có một biểu hiện chung nhất đó là việc thực hiện các hành vi bất chính
nhằm mục đích cho những người ở tầng trên được hưởng các khoản tiền và lợi ích
về kinh tế chủ yếu từ tiền đóng góp của người tham gia mới chứ không phải từ
hoạt động bán lẻ sản phẩm cho người tiêu dùng.
b) Đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính
Thứ nhất, bán hàng đa cấp bất chính có bản chất chiếm dụng vốn.
Lợi dụng cấu trúc có dạng phân cấp khá tương đồng, mô hình kim tự tháp
thường đội lốt doanh nghiệp BHĐC để thực hiện hành vi bất chính. Bằng các biện
pháp khác nhau, các doanh nghiệp loại này yêu cầu người tham gia phải thực hiện
một hay một số các nghĩa vụ tài chính như phải đặt cọc, phải mua một số lượng
hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới
BHĐC nhằm che đậy cho mục đích chủ yếu là thu phí của người tham gia BHĐC
của chúng.
Việc bị chiếm dụng vốn đã tạo ra sự thiệt thòi về tài chính, thậm chí là cả
những khoản nợ đối với người tham gia, rằng buộc họ với lựa chọn phải tìm cách
dụ dỗ thêm nhiều người khác cùng tham gia hoặc bằng mọi giá phải bán được sản
phẩm để bù lỗ cho khoản tài chính mà mình đã đóng.
Còn đối với hành vi chiếm đoạt tài chính này, các công ty BHĐC bất chính
không chỉ thu được một khoản lợi từ người tiêu dùng mà còn khiến họ trở thành
những “nô lệ tài chính”, tiếp tay thêm vào việc mở rộng mạng lưới lừa đảo.

Thứ hai, bán hàng đa cấp bất chính tập trung lôi kéo người tham gia.
Cũng với bản chất của mô hình kim tự tháp tồn tại được nhờ vào phí gia
nhập từ người tham gia, nên doanh nghiệp BHĐC chỉ tập trung lôi kéo người tham
gia mạng lưới. Đây cũng là hành vi doanh nghiệp cho thành viên của mình được
nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc giới thiệu
người khác tham gia vào mạng lưới BHĐC mà không quan tâm đến kết quả kinh
doanh của họ. Càng lôi kéo được nhiều người tham gia thì số tiền hoa hồng sẽ
càng tăng theo cấp số nhân. Với lợi ích như vậy, những thành viên trong mạng
15


lưới sẽ chỉ chú trọng đến việc lôi kéo người khác tham gia vào hệ thống bán hàng
để hưởng lợi mà không nỗ lực tiếp thị sản phẩm. Thu nhập chủ yếu của doanh
nghiệp sẽ đến từ mạng lưới bán hàng chứ không phải từ hoạt động bán hàng hóa,
sản phẩm.
Tuy hoạt động buôn bán sản phẩm trong doanh nghiệp BHĐC bất chính cũng
có nhưng sản phẩm chỉ bán cho người tham gia nhằm che đậy cho hành vi thu phí
gia nhập của người tham gia. Hàng hóa của những doanh nghiệp loại này thường
có không có giá trị hoặc được bán với giá lớn hơn giá trị thật sự gấp nhiều lần.
Suy cho cùng, được hưởng lợi nhất từ hành vi dụ dỗ, lôi kéo người tham gia
chính là doanh nghiệp, trong khi đó, với việc “buôn bán mối quan hệ”, những
người tham gia mạng lưới thì dần mất đi uy tín trong xã hội, lại vừa có nguy cơ
mất trắng những khoản tiền mà mình đã đóng vào doanh nghiệp.
Thứ ba, bán hàng đa cấp bất chính mang bản chất lừa dối.
Để che đậy cho thủ đoạn cũng như mục đích chủ yếu nhằm chiếm đoạt các
khoản tài chính của khách hàng, doanh nghiệp BHĐC đã xây dựng nên những
thông tin sai lệch, nhằm đánh lạc hướng, khai thác vào lòng tin và sự hám lợi của
họ. Sự lừa dối này chủ yếu bằng hành vi doanh nghiệp cung cấp thông gian dối
hoặc không đúng sự thật cho khách hàng hay người tham gia mạng lưới. Những
thông tin này có thể là thông tin về tính hợp pháp của công ty, về tính năng, công

dụng vượt trội mà thực tế sản phẩm không đạt được, thông tin về hoa hồng, thu
nhập lên tới hàng chục thậm chí hàng trăm triệu mà khách hàng có thể nhận được
khi tham gia mạng lưới của công ty… nhưng trên thực tế doanh nghiệp không hề
có hay không thể thực hiện được các cam kết của mình đối với khách hàng.
Thứ tư, bán hàng đa cấp bất chính dồn hàng cho người tham gia.
Chiến lược dồn hàng cho người tham gia của doanh nghiệp BHĐC bất chính
thể hiện qua hành vi không cam kết mua lại hàng hóa sau khi đã bán cho người
tiêu dùng theo luật định. Cũng chính vì một trong những đặc điểm ở trên, đó là
bán hàng đa cấp bất chính mang bản chất lừa dối cho nên việc không mua lại hàng
16


hóa sau khi đã bán cho khách hàng của doanh nghiệp nhằm thiết lập một quy trình
mua bán đơn chiều, qua đó doanh nghiệp sau khi yêu cầu người tham gia mua một
số lượng hàng hóa có giá trị lớn mà không quan tâm xem họ có có sử dụng hay
bán lại được hay không. Ngoài trốn tránh được nghĩa vụ phải mua lại hàng hóa,
doanh nghiệp còn có thể từ chối trách nhiệm bảo hành cũng như phó mặc chất
lượng sản phẩm cho người tiêu dùng. Thêm nữa, ở nhiều công ty BHĐC, vai trò
của người tham gia mạng lưới không chỉ là nhà phân phối mà họ còn phải đóng
vai trò như một đại lý bằng cách mua sản phẩm của công ty rồi bán lại cho khách
hàng để hưởng chênh lệch, nếu không bán được hết hàng, họ sẽ phải nhận phần
thiệt hại về mình. Chính vì vậy, tại Khoản 2, Điều 48, LCT 2004 đã phải quy định
hành vi: “Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán
cho người tham gia để bán lại” là một trong những hành vi của bán hàng đa cấp
bất chính.
1.3 Kết luận chương.
BHĐC sau khi du nhập vào Việt Nam đã trở thành một phương thức bán lẻ
hàng hóa có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. Bằng chứng là trong những năm qua,
số lượng các doanh nghiệp, người tiêu dùng, doanh số bán hàng và địa bàn hoạt
động trong lĩnh vực BHĐC càng tăng lên nhiều. Pháp luật điều chỉnh về BHĐC

mà cụ thể hơn là pháp luật điều chỉnh hành vi BHĐC bất chính ra đời là một bước
đi đúng đắn của nhà nước trong việc tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, sự minh bạch, ổn định trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và
người tiêu dùng. Hơn thế nữa, pháp luật điều chỉnh về hành vi BHĐC bất chính
còn mang tính thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình phát triển của BHĐC tại Việt
Nam. Những quy định ngày càng cụ thể giúp cho các doanh nghiệp BHĐC chân
chính ở nước ta điều chỉnh được chiến lược phát triển của mình, tránh khỏi tình
trạng bước đi trên ranh giới mong manh giữa hợp pháp và phi pháp.
Mặt khác, thực tiễn lại cho thấy trong quá trình hoạt động và phát triển,
phương thức BHĐC liên tục xuất hiện nhiều phiên bản mới mà trước đây chúng ta
17


chưa từng biết đến. Vì vậy pháp luật cần phải có cách tiếp cận, nghiên cứu mới
nhằm tránh tình huống không thể điều chỉnh kịp thời diễn biến của loại hình kinh
doanh này.
Việc xây dựng các quy định về quản lý đối với hoạt động BHĐC là một bước
tiến quan trọng trong việc xây dựng thị trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam.
Trước những bất cập đến từ vấn nạn BHĐC bất chính, việc có những quy định
như vậy sẽ giúp cho người tiêu dùng trước hết hiểu được bản chất của hoạt động
BHĐC so với BHĐC bất chính là khác nhau, không đánh đồng, quy chụp, nhầm
lẫn giữa tác hại của BHĐC bất chính với BHĐC chân chính.
Thứ hai, việc đặt ra những quy định cho hoạt động BHĐC giúp cho doanh
nghiệp lẫn người tham gia BHĐC có được nguyên tắc hoạt động chuẩn mực, tránh
sự biến tướng trong quá trình hoạt động. Các quy định cũng góp phần bảo vệ uy
tín của phương thức kinh doanh BHĐC trên thị trường, ổn định và bảo vệ môi
trường cạnh tranh lành mạnh.

18



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG HÀNH VI BÁN
HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH
2.1 Các quy định về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
Ngày 1 tháng 7 năm 2005, LCT chính thức có hiệu lực. Mặc dù là văn bản
quy phạm pháp luật đầu tiên và cao nhất điều chỉnh đối với hoạt động BHĐC
nhưng LCT chỉ đưa ra khái niệm về BHĐC và các quy định cấm đối với hành vi
BHĐC bất chính mà chưa đưa ra cơ chế quản lý đối với hoạt động này.
Sau đó trong cùng năm 2005, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác
ra đời để điều chỉnh lĩnh vực BHĐC, có thể kể đến như:
Nghị định số 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp (đã bị
thay thế bởi Nghị định số 42/2014/NĐ-CP);
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Cạnh tranh;
Nghị định số 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
cạnh tranh (đã hết hiệu lực);
Thông tư số 19/2005/TT-BTM hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị
định số 110/2005/NĐ-CP (đã hết hiệu lực);
Thông tư số 35/2011/TT-BCT sửa đổi bổ sung Thông tư số 19/2005/TTBTM (đã hết hiệu lực);
Nghị định 110/2005/NĐ-CP chính thức thiết lập một cơ chế quản lý đối với
hoạt động BHĐC từ trung ương đến địa phương với sự tham gia của Bộ Thương
mại và Ủy ban Nhân dân các tỉnh (thông qua các Sở Thương mại hay Sở Thương
Mại - Du lịch). Theo Nghị định 110/2005/NĐ-CP, các doanh nghiệp muốn tổ
chức BHĐC thì phải đăng ký với Sở Sở Thương mại hay Sở Thương Mại - Du
lịch của địa phương nơi doanh nghiệp có trụ sở chính. Để đảm bảo hiệu quả của
cơ chế quản lý tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa
cấp, Nghị định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh

19



tranh quy định chế tài xử lý đối với hành vi BHĐC bất chính với mức tiền phạt
cao nhất là 100 triệu đồng.
Sau gần 10 năm thực hiện, các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
BHĐC đã bộc lộ một số bất cập, hoạt động BHĐC xuất hiện nhiều biến tướng
theo chiều hướng tiêu cực, nhiều chủ thể lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để thực
hiện hành vi bất chính khiến cho hoạt động này ngày càng trở nên xấu đi trong
mắt cộng đồng xã hội và gây khó khăn cho công tác quản lý của nhà nước. Từ
thực tiễn đó, năm 2014, Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
mới thay thế cho hệ thống văn bản cũ để tăng cường hiệu quả quản lý. Ngoại trừ
LCT, các nghị định và thông tư cũ điều chỉnh hoạt động BHĐC đều bị thay thế,
sửa đổi bổ xung với cơ chế quản lý chặt chẽ hơn, chế tài xử lý nghiêm khắc hơn.
Cụ thể là:
Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, được ký
ban hành ngày 14 tháng 5 năm 2014, chính thức có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2014.
Nghị định này thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP.
Nghị định 71/2014/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thay thế cho Nghị định số 120/2005/NĐ-CP.
Thông tư 24/2014/TT-BCT quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định
số 42/2014/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động
bán hàng đa cấp.
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Cạnh tranh cũng được sửa đổi bổ xung bằng Nghị định 119/2011/NĐ-CP của Chính
phủ và Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-BCT do Bộ Công Thương ban hành năm
2014.
Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp với
những thay đổi cơ bản, quan trọng theo hướng thắt chặt quản lý đối với hoạt động
BHĐC như nâng cao điều kiện gia nhập thị trường, nâng cao trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với hoạt động của người tham gia, bổ xung nhiều quy định cấm,
20



tăng cường sự tương tác giữa doanh nghiệp BHĐC với cơ quan quản lý cũng như
giữa các cơ quan quản lý với nhau, kiểm soát chặt chẽ hơn công tác đào tạo người
tham gia của doanh nghiệp… Nghị định 71/2014/NĐ-CP quy định chi tiết Luật
Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thay thế Nghị
định số 120/2005/NĐ-CP cũng nâng cao mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm
pháp luật trong hoạt động BHĐC lên tối đa 200 triệu đồng và bổ sung quy định xử
lý đối với nhiều hành vi mới được quy định tại Nghị định 42/2014/NĐ-CP.
Ngoài ra còn có Nghị định số 185/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng có những quy định về việc xử phạt đối với cả
người tham gia BHĐC và doanh nghiệp BHĐC. Tuy nhiên, thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính theo nghị định này thuộc về các cơ quan quản lý liên quan như
Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý thị trường.
2.2 Quy định của pháp luật về chống hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
2.2.1 Quy định về dấu hiệu nhận diện hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
Khả năng mở rộng mạng lưới của hoạt động BHĐC và cách thức tiêu thụ
hàng hóa đặc thù của phương thức này đã đặt ra cho pháp luật nhiều vấn đề phải
giải quyết để vừa có thể tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp mà
vẫn đảm bảo trật tự thị trường, bảo vệ lợi ích chính đáng cho các chủ thể, tránh
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, yêu cầu quản lý nhà nước đối với
kinh doanh đa cấp cũng đặt trọng tâm vào các biện pháp ngăn chặn phương thức
kinh doanh này biến tướng thành BHĐC bất chính gây thiệt hại cho người tham
gia. Vì vậy, tại Điều 48 LCT 2004, các nhà lập pháp đã cung cấp cho chúng ta
những tiêu chí cơ bản nhất trong việc nhận diện hành vi BHĐC bất chính:
“ Điều 48. Bán hàng đa cấp bất chính.
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ
việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:


21


1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng
hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán
cho người tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác
chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ
người khác tham gia.”
Ngoài những dạng phổ biến và mang tính đặc thù như trên, trên thực tế
BHĐC bất chính vẫn còn đang tiếp tục biến tướng, sản sinh ra một loạt các chiêu
trò để dụ dỗ, lôi kéo những người tiêu dùng nhẹ dạ. Do đó, pháp luật cạnh tranh
còn quy định thêm nhiều hành vi cấm tại Nghị định 42/2014/NĐ-CP Về quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp.
Điều 5: Những hành vi bị cấm trong hoạt động bán hàng đa cấp:
1. Cấm doanh nghiệp bán hàng đa cấp thực hiện những hành vi sau đây: a)
Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải đặt cọc hoặc đóng một
khoản tiền nhất định dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp; b) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải
mua một số lượng hàng hóa dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia
mạng lưới bán hàng đa cấp; c) Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải trả
thêm một khoản tiền dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền duy trì, phát triển
hoặc mở rộng mạng lưới bán hàng đa cấp của mình; d) Hạn chế một cách bất
hợp lý quyền phát triển mạng lưới của người tham gia bán hàng đa cấp dưới bất
kỳ hình thức nào; đ) Cho người tham gia bán hàng đa cấp nhận tiền hoa hồng,
tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ việc dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa

cấp; e) Từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền
22


thưởng hay các lợi ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng đa cấp có quyền
hưởng; g) Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải tuyển dụng mới hoặc gia
hạn hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với một số lượng nhất định người tham
gia bán hàng đa cấp để được quyền hưởng hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi ích
kinh tế khác; h) Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về một
trong các nội dung quy định tại Khoản 8 Điều 3 Nghị định này phải trả tiền hoặc
phí dưới bất kỳ hình thức nào, trừ chi phí hợp lý để mua tài liệu đào tạo; i) Ép
buộc người tham gia bán hàng đa cấp phải tham gia các hội nghị, hội thảo, khóa
đào tạo về các nội dung không được quy định tại Khoản 8 Điều 3 Nghị định này;
k) Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về các nội dung không
được quy định tại Khoản 8 Điều 3 Nghị định này phải trả tiền hoặc phí cao hơn
mức chi phí hợp lý để thực hiện hoạt động đó; l) Thu phí cấp, đổi thẻ thành viên
theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 21 Nghị định này dưới bất kỳ hình
thức nào; m) Không cam kết cho người tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng
hóa và nhận lại khoản tiền đã chuyển cho doanh nghiệp theo quy định tại Điều 26
Nghị định này; n) Cản trở người tham gia BHĐC trả lại hàng hóa theo quy định
tại Điều 26 Nghị định này; o) Cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về
lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, về tính chất, công dụng của
hàng hóa, về hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác
tham gia bán hàng đa cấp; p) Duy trì nhiều hơn một vị trí kinh doanh đa cấp, hợp
đồng bán hàng đa cấp, mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương
đương đối với cùng một người tham gia bán hàng đa cấp; q) Kinh doanh theo mô
hình kim tự tháp; r) Mua bán hoặc chuyển giao mạng lưới người tham gia bán
hàng đa cấp cho doanh nghiệp khác trừ trường hợp mua lại, hợp nhất hoặc sáp
nhập doanh nghiệp; s) Yêu cầu, xúi giục người tham gia bán hàng đa cấp thực
hiện hành vi bị cấm được quy định tại Khoản 2 Điều này.

2. Cấm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện những hành vi sau đây:
a) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải trả một khoản tiền nhất
23


định, nộp tiền đặt cọc hoặc phải mua một lượng hàng hóa nhất định dưới bất kỳ
hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; b) Cung cấp
thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia bán hàng đa
cấp, tính chất, công dụng của hàng hóa, hoạt động của doanh nghiệp bán hàng
đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp; c) Tổ chức các buổi hội
thảo, hội nghị khách hàng, hội thảo giới thiệu sản phẩm, đào tạo mà không được
doanh nghiệp bán hàng đa cấp ủy quyền bằng văn bản; d) Lôi kéo, dụ dỗ, mua
chuộc người tham gia bán hàng đa cấp của doanh nghiệp khác tham gia vào
mạng lưới của doanh nghiệp mà mình đang tham gia; đ) Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn, địa vị xã hội để yêu cầu người khác tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp
hoặc mua hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp.
Từ những quy định trên, ta có thể thống nhất các dấu hiệu nhận diện về
BHĐC bất chính như sau:
Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác
chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới BHĐC.
Mang bản chất của mô hình kim tự tháp, BHĐC bất chính đã thay đổi từ hoạt
động tiếp thị bán lẻ hàng hóa thông thường sang lấy hoạt động tuyển dụng và thu
phí của người tham gia mới làm hoạt động chủ yếu. Khác với những hoạt động
kinh doanh khác, ngoài hoa hồng được trả theo doanh số bán sản phẩm, BHĐC
còn trả thưởng cho người tham gia thông qua hoạt động tuyển dụng người tham
gia mới. So với lợi nhuận thu được từ buôn bán sản phẩm, lợi nhuận từ việc tuyển
dụng người tham gia có thể tăng theo cấp số nhân do sơ đồ mạng lưới mang lại.
Kinh doanh đa cấp thông thường cũng cũng có hoạt động tuyển dụng nhưng khác
với kinh doanh đa cấp bất chính ở mục đích, có thể so sánh như sau:
- BHĐC cấp thông thường có mục đích chính là tiêu thụ sản phẩm thông

qua mạng lưới bán lẻ. Do vậy, mục đích tuyển dụng người tham gia mới của các
doanh nghiệp loại này là đào tạo ra những nhà phân phối giỏi.

24


- Còn BHĐC bất chính có mục tiêu cốt lõi là phát triển mạng lưới nhằm thu
phí tuyển dụng từ người tham gia mới. Do vậy, mục tiêu đào tạo của những doanh
nghiệp này lại nhằm hướng đến việc biến những người tham gia mới thành những
“chuyên gia’’ lôi kéo, dụ dỗ người khác cũng tham gia vào đường dây lừa đảo của
mình. Mặc dù BHĐC bất chính cũng có hoạt động bán lẻ sản phẩm nhưng hoạt
động này chỉ mang tính hình thức, chủ yếu nhằm tới đối tượng người tham gia
mới như một giải pháp tạo ra chi phí ban đầu.
Với việc tập trung vào việc dụ dỗ, lôi kéo người tham gia mạng lưới, thu
nhập chính của doanh nghiệp sẽ không đến từ hoạt động buôn bán hàng hóa mà
đến từ sự mở rộng mạng lưới. Do chỉ là sản phẩm để mua bán tượng trưng, không
phải trực tiếp cạnh tranh với các sản phẩm khác trên thị trường nên các mặt hàng
của công ty có dấu hiệu vi phạm quy định này thường kém đa dạng và có giá
thành cao hơn các sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ
người khác tham gia.
Với mục đích chủ yếu là dụ dỗ, lôi kéo người tham gia, vì vậy các doanh
nghiệp BHĐC bất chính đã xây dựng nên những nguồn thông tin gian dối nhưng
cực kỳ hấp dẫn nhằm khai thác lòng tham cũng như sự nhẹ dạ của khách hàng
nhằm đưa họ vào bẫy đa cấp lừa đảo. Hành vi cung cấp thông tin gian dối, thông
tin sai sự thật nhằm dụ dỗ người khác mua hàng, tham gia BHĐC đã hàm chứa
trong nó dấu hiệu để cấu thành nên tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản 5. Hành vi
này cũng lột tả bản chất yếu kém của doanh nghiệp BHĐC khi phải sử dụng thủ
đoạn gian dối để thuyết phục khách hàng mua sản phẩm. Thông tin về lợi ích của

việc tham gia mạng lưới BHĐC, tính chất và công dụng của hàng hóa là nguồn
thông tin chủ yếu bị doanh nghiệp BHĐC bất chính lợi dụng.

5

Theo Khoản 1, Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng …”

25


×