Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn viện hàn lâm khoa học và công nghệ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THÁI THANH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC
TỪ THỰC TIỄN VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ VIỆT HẠNH

Hà Nội, 2017
1


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Thực hiện Chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam” luận văn này là kết quả của sự
cố gắng nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo của bản thân tôi cùng với sự hướng
dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Hồ Việt Hạnh.
Tôi xin cam đoan trong công trình nghiên cứu này không có bất kỳ sự
sao chép nào mà không có trích dẫn nguồn, tác giả. Những lời trên đây là
hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm.


Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên

Phạm Thái Thái Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU. ................................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
VIÊN CHỨC. ........................................................................................................... 10
1.1. Hệ thống các khái niệm chính sách........ ........................................................... .10
1.2. Nội dung của chính sách phát triển viên chức .................................................. .18
1.3. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách phát triển viên chức...... 20
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN
CHỨC TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT
NAM.......................................... ............................................................................. ..36
2.1. Khái quát đội ngũ viên chức khoa học và công nghệ của nước ta. .................... 36
2.2. Khái quát về đội ngũ viên chức của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam................... ........................................................................................................42
2.3. Thực hiện chính sách phát triển viên chức của Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam - thực trạng và đánh giá...................................................................46
2.4. Đánh giá chung việc thực hiện phát triển viên chức từ thực tiễn Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam. ........................................................... ...............52
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN VIÊN CHỨC........... ............................................................................. ......57
3.1. Hoàn thiện chính sách phát triển viên chức...... ............................................. ....57
3.2. Hoàn thiện giải pháp và công cụ chính sách phát triển viên chức. .................... 50
3.3. Nâng cao năng lực chủ thể của chính sách phát triển viên chức ....................... 67
3.4. Tăng cường nguồn lực để phát triển viên chức...... ........................................... .68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75

TÀI LIỆU THAM KHẢO…..................................................................................78


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.2. Phân bố lực lượng cán bộ khoa học của Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ việt Nam
Bảng 2.3. Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với viên chức khoa
học và Công nghệ tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

“Năm 1998, Nhà nước ban hành pháp lệnh cán bộ, công chức, theo đó
những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp cũng nằm trong nội hàm
“cán bộ, công chức” và sự điều chỉnh của Pháp lệnh cùng với văn bản hướng
dẫn thực hiện. Theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức, hệ thống thể
chế quản lý viên chức (Khi đó vẫn gọi chung cụm từ “cán bộ, công chức”)
đều hoàn toàn được quy định giống như đối với đội ngũ cán bộ, công chức nói
chung.
“Sau thời gian thực hiện, đến năm 2003, Chính phủ đã sửa đổi , bổ
sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Trong đó có một nội dung
rất quan trọng là việc phân định cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan
hành chính của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội với cán bộ, công
chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp. Điều này đã tạo ra cơ sở pháp lý
trong việc đổi mới một bước cơ chế quản lý cán bộ, công chức trong các đơn
vị sự nghiệp.
Đến năm 2008, Chính phủ ban hành luật cán bộ, công chức; Nghị định

số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là công chức; Thông tư số
08/2011/TT-BNV hướng đẫn một số điều của nghị định số 06/2010/NĐ-CP;
Luật cán bộ, công chức đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, ban hành loạt
chính sách đối với cán bộ, công chức. Trong khi đó vị trí pháp lý của viên
chức nói chung và viên chức khoa học nói riêng vẫn là vấn đề bỏ ngỏ, chế độ
chính sách đối với viên chức vẫn thực hiện theo quy định đã lạc hậu.
Ngày 01/01/2012, Luật Viên chức chính thức có hiệu lực là một dấu
mốc quan trọng, mang một ý nghĩa to lớn khẳng định vị trí pháp lý, quyền và
nghĩa vụ của viên chức; tạo cơ sở cho việc ban hành chính sách sử dụng,

1


tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và chế độ đãi ngộ viên chức nói chung, viên
chức ngành khoa học và công nghệ nói riêng.
Cũng trong thời điểm này, các văn kiện quan trọng của Đảng, Chính
phủ, Quốc hội nêu bật tầm quạn trọng của phát triển, tăng cường đầu tư cho
Khoa học và công nghệ.
Nghị Quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa XI về phát triển khoa học và
công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường đề ra định hướng phát triển khoa học và công nghệ đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030 hình thành đồng bộ đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ có trình độ cao, tâm huyết, trung thực, tận tụy”; nêu rõ quan
điểm “Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển
bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà
nước có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ”.
Có thể nói chưa bao giờ việc phát triển khoa học và công nghệ dành
được sự quan tâm đặc biệt của cả hệ thống chính trị như hiện nay. Trong đó,
việc thực hiện chính sách đối với các nhà khoa học nói chung, viên chức khoa

học nói riêng đóng một vai trò vô cùng quan trọng, được trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến qua quan điểm chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ tại các
văn bản nói trên.
Khoa học và công nghệ (KH&CN) luôn được xác định giữ vai trò then
chốt trong công cuộc đổi mới của nước ta, đặc biệt là trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Khoa học và công nghệ đã trực tiếp tác
động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí,
giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất tăng tỷ lệ chất xám trong
cấu tạo sản phẩm,…

2


Đội ngũ viên chức khoa học trong các đơn vị sự nghiệp Khoa học và
công nghệ công lập là nguồn lực chủ yếu, trực tiếp nghiên cứu những vấn đề
cơ bản về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên; cung cấp luận cứ khoa học cho
Đảng và Nhà nước cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Chiến lược phát triển Khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày
11/4/2012 đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ
yếu phát triển Khoa học và công nghệ. Một trong những giải pháp đó chính là
việc xây dựng đồng bộ chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ cán bộ Khoa
học và Công nghệ.
Trong những năm gần đây, chính sách phát triển viên chức khoa học ở
nước ta đã từng bước được hoàn thiện và áp dụng vào thực tế. Tuy nhiên, việc
thực hiện vẫn còn nhiều vấn đề chưa phù hợp và chưa đem lại hiệu quả như
mong muốn. Do vậy, việc tăng cường thực hiện chính sách phát triển viên
chức khoa học ở nước ta hiện nay là vấn đề cấp bách vì: Thứ nhất, tiềm lực

Khoa học và công nghệ nước ta được tăng cường một bước đáng kể. Hiện nay
cả nước ta có khoảng 2,4 triệu người có trình độ cao đẳng và đại học trở lên,
gần đây mỗi năm sinh viên ra trường trên dưới 200 nghìn người là lực lượng
tiềm năng tham gia hoạt động Khoa học và công nghệ. Thứ hai, đội ngũ
nghiên cứu khoa học còn hạn chế về trình độ, cơ cấu chưa hợp lý, hiện chưa
đủ mạnh để tạo ra nhiều hơn nữa các sản phẩm Khoa học và công nghệ có
chất lượng, đến ngưỡng để có thể thương mại hóa, đáp ứng nhu cầu của thị
trường, doanh nghiệp. Thứ ba, hiện nay, cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh để
thu hút các nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài nước tham gia
và các hoạt động nghiên cứu khoa học; việc thực hiện chính sách phát triển
3


nguồn nhân lực Khoa học và công nghệ vẫn còn chưa hiệu quả, chưa tạo được
môi trường và động lực thúc đẩy đội ngũ viên chức khoa học đem hết tài năng
cống hiến cho đất nước.
Chính vì trên tình hình thực trạng thực tế như vậy, nên tôi mạnh dạn
chọn nghiên cứu đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực
tiễn Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam”, góp phần ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc tăng
cường thực hiện chính sách phát triển viên chức khoa học ở nước ta nhằm
nâng cao hiệu quả việc thu hút, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học góp phần
mục tiêu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như đường lối của Đảng đã
đề ra.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Tìm hiểu tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài “
thực hiện Chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa

học và Công nghệ Việt Nam” cho thấy đây là vấn đề mới mẻ, một số nhà
khoa học đã quan tâm nghiên cứu và tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp
độ khác nhau.
Vấn đề phát triển Khoa học và công nghệ và phát huy nguồn nhân lực
Khoa học và công nghệ đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu ở các góc
độ khác nhau như:
Đề tài khoa học cấp bộ “ Luận cứ khoa học phân định công chức với
viên chức” của TS. Nguyễn Minh Phương, 2005 đã phân tích đáng giá thực
trạng phân định công chức với viên chức trong các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành, bước đầu làm rõ cơ sở khoa học phân định công chức với viên
chức, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý
phù hợp đối với từng đối tượng công chức và viên chức.

4


Cuốn sách “Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực Khoa học và công
nghệ trong các cơ quan nghiên cứu – phát triển”, TS. Nguyễn Thị Anh Thu.
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 2000 đã phân tích những điểm hợp lý và bất
hợp lý trong chính sách sử dụng nhân lực Khoa học và công nghệ hiện hành,
từ đó đưa ra những khuyến nghị đổi mới chính sách sử dụng nhân lực Khoa
học và công nghệ trong cơ quan nghiên cứu - phát triển.
Bài viết “Thực hiện tốt Luật viên chức để tiếp tục đổi mới cơ chế quản
lý và nâng cao chất lượng phục vụ của khu vực sự nghiệp công lập” của TS.
Trần Văn Tuấn trên Tạp chí tổ chức nhà nước, số 1 năm 2011 đã nêu lên tầm
quan trọng của đội ngũ viên chức nói chung và viên chức khoa học nói riêng
trong việc nâng cao chất lượng của dịch vụ công. từ đó khuyến nghị tăng
cường chính sách quản lý, phát triển đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự
nghiệp công lập, cụ thể là triển khai áp dụng Luật viên chức vào thực tế một
cách hiệu quả.

Chuyên đề nghiên cứu khoa học “Đánh giá tình hình thực hiện phân
cấp tuyển dụng viên chức ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hiện
nay” của TS. Trần Nghị, 2015, đã phân tích, làm rõ thực trạng phân cấp tuyển
dụng viên chức tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ đó đề xuất
giải pháp tiếp tục thực hiện việc phân cấp tuyển dụng viên chức tại các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay.
Luận án Tiến sĩ: “Thể chế quản lý viên chức Khoa học và công nghệ ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay, Lê Thị Thu Hằng 2014, đã đưa ra các quan
điểm, phương hướng và giải pháp khoa học và khả thi nhằm hoàn thiện thể
chế quản lý viên chức Khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay.
Bài viết: “ Chính sách phát triển nguồn nhân lực Khoa học và công
nghệ” của ThS. Nguyễn Thúy Hà, 2013, trên cổng thông tin điện tử viện
nghiên cứu lập pháp đã đánh giá thực trạng nguồn nhân lực Khoa học và công

5


nghệ của nước ta, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế; từ đó đề ra định hướng
phát triển nguồn nhân lực Khoa học và công nghệ nhằm đáp ứng mục tiêu mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Bài viết: “Giải pháp phát triển Khoa học và công nghệ đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030” đăng trên Cổng thông tin Khoa học và công nghệ
thành phố Hải Phòng đã nêu rõ 8 giải pháp phát triển Khoa học và công nghệ
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thành
phố Hải Phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Các công trình nghiên cứu, bài viết trên đây cho thấy, các công trình
khoa học, đề tài nghiên cứu là tài liệu tham khảo bổ ích trong quá trình nghiên
cứu biên soạn luận văn này.
3.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản
và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên chức khoa học ở
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, luận văn đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách phát triển viên chức ở Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện

chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học và công
nghệ Việt Nam.
-

Nghiên cứu và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát

triển viên chức từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
-

Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách

phát triển viên chức từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam.

6



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là chính sách phát triển viên
chức từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ
năm 2013 ( năm Luật Khoa học và Công nghệ bắt đầu được ban hành) đến
nay. Luận văn cũng có thể đề cập đến những giai đoạn trước trong chừng mực
làm rõ giai đoạn này.
- Về mặt không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tại Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Luận văn cũng sẽ có đề cập đến
ở một số cơ quan nghiên cứu khoa học khác trong chừng mực để so sánh làm
bật lên đối tượng nghiên cứu chính là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam.
- Vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thực
hiện chính sách phát triển viên chức đối với các đối tượng như theo luật Khoa
học và công nghệ năm 2013 và Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014
quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động Khoa học và công nghệ,
chức danh nghiên cứu khoa học (sau đây gọi tắt là chức danh khoa học) gồm:
trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên
cao cấp; chức danh công nghệ gồm: Kỹ thuật viên và tương đương, kỹ sư và
tương đương, kỹ sư chính và tương đương, kỹ sư cao cấp và tương đương.
Trong khuân khổ nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ đề cập đến chính sách
phát triển viên chức.
Luận văn tập trung đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát
triển viên chức tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và đề

7



xuất định hướng, giải pháp tăng cường thực hiện phát triển viên chức tại Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

-

Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu bằng phương

pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trên cơ sở các phương pháp luận đó, luận văn vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh và quán triệt các Nghị quyết chính sách của Việt Nam về đổi mới đội
ngũ viên chức và kinh nghiệm lịch sử đã đúc kết thành lý luận trong vấn đề
thực hiện chính sách phát triển viên chức.
-

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp

phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp – diễn dịch, thống kê xem xét
các văn bản kết hợp gắn lý luận với thực tiễn để làm rõ các nội dung luận văn
cũng như chọn lọc những kinh nghiệm thực tiễn sát với những vấn đề cần giải
quyết của luận văn.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có những đóng góp trên cả lý luận
và thực tiễn:
-


Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề về thực hiện chính sách

phát triển viên chức từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam, góp phần bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách công nói chung, thực hiện chính sách phát triển viên chức tại Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nói riêng.
-

Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính

sách, luận văn sẽ chỉ ra được những bất cập, hạn chế và nguyên nhân trong
việc thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn Viên Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam; từ đó đề ra các yêu cầu, giải pháp cơ bản

8


nhằm tăng cường việc thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn
Viện Hàn lâm Khoc học và Công nghệ Việt Nam.
-

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài

liệu tham khảo phục vụ hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển viên chức từ
thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
7.

Cơ cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chính sách phát triển
viên chức
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên chức tại
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách phát triển viên
chức

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC
1.1. Hệ thống các khái niệm
1.1.1 Khái niện chính sách, chính sách công
Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm
vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lính
vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy
thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện
nào đó của chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được
và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự
phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - Văn hóa - xã hội – môi trường.
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là trương trình hành động do các
nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc
phạm vi thẩm quyền của mình.
Chính sách công là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống
kinh tế - xã hội. Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật

ngữ “Chính sách công” được sử dụng rất phổ biến. Hiện nay có nhiều các
khái niệm về chính sách công trên thế giới vì các hình thái nhà nước, hệ thồng
chính trị khác nhau.
Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến
hành (Peter Aucoin,1971).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau
của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa
10


chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin,
1978).
Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm
(Thomas R. Dye, 1984).
Chính sách công là toàn bộ phận các hoạt động của nhà nước có ảnh
hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B.
Guy Peter, 1990).
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan
lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà
nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn,1992).
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
chương trình nhằm đạt đươc những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and
Eloise F. Malone,1995).
Nói một cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt
động của chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó
có ảnh hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999).
Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ
chính quyền và những ý định, quyết định hành động này, hoặc chính sách
công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai dành được cái gì
(Clarke E. Cochran, et al,1999).

Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson, 2003 ).
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động
của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các
cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức,

11


cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện
những chương trình (Kraft and Furlong, 2004).
Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các
vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thế hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển (Nguyễn Hữu Hải, 2010 –
HV Hành chính Quốc gia).
Chính sách công là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một
mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và thực tế mà đề ra
(Nguyễn Thị Như Mai, 2010 – Văn phòng Chính phủ).
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác
nhau, từ các tổ chức quốc tế đến từng quốc gia, từ nhà nước đến các đơn vị, tổ
chức chính trị xã hội, doanh nghiệp,...nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra
cho mỗi tổ chức đó và chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó. Do đó,
khái niệm chính sách được hiểu như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một
thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...”.
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ
máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng

được gọi là chính sách công. Như vậy: “Chính sách công là tập hợp các quyết
định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể
với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục
tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền” (Đỗ Phú Hải, 2012).
Chủ thể ban hành chính sách là Nhà nước thông qua các cơ quan
quyền lực (Quốc hội, Chính phủ), các bộ ngành thực hiện chức năng quản lý
nhà nước. Chính sách công được thể hiện bằng nhiều cấp độ khác nhau: Hiến
12


pháp, Luật, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định. Mục đích cuối
cùng là để phát triển và quản lý sự phát triển của xã hội. Cấu trúc của chính
sách gồm 3 bộ phận: i, Những định hướng hành động ứng xử (là quan điểm
và định hướng chính sách). ii, Biện pháp thực hiện chính sách, các công cụ
của chính sách. iii, Mục tiêu mà chính sách hướng tới.
1.1.2. Khái niệm phát triển
Một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội phương Tây, đặc biệt là Pháp,
đã nêu khái niện phát triển chỉ mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX; cụ thể là
những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Từ phát triển ba lần được sử
dụng trong bản báo cáo gồm 14 điểm của tổng thống Mỹ Willson. Trong các
tài liệu của Hội Quốc liên năm 1919, khái niệm phát triển được sử dụng đi đôi
với khái niệm không phát triển, chậm phát triển. Khái niệm phát triển lúc này
gắn với khái niệm văn minh. Chính là với khái niệm đó mà chủ nghĩa thực
dân phương tây đã tự cho mình nhiệm vụ lịch sử đem ánh sáng văn minh đến
khai hóa cho các dân tộc lạc hậu, dã man.
Mãi sau này đến những năm 30, khái niệm phát triển mới gắn với kinh
tế, và lúc này người ta sử dụng nó gần như đồng nhất với phát triển kinh tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Khi đã thành lập Liên hợp quốc, các chuyên
gia của tổ chức quốc tế nay mới bắt đầu nêu ra lý thuyết về phát triển. Diễn
văn của tổng thống Mỹ Truman năm 1949 nêu vấn đề trách nhiệm của Mỹ

trong chương trình mang chủ đề phát triển các vùng chậm phát triển.
Nhìn một cách khái quát, về căn bản trong mấy thập kỷ qua, các lý
thuyết về phát triển dù có khác nhau ở điểm này hay ở điểm khác , nhưng vẫn
lấy châu Âu làm trung tâm hoặc phương Tây làm trung tâm. Chính theo quan
điểm đó mà trong một thời gian dài người ta lấy thu nhập tính theo đầu
người/năm để xét một nước nào đó thuộc loại phát triển hay kém phát triển.

13


Như vậy “Phát triển là một tiến trình tiến hóa của mọi xã hội, mọi
cộng đồng dân tộc trong đó các chủ thể lãnh đạo và quản lý, bằng các chiến
lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của xã hội và cộng đồng dân tộc mình, tạo ra, huy động và
quản lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được những thành quả
bền vững và được phân phối công bằng cho các thành viên trong xã hội vì
mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của họ”. (GS. Bùi
Đình Thanh, 2015).
1.1.3. Khái niện Viên chức, viên chức khoa học
Trước khi Luật viên chức năm 2010 được ban hành, khái niệm về viên
chức chưa được phân biệt một cách rõ ràng với cán bộ, công chức (CBCC).
Căn cứ Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003, Nghị định
116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức trong đơn vị sự nghiệp Nhà nước quy
định: “Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định
của pháp luật.”
Theo điều 2, Luật Viên chức năm 2010 quy định: “Viên chức khoa

học là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Viên
chức khoa học có nhiệm vụ xây dựng hoặc tham gia xây dựng kế hoạch
nghiên cứu các đề tài, dự án, bao gồm việc xác định mục tiêu, nội dung,
phương hướng, phương pháp nghiên cứu, tiến độ thực hiện và các điều kiện
về nhân lực, vật tư, tài chính; trực tiếp nghiên cứu và hướng dẫn, kiểm tra
14


thực hiện các nội dung nghiên cứu, thí nghiệm được phân công; xử lý tổng
hợp các thông tin, dữ liệu thu được. Tổ chức triển khai thực hiện nhằm hoàn
thiện kết quả nghiên cứu trước khi đưa vào sản xuất và đời sống. (Điều 2,
Chương I).
Quan niệm về viên chức được thay đổi theo từng thời kỳ nhưng viên
chức được hiểu là những đối tượng được tuyển dụng và làm việc tại các đơn
vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc và được hưởng lương từ
quỹ lương của các đơn vị công lập đó theo quy định của pháp luật. Và hiện
nay, khái niệm về viên chức được quy định và áp dụng thực hiện một cách cụ
thể, rõ ràng theo quy định của Luật Viên chức.
Căn cứ vào luật viên chức số 58/2010/QH12 và Luật Khoa học và
công nghệ số 29/2013/QH13, có thể quan niệm: Viên chức khoa học là công
dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, giữ các chức danh nghiên
cứu khoa học tại các đơn vị sự nghiệp Khoa học và công nghệ công lập. Viên
chức khoa học được tuyển dụng và quản lý theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương của các đơn vị này theo quy định của pháp luật.
Với khái niệm ở trên thì viên chức khoa học được hiểu là những người
làm công tác nghiên cứu khoa học tại các đợn vị sự nghiệp Nhà nước như
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam, các nghiên cứu trực thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ; được hưởng theo chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ,
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (tại Nghị định 204/NĐCP ngày 14/12/2004 của Chính phủ quy định về chế độ tiền lương đối với
công chức, viên chức và lực lượng vũ trang).
Theo Luật Khoa học và công nghệ năm 2013, chức danh nghiên cứu
khoa học là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực nghiên cứu khoa học của cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực khoa học, gồm: trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu
15


viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp. Theo Nghị định số
40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân
hoạt động Khoa học và công nghệ và Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLTBKHCN-BNV ngày 01/10/2014, chức danh nghiên cứu khoa học gồm: trợ lý
nghiên cứu (hạng IV), nghiên cứu viên (hạng III), nghiên cứu viên chính
(hạng II), nghiên cứu viên cao cấp (hạng I).
Viên chức khoa học được tuyển dụng, quản lý và sử dụng như viên
chức hoạt động trong các lĩnh vực chuyên môn khác; hoạt động của họ là
nghiên cứu khoa học , nghiên cứu cơ bản để đưa ra các luận cứ, luận điểm
làm cơ sở lý luận phục vụ cho việc xây dựng và ban hành chính sách phục vụ
cho hoạt động quản lý của nhà nước , phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng mà nhà nước đặt ra.

16


1.1.4. Khái niệm chính sách phát triển viên chức
Từ quan niệm chính sách công như trên, có thế định nghĩa chính sách
phát triển viên chức khoa học như sau: Chính sách phát triển viên chức khoa
học là tập hợp các quyết định chính trị của nhà nước có liên quan đến đội ngũ
viên chức khoa học với các mục tiêu, giải pháp và công cụ nhằm nâng cao
hiệu quả nghiên cứu khoa học, tạo môi trường và động lực để thu hút thúc đẩy

đội ngũ viên chức khoa học ở cả trong và ngoài nước phát huy tốt nhất khả
năng nghiên cứu, cống hiến hết mình cho việc nghiên cứu khoa học góp phần
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy đối tượng hưởng lợi từ việc thực hiện chính sách phát triển
viên chức khoa học và năng lực, phẩm chất của họ trong quá trình hoạt động
nghề nghiệp của mình.
1.1.5. Khái niệm thực hiện chính sách phát triển viên chức khoa học
Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là
toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực
với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Thực hiện chính sách
là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một hệ thống .
Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp và có
nhiều biến động, chịu sự tác động của nhiều yếu tố giúp các nhà hoạch định
và tổ chức thực hiện chính sách có kinh nghiệm để đề ra được các giải pháp
hữu hiệu trong thực hiện chính sách.
Thực hiện phát triển chính sách viên chức khoa học là việc triển khai
những quan điểm, quyết sách của Nhà nước vào thực tiễn nhắm nâng cao chất
lượng đội ngũ viên chức khoa học; trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể
cũng như trình độ, năng lực thực tế của đội ngũ viên chức khoa học tìm ra
những công cụ, giải pháp phù hợp nhất nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Đối
tượng thực hiện chính sách phát triển viên chức khoa học là các cơ quan quản
17


lý Nhà nước về khoa học , các cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội có liên quan,
các cán bộ, công chức thực thi chính sách và đội ngũ viên chức khoa học.
1.2. Nội dung của chính sách phát triển viên chức
1.2.1. Tiền lương và phụ cấp
- Vấn đề tiền lương
Thực hiện kết luận số 23-KL/TW, ngày 29/5/2012 của Hội nghị Trung

ương Đảng lần thứ V, Khóa XI về một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã
hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020.
Chính phủ đã không ngừng xem xét, điều chỉnh mức lương tối thiểu chung,
mức lương tối thiểu vùng, sửa đổi, bổ sung chế độ phụ cấp ưu đãi nghề, phụ
cấp đặc thù theo ngành nhằm từng bước cải thiện tiền lương nói chung và
nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình cải cách tiền lương ở nước ta vẫn còn nhiều
khó khăn, bất cập, cụ thể như:
Hoạt động của đội ngũ viên chức là hoạt động mang tính phục vụ,
cung cấp các dịch vụ công cho xã hội. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang
chủ trương thực hiện xã hội hóa cung ứng dịch vụ công. Tuy nhiên, hoạt động
này đang diễn ra còn chậm và đạt kết quả thấp, do đó, cản trở không nhỏ đến
công cuộc cải cách tiền lương cho viên chức.
Mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu vùng vẫn còn thấp,
tốc độ tăng lương không đi kịp với tốc độ tăng của giá cả thị trường, dẫn đến,
đời sống của người lao động nói chung và đội ngũ viên chức nói riêng còn
gặp nhiều khó khăn, chính sách tiền lương chưa thực sự là đòn bẩy khuyến
khích cán bộ, công chức, viên chức và người lao động phát huy năng lực,
nâng cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.
- Vấn đề phụ cấp
Bên cạnh tiền lương thì phụ cấp cũng là yếu tố quan trọng để kích
18


thích người lao động hăng hái làm việc. Hiện nay, đội ngũ viên chức cũng
đã có các loại phụ cấp như: phụ cấp thâm niên, phụ cấp ngành, phụ cấp
chức vụ, phụ cấp trong trường hợp làm việc ở những nơi có điều kiện đặc
biệt khó khăn.
1.2.2. Vấn đề tuyển dụng
Theo Điều 3, Chương 1, Luật Viên chức thì: “Tuyển dụng là việc lựa

chọn người có phẩm chất, trình độ và năng lực vào làm viên chức trong đơn
vị sự nghiệp công lập”. Tuyển dụng đóng vai trò quan trọng, quyết định đến
chất lượng đầu vào viên chức.
Việc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu thực tế công việc,
vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp
công lập. Tuyển dụng phải đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, công
bằng, khách quan, đúng pháp luật, đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh, tuyển
đúng người, đúng việc, ưu tiên người có tài, người dân tộc thiểu số và người
có công với cách mạng.
1.2.3. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình
độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả công việc của viên
chức. Trên thực tế hiện nay, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập nói chung
cũng đã và đang quan tâm nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ viên
chức, tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa cao, đào tạo, bồi dưỡng nhiều khi lãng phí,
không phù hợp với thực tiễn công việc.
1.2.4. Vấn đề thu hút, trọng dụng, đãi ngộ viên chức, nhà khoa học trẻ
Thực hiện Kết luận số 86-KL/TW ngày 24/01/2014 của Bộ Chính trị
về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán
bộ khoa học trẻ. Nhiều sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc, nhà khoa học
trẻ tài năng được xét tuyển làm công chức, viên chức, được phát huy tài năng
19


và trí tuệ, được sắp xếp, bố trí công việc phù hợp, được bổ sung quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn tồn tại hiện tượng một số
cơ quan, đơn vị tuyển dụng còn lúng túng, bị động trong sắp xếp công việc,
không mạnh dạn đề bạt, sử dụng cán bộ trẻ mới được tuyển dụng, không phát
huy được năng lực, gây lãng phí nguồn lực chất lượng cao.
1.3. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách phát

triển viên chức
1.3.1. Chủ thể của chính sách phát triển viên chức
Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước thông qua các cơ quan
quyền lực như: Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước. Chính sách phát triển viên chức cũng là một trong những chính
sách công của Nhà nước, do đó, chủ thể ban hành chính sách phát triển viên
chức cũng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành như: Quốc hội,
Chính phủ, Bộ Nội vụ. Ngoài ra, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các
đơn vị sự nghiệp công lập cũng ban hành các văn bản phục vụ cho hoạt động
quản lý của đơn vị mình. Trong các cơ quan nói trên thì Quốc hội ban hành
Luật Viên chức; Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật;
Bộ Nội vụ là cơ quan đóng vai trò chính trong việc tham mưu, tổng hợp và
trực tiếp xây dựng chính sách. Cụ thể, Bộ Nội vụ có những chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức như sau (theo Nghị định số 58/2014/NĐ-CP
ngày 16/6/2014 của Chính phủ): Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực; Tổ chức hành chính,
sự nghiệp nhà nước; chính quyền địa phương, địa giới hành chính; cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước; đào tạo bồi dưỡng về chuyên ngành hành
chính, quản lý hành chính nhà nước.
Tại Điều 45 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP có quy định nhiệm vụ và
20


quyền hạn của Bộ Nội vụ trong lĩnh vực quản lý viên chức như sau: Xây
dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về viên chức để Chính phủ
trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Xây dựng, trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ quy định về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình
phát triển đội ngũ viên chức; phân công, phân cấp quản lý viên chức; xác định
vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp; chiến lược,

kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ viên chức; chế độ tiền lương; chính sách
đối với người có tài năng; các quy định về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, biệt phái,
từ chức, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, chấm dứt hợp đồng làm việc, thôi
việc và nghỉ hưu đối với viên chức; Quy định mã số chức danh nghề nghiệp
của viên chức; thẩm định việc xây dựng và kiểm tra việc thực hiện tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức; ban hành quy chế tổ chức thi tuyển, xét
tuyển viên chức; phối hợp với các Bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên
chức chuyên ngành ban hành quy chế thi, xét thăng hạng chức danh nghề
nghiệp viên chức; thẩm định chương trình khung bồi dưỡng theo tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức; quy định việc thực hiện hoặc áp dụng chức
danh công chức đối với viên chức làm việc ở các bộ phận hành chính, tổng
hợp, quản trị văn phòng, kế hoạch, tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập;
Chủ trì, phối hợp với các Bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức
chuyên ngành quy định về lập hồ sơ, quản lý hồ sơ; số hiệu viên chức; thẻ và
chế độ đeo thẻ của viên chức; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương tổ chức thống kê số lượng, chất lượng đội ngũ viên chức; Phối
hợp với các Bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành tổ
chức và công nhận kết quả thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp
viên chức từ hạng II lên hạng I; giám sát, kiểm tra việc tổ chức thi hoặc xét
thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức; bổ nhiệm chức danh nghề
21


×