Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Địa vị pháp lý của các công trình nhân tạo trên biển dưới góc độ pháp luật quốc tế Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.73 KB, 37 trang )

Header Page 1 of 126.

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V PHNG LINH

ĐịA Vị PHáP Lý CủA CáC CÔNG TRìNH NHÂN TạO TRÊN BIểN
DƯớI GóC Độ PHáP LUậT QUốC Tế

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017
Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V PHNG LINH

ĐịA Vị PHáP Lý CủA CáC CÔNG TRìNH NHÂN TạO TRÊN BIểN
DƯớI GóC Độ PHáP LUậT QUốC Tế
Chuyờn ngnh: Lut Quc t
Mó s: 60 38 01 08

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TS. NGUYN B DIN



H NI - 2017
Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Phƣơng Linh

Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TRÌNH NHÂN TẠO
TRÊN BIỂN DƢỚI GÓC ĐỘ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ .........................6
1.1.

Khái niệm “công trình nhân tạo” trong Luật quốc tế .............................6

1.2.

Khái niệm “đảo nhân tạo” trong Luật quốc tế .........................................9

1.3.

Sự liên hệ giữa đảo nhân tạo và công trình nhân tạo ............................13

1.4.

Lịch sử phát triển của các chế định về công trình nhân tạo trong
luật quốc tế .................................................................................................14

1.4.1.

Hội nghị pháp điển hoá luật pháp quốc tế La Haye 1930 ...........................15

1.4.2.

UNCLOS I và II ..........................................................................................17


1.4.3.

UNCLOS III ................................................................................................19

1.4.4.

Phán quyết của Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII – 12/07/2016 ..........23

CHƢƠNG 2: QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NHÂN
TẠO THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
2.1.

Quy chế pháp lý của các công trình nhân tạo và vai trò của chúng
trong việc hoạch định và phân định biên giới biểnError! Bookmark not defined.

2.2.

Các quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc xây dựng
công trình nhân tạo theo Công ƣớc Luật Biển 1982Error! Bookmark not defined.

2.3.

Vị trí và điều kiện xây dựng các công trình nhân tạo trên biểnError! Bookmark n

2.3.1.

Công trình nhân tạo trong vùng nội thuỷ và lãnh hảiError! Bookmark not defined.

2.3.2.


Công trình nhân tạo trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địaError! Bookmark n

2.3.3.

Công trình nhân tạo nhân tạo trên các vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa chồng lấn .........................................Error! Bookmark not defined.

2.3.4.

Footer Page 4 of 126.

Công trình nhân tạo trên biển quốc tế và đáy đại dương (la zone)Error! Bookmark no


Header Page 5 of 126.

2.4.

Thực trạng việc bồi đắp và sử dụng các công trình nhân tạo của
Trung Quốc trên Biển Đông .....................Error! Bookmark not defined.

2.4.1.

Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) ................Error! Bookmark not defined.

2.4.2.

Châu Viên (Cuarteron Reef) .......................Error! Bookmark not defined.

2.4.3.


Ga Ven (Gaven Reefs) ................................Error! Bookmark not defined.

2.4.4.

Tư Nghĩa (Hughes Reef) .............................Error! Bookmark not defined.

2.4.5.

Gạc Ma (Johnson South Reef) ....................Error! Bookmark not defined.

2.4.6.

Xu Bi (Subi Reef) ........................................Error! Bookmark not defined.

2.4.7.

Vành Khăn (Mischief Reef) ........................Error! Bookmark not defined.

CHƢƠNG 3: ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CÁC CÔNG TRÌNH NHÂN
TẠO PHẢN BÁC YÊU SÁCH PHI PHÁP CỦA TRUNG QUỐC VÀ

BẢO VỆ CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNGERROR! BOOKMARK NO
3.1.

Tính trái pháp luật quốc tế của các công trình nhân tạo do Trung
Quốc bồi đắp phi pháp trên Biển Đông ...Error! Bookmark not defined.

3.1.1.


Xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt NamError! Bookmark not defined.

3.1.2.

Huỷ hoại môi trường và hệ sinh thái trên biểnError! Bookmark not defined.

3.1.3.

Cản trở, đe doạ hoạt động hàng hải, hàng không và thương mại quốc tếError! Bookmark

3.1.4.

Không tạo ra lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địaError! Bookmark not d

3.1.5.

Không có tác động đến việc phân định biểnError! Bookmark not defined.

3.2.

Khuyến nghị về các giải pháp cho Việt Nam nhằm ngăn chặn

hành động phi pháp của Trung Quốc trên Biển ĐôngError! Bookmark not define
3.2.1.

Khởi kiện Trung Quốc ra các cơ quan tài phán quốc tếError! Bookmark not defined.

3.2.2.

Việt Nam, ASEAN và Trung Quốc sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử

ở Biển Đông (COC) ....................................Error! Bookmark not defined.

3.2.3.

Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các biện pháp song phương và đa
phương để giải quyết xung đột với Trung QuốcError! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN .......................................... ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................28
PHỤ LỤC ............................................. ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

DANH MỤC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Tiếng Việt

viết tắt
COC
DOC

ICJ

Tiếng Anh

Bộ quy tắc về ứng xử của các bên ở


The Code of Conduct for the

Biển Đông

South China Sea

Tuyên bố về cách ứng xử của các bên

Declaration on Conduct of

ở Biển Đông năm 2002

the Parties in the South
China Sea

Toà án Công lý quốc tế

International Court of
Justice

ITLOS
UNCLOS

Footer Page 6 of 126.

Toà án quốc tế về Luật Biển

International Tribunal for
the Law of the Sea


Công ước Liên Hợp Quốc về Luật

United Nations Convention

biển năm 1982

on the Law of the Sea


Header Page 7 of 126.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, cộng đồng khu vực và thế giới ngày càng quan tâm nhiều hơn
tới Biển Đông bởi ý nghĩa quan trọng của vùng biển này đối với hòa bình, ổn định
và phát triển, không chỉ của riêng khu vực Đông Á mà của toàn Châu Á – Thái
Bình Dương. Nằm ở trung tâm của Đông Nam Á, Biển Đông là một biển nửa kín
bao quanh là Trung Quốc và một vài nước nhỏ và yếu hơn như Philippines, Việt
Nam, Malaysia và Brunei. Từ giữa những năm 1970, các quốc gia ven biển này đã
rơi vào cuộc tranh chấp kéo dài khi mỗi quốc gia đều muốn mở rộng các yêu sách
chủ quyền và quyền tài phán đối với hơn một trăm các đảo nhỏ, bãi đá ngầm và đá
cũng như các vùng biển xung quanh.
Có thể thấy rằng, một trong những biểu hiện cơ bản để khẳng định và thực
thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia trên biển chính là
sự hiện diện của đời sống kinh tế, xã hội của một cồng đồng dân cư, của hoạt động
khai thác tài nguyên trên biển… Trong đó, sự hiện diện vững chắc nhất để thực thi
thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đó chính là sự tồn
tại của cộng đồng dân cư, của chính quyền nhà nước trên các đảo, quần đảo tự
nhiên và nhân tạo. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng các công trình nhân tạo đã và

đang được các quốc gia biển quan tâm và thực hiện. Bởi lẽ các đảo nhân tạo và
công trình nhân tạo nếu được xây dựng hợp pháp trên biển sẽ mang lại nhiều lợi ích
cho quốc gia ven biển trong việc bảo vệ và thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của quốc gia ven biển; gia tăng hiệu quả khai thác tài nguyên biển,
nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường; thuận lợi hơn trong công tác tuần tra,
kiểm soát và sử lý các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia;
bảo đảm an ninh hàng hải, hàng không; các hoạt động tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn…
Tuy nhiên, một thực trạng rất nguy hiểm hiện nay đó chính là việc bồi đắp,
mở rộng các đảo, đá nhỏ đặc biệt là các bãi ngầm, rạn san hô, bãi cạn lúc chìm lúc
nổi trên các quần đảo và vùng biển đang tranh chấp hoặc chồng lần để biến chúng

1
Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.

thành đảo nhân tạo nhằm mục đích duy trì, củng cố các yêu sách biển mà điển hình
là Trung Quốc. Việc Trung Quốc ngang nhiên xây dựng, lắp đặt các công trình
nhân tạo đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
của Việt Nam và các quốc gia ven biển khác; vi phạm các quy tắc của pháp luật
quốc tế, tạo ra tiền lệ vô cùng nguy hại trong việc một quốc gia ngang nhiên “chà
đạp” lên các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và sẵn sàng vi phạm luật pháp quốc
tế, trực tiếp ảnh hưởng đến an toàn hàng hải trong khu vực Biển Đông; đe dọa an
ninh, hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; hủy hoại môi trường và hệ
sinh thái biển, gây ra tác hại lâu dài đối với ngư dân trong vùng Biển Đông.
Vì những lý do đó tác giả đã chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của các công trình
nhân tạo trên biển dưới góc độ pháp luật quốc tế” để nghiên cứu, hoàn thành luận
văn thạc sỹ.
Nội dung luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về các công trình nhân

tạo trên biển. Cụ thể, luận văn đưa ra khái niệm thế nào là “công trình nhân tạo”; sự
liên hệ giữa đảo nhân tạo và các công trình nhân tạo; làm rõ quy chế pháp lý, quyền
và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong việc xây dựng các công trình nhân tạo
trên biển theo công ước Luật Biển (UNCLOS 1982). Đồng thời lên án, phản bác
những hành vi ngang ngược của Trung Quốc đối với việc đảo hóa các thực thể
ngầm, đưa ra giải pháp ngăn chặn hành động phi pháp của Trung Quốc trên biển
Đông, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với những diễn biến ngày càng căng thẳng trên Biển Đông là sự gia
tăng của những công trình nghiên cứu, những diễn đàn học thuật, những cuộc hội
thảo trong và ngoài nước luận bàn về các khía cạnh trong tranh chấp Biển Đông.
Cho đến nay những công trình nghiên cứu đề cập nhiều đến vấn đề chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, những yêu sách của các quốc gia ven
biển và vấn đề “đảo hoá” các thực thể ngầm của Trung Quốc dẫn đến những hệ luỵ
đối với khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề xác định

2
Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

quy chế pháp lý của các công trình nhân tạo mà chủ yếu chỉ đề cập đến bản chất
cũng như thực trạng xây dựng các công trình nhân tạo đó. Cùng với đó, những quy
định của pháp luật quốc tế về các công trình nhân tạo chưa đi sâu vào thực tiễn vận
dụng, giải thích các quy định trên tại các cơ quan tài phán quốc tế, các điều ước
song phương và pháp luật của từng quốc gia.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu, làm rõ các căn cứ, vấn đề pháp lý liên quan đến địa vị pháp lý
của các công trình nhân tạo trên biển dưới góc độ luật pháp quốc tế. Từ đó, rút ra
được những kinh nghiệm cho Việt Nam, nâng cao hiệu quả giải quyết các xung đột,
tranh chấp căng thẳng trên Biển Đông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần làm sáng rõ khái niệm, phân loại, bản chất, quyền tài phán của
các quốc gia đối với các công trình nhân tạo trên biển.
- Đưa ra lập luận, đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam.
- Lên án, phản bác hành vi phi pháp của Trung Quốc.
- Đưa ra giải pháp ngăn chặn hành vi xây dựng, lắp đắp trái phép các công
trình nhân tạo trên biển của Trung Quốc và khuyến nghị đối với Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chủ yếu nghiên cứu trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế,
trong đó chủ yếu là tính phù hợp của các công trình nhân tạo theo pháp luật quốc tế
và đặc biệt là các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 cùng các quy định
của pháp luật Việt Nam và các quốc gia hữu quan; thực tiễn áp dụng pháp luật quốc
tế của các cơ quan tài phán quốc tế và sự giải thích trong các điều ước quốc tế; các
công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan đến
nội dung nghiên cứu của Luận văn.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn chủ yếu nghiên cứu về Biển Đông. Trên
cơ sở nghiên cứu luật pháp quốc tế nói chung, học viên tập trung nghiên cứu về các
vấn đề của các công trình nhân tạo trên Biển Đông và có đề cập đến một số công

3
Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.

trình nhân tạo ở các vùng biển khác, đặc biệt là các công trình nhân tạo mà Trung

Quốc đã xây dựng và bồi đắp trái phép trong thời gian qua. Xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ của Việt Nam, huỷ hoại môi trường và hệ sinh thái trên biển, cản trở, đe
doạ các hoạt động hàng hải, hàng không và thương mại quốc tế…
Vì vậy, đề tài “Địa vị pháp lý của các công trình nhân tạo trên biển dưới
góc độ pháp luật quốc tế” tập trung nghiên cứu về vấn đề Quy chế pháp lý của các
công trình nhân tạo trên biển dưới góc độ pháp luật quốc tế, bao gồm các khía cạnh
từ lý luận đến thực tiễn; từ pháp luật quốc gia đến pháp luật quốc tế; từ trước đến
sau khi hình thành Công ước Luật Biển năm 1982; từ pháp luật đến các lĩnh vực
như địa lý, lịch sử, quân sự…
5. Tính mới của đề tài
Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu và xác định quy chế pháp lý của các công
trình nhân tạo trên biển – một vấn đề quan trọng nhưng chưa có công trình nghiên
cứu sâu và chuyên biệt. Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp những tri thức
đa ngành mới nhất, trong đó trọng tâm là tri thức pháp luật quốc tế trong và ngoài
nước liên quan đến phạm vi, vùng an toàn, quy chế pháp lý của các công trình nhân
tạo… Có thể thấy rằng đây là vấn đề được đề cập từ rất lâu nhưng ít được quan tâm,
nghiên cứu, cập nhật. Gần đây, vấn đề này đang trở nên nóng hổi và thiết thực hơn
bao giờ hết bởi những hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế của
Trung Quốc trong việc xây dựng, cải tạo các thực thể ngầm trên quần đảo Trường
Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Đánh giá về tác động của việc xây dựng các công trình nhân tạo đối với hòa
bình, an ninh, kinh tế và thương mại khu vực. Làm sáng tỏ những tác động tiêu cực
của hành vi “đảo hoá” của Trung Quốc trên Biển Đông đối với hòa bình, an ninh,
môi trường, kinh tế, thương mại quốc tế và các mối quan hệ giữa Trung Quốc với
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, liên quan đến quyền tự do hàng hải, tự
do hàng không trên biển.
Từ những nghiên cứu trên, đề tài cũng sẽ đề xuất giải pháp cụ thể, những
bước đi cho Việt Nam trong việc thực hiện hoá quan điểm của mình trong vấn đề
giải quyết các tranh chấp đang diễn ra căng thẳng trên Biển Đông.
4

Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

Bằng việc giải quyết những vấn đề trên, Luận văn là một công trình nghiên
cứu khoa học nghiêm túc, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, góp phần bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
Để nghiên cứu thực hiện đề tài đã chọn, Luận văn được thể hiện trên cơ sở
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam, giữ vững lập trường chính trị và đường lối ngoại giao
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới với chủ trương hoà bình, hợp tác
cùng phát triển, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Luận văn đặc biệt sử dụng phương pháp so sánh luật học, tiếp cận dưới góc
độ luật so sánh để làm sáng tỏ vấn đề. Ngoài ra, còn dựa trên sự kết hợp giữa
phương pháp nghiên cứu từ cái chung đến cái riêng, phương pháp tích hợp liên
ngành, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và lịch sử, đánh giá,
diễn giải, dự báo, sử dụng số liệu thống kê…
Bên cạnh đó, Luận văn cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong
quá trình nghiên cứu, giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
bố trí kết cấu thành ba phần như sau:
Chương 1: Khái quát chung về công trình nhân tạo trên biển dưới góc độ luật
pháp quốc tế.
Chương 2: Quy chế pháp lý của các công trình nhân tạo trên biển theo Luật
quốc tế.
Chương 3: Áp dụng chế độ pháp lý các công trình nhân tạo phản bác yêu sách

phi pháp của Trung Quốc bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.

5
Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TRÌNH NHÂN TẠO TRÊN BIỂN
DƢỚI GÓC ĐỘ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm “công trình nhân tạo” trong Luật quốc tế
Công trình nhân tạo là sản phẩm do con người tạo nên, nhưng trong lịch sử
của luật pháp quốc tế, khái niệm này chưa bao giờ được xác định rõ ràng. Xuất phát
từ học thuyết thềm lục địa, từ lâu người ta đã công nhận thẩm quyền của quốc gia
ven biển xây dựng các cấu trúc nhân tạo nhằm mục đích thăm dò và khai thác tài
nguyên thiên nhiên của mình trên thềm lục địa của mình nhưng các cấu trúc này
không có quy chế đảo. Tại Hội nghị Pháp điển hoá Luật pháp quốc tế La Hay năm
1930, đại diện của Đức đã đề nghị nếu một đảo nhân tạo có người ở thì sẽ được
hưởng quy chế đảo nhưng Hội nghị đã bác bỏ [2]. Từ đó, không có quốc gia nào đề
nghị các cấu trúc nhân tạo có quy chế đảo nữa.
Trong luật pháp quốc tế, khái niệm công trình nhân tạo (artificial installation)
chưa được quy định rõ ràng. Cho đến nay, chưa một khái niệm nào về công trình
nhân tạo được các quốc gia chấp nhận rộng rãi.
Theo Bách khoa toàn thư về Công pháp quốc tế, công trình nhân tạo được
định nghĩa là “những cấu trúc cố định hay tạm thời được gắn với đáy biển bằng
hệ thống chân cọc”. Theo Soons, ông cho rằng “công trình nhân tạo là những cấu
trúc bê tông cố định gắn với đáy biển bằng ống dẫn và các cọc”. Trong khi đó,
Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại sự an toàn của
những công trình cố định trên thềm lục địa năm 1988 đã đồng nhất khái niệm

“đảo nhân tạo” với khái niệm “công trình nhân tạo”. Theo đó, “công trình nhân
tạo” được hiểu là “một đảo nhân tạo, thiết bị hoặc cấu trúc được lắp đặt vĩnh cửu
gắn với đáy biển nhằm mục đích thăm dò hoặc khai thác tài nguyên hoặc nhằm
các mục đích kinh tế khác”. Các định nghĩa này còn chưa đầy đủ, chưa bao gồm
được hết những loại hình công trình nhân tạo dần dần xuất hiện ngày càng nhiều
như thành phố trên biển, các dàn khoan dầu khí, các đảo nhân tạo phục vụ đánh
bắt cá, nhà máy điện, bến tàu nổi…

6
Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.

Trong khoa học pháp lý, công trình nhân tạo trên biển thường được hiểu là
những thiết bị và công trình nhân tạo được xây dựng và lắp đặt một cách lâu dài
trong lãnh hải, đặc quyền kinh tế và trên thềm lục địa; trong vùng nước quần đảo
một cách lâu dài trong lãnh hải, đặc quyền kinh tế và trên thềm lục địa; trong vùng
nước quần đảo hoặc những vùng biển quốc tế được điều chỉnh bằng Công ước Luật
biển 1982 và luôn được sử dụng nhằm mục đích thăm dò và khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên biển. Cùng với các đảo nhân tạo, các công trình nhân tạo còn có
thể được xây dựng nhằm những mục đích khác, chẳng hạn như nghiên cứu khoa
học về biển, giám sát thuỷ triều, cảng hàng không… Theo nghị định thư Barcelona
1994 về Bảo vệ Địa Trung Hải chống lại ô nhiễm do việc thăm dò và khai thác trên
thềm lục địa, đáy biển và lòng đất dưới thềm lục địa thì khái niệm “công trình”
(installation) được hiểu là “bất kỳ cấu trúc cố định hoặc nổi và bất kỳ phần gắn liền
nào của nó được sử dụng vào các hoạt động: (i) các bộ phận thăm dò ngoài khơi cố
định hoặc di động; (ii) các bộ phận sản xuất bao gồm các bộ phận có vị trí động;
(iii) các hệ thống kho bãi ngoài khơi bao gồm các tàu thuyền sử dụng cho mục đích
đó; (iv) các cảng phục vụ việc bốc dỡ và hệ thống vận chuyển các sản phẩm được

chiết xuất như các ống dẫn ngầm; (v) hệ thống máy móc gắn liền với chung và các
thiết bị nhằm mục đích bốc xếp, sản xuất, lưu trữ và tiêu huỷ các chất được lấy lên
từ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển [11].
Theo quan điểm của các luật gia, chúng ta có thể hiểu khái niệm “công trình
nhân tạo” theo những tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, chúng là các công trình nhân tạo do con người xây dựng, lắp đặt
và sử dụng trên biển, vì vậy chúng phân biệt với các thực thể được tạo ra trên biển
bởi sự kiến tạo thiên nhiên. Những thực thể này đáp ứng tiêu chuẩn của đảo tự
nhiên được quy định trong UNCLOS 1982 bởi yếu tố “một vùng đất tự nhiên có
nước bao bọc, khi thuỷ triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. Về vấn đề này,
chúng cũng không gặp nhiều rắc rối về mặt định nghĩa, bởi lẽ các thiết bị và công
trình là sản phẩm của con người, thông qua kỹ thuật và công nghệ.
Thứ hai, các công trình nhân tạo tồn tại và hoạt động trên biển có sự gắn kết

7
Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

vật chất với đáy biển một cách trực tiếp (như những công trình, thiết bị được xây
dựng, lắp đặt trên hạ tầng đáy biển, chúng có sự gắn bó hữu cơ với đáy biển) hoặc
gián tiếp (như được xây dựng, lắp đặt trên một bãi cạn, đá hoặc đảo những đảo này
là đảo tự nhiên hoặc được tạo ra bởi con người, trong trường hợp này, chúng gắn
kết hữu cơ với đáy biển thông qua phần đất của đảo). Mặc dù vậy, các công trình
nhân tạo không phải là các thực thể đáp ứng tiêu chí của “đảo” theo luật quốc tế.
Với đặc điểm này, “công trình nhân tạo” có sự gắn bó mật thiết với khái niệm “đảo
nhân tạo” (artificial islands) và việc lắp đặt và sử dụng chúng thường đi liền với
việc lắp đặt, sử dụng các đảo nhân tạo, đồng thời chúng cũng có thể được coi là một
dạng “đảo nhân tạo”.

Thứ ba, về vị trí và quy chế pháp lý, các công trình nhân tạo bao gồm những
loại do một quốc gia xây dựng, lắp đặt trong các vùng biển của mình; trên vùng
biển của quốc gia khác và trên vùng biển quốc tế. Chúng cũng có thể bao gồm
những công trình, thiết bị được xây dựng lắp đặt trong vùng biển chồng lấn (các bên
tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán). Quy chế pháp lý của
những công trình nhân tạo này được điều chỉnh bởi: (i) pháp luật quốc gia, thông
thường là luật của quốc gia ven biển, và (ii) pháp luật quốc tế, cụ thể là UNCLOS
1982 và các văn kiện pháp lý liên quan đến hoạt động hàng hải, hàng không, nghiên
cứu khoa học và bảo vệ môi trường biển, các điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc
gia hữu quan về các vấn đề tương ứng và tập quán quốc tế liên quan.
Thứ tư, các công trình nhân tạo được các quốc gia xây dựng và lắp đặt với
nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu là vì mục đích kinh tế (thăm dò, khai
thác, bảo tồn, quản lý đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển thuộc chủ
quyền hoặc quyền chủ quyền), điều phối giao thông hàng hải, giám sát và bảo vệ
môi trường biển, an ninh, quốc phòng…
Theo cách phân loại của Papadakis thì các công trình nhân tạo được phân
loại dựa vào mục đích sử dụng của nó, bao gồm: các thành phố trên biển; các đảo
nhân tạo vì mục đích phát triển kinh tế; các công trình phục vụ giao thông và liên
lạc; các công trình phục vụ nghiên cứu khoa học và dự báo thời tiết; các công trình

8
Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

giải trí và sau cùng là các công trình quân sự. Do vậy, thuật ngữ “công trình nhân
tạo” bao gồm các phương tiện được xây dựng và lắp đặt nhằm tận dụng tất cả các
nguồn lợi về kinh tế ở trong lòng biển và dưới đáy biển. Cũng vì vậy mà các công
trình nhân tạo nhằm mục đích quân sự không được đề cập trong phạm vi của

UNCLOS 1982. Nếu nhìn vào từng phân loại một, chúng ta có thể dễ dàng thấy
rằng tình trạng pháp lý của chúng khác nhau. Đây là một trong những lý do tại sao
không có một định nghĩa nào về đảo nhân tạo trong Công ước Luật Biển 1982 và do
đó UNCLOS đã đơn giản là né tránh những phức tạp nảy sinh từ vấn đề định nghĩa
đảo nhân tạo. Nhưng mặt khác, những kẽ hở còn lại trong Công ước Luật Biển vẫn
làm phức tạp vấn đề liên quan đến quy chế pháp lý của đảo nhân tạo [32].
1.2. Khái niệm “đảo nhân tạo” trong Luật quốc tế
Mặc dù chủ đề chính của đề tài luận văn này là công trình nhân tạo nhưng
chúng ta vẫn đi sâu tìm hiểu về khái niệm đảo nhân tạo (artificial islands). Bởi lẽ
hai khái niệm này có sự liên hệ mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp, “đảo
nhân tạo” và “công trình nhân tạo” là cùng tồn tại hoặc được coi là một. Tuy nhiên,
chúng có bản chất và mục đích hoàn toàn không đồng nhất. Vì thế, chúng có thể
được sử dụng nhằm phục vụ cho những mục đích khác nhau.
Có rất ít văn bản trong luật quốc tế giải thích rõ về đảo nhân tạo. Dường như
vấn đề liên quan tới đảo nhân tạo đã bị lãng quên khi Công ước Luật biển năm 1982
được thông qua. Trước đó tại hội nghị Giơnevơ 1958 các nước đã đưa ra được một
định nghĩa thống nhất về đảo, theo đó: “Đảo là một vùng đất hình thành tự nhiên có
nước bao bọc, khi thuỷ triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. “Sự hình thành
tự nhiên” là nội dung mới được bổ sung vào định nghĩa đảo trong Công ước 1958
về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp. Yếu tố này đưa ra nhằm phân biệt đảo tự nhiên với
đảo nhân tạo, hạn chế trường hợp những quốc gia có khoa học kỹ thuật phát triển
xây dựng các đảo nhân tạo để thực hiện tham vọng lấn chiếm biển của mình.
Đến những thập niên 1970, 1980 đã có những bài báo, sách viết về lĩnh vực
này, thậm chí trong Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS
III), một số quốc gia cũng đã đệ trình đề xuất liên quan tới đảo nhân tạo [9] nhưng

9
Footer Page 15 of 126.



Header Page 16 of 126.

văn bản cuối cùng của UNCLOS chỉ định nghĩa đảo tại Điều 121 “là một vùng đất
tự nhiên có nước bao bọc, khi thuỷ triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước” mà
không định nghĩa đảo nhân tạo. Việc thiếu vắng định nghĩa về đảo nhân tạo trong
UNCLOS đã làm cho việc giải thích và áp dụng quy chế pháp lý của đảo nhân tạo
trên thực tế chưa có sự thống nhất.
Theo Bách khoa toàn thư về Công pháp quốc tế, “đảo nhân tạo là một nền
tảng cố định vĩnh viễn hoặc tạm thời do con người tạo nên, bao quanh là nước và
nổi trên mặt nước khi thuỷ triều lên” [15]. Theo tác giả Soons, “đảo nhân tạo là
những cấu trúc được tạo ra bằng cách đặt/đổ lên lên các vật chất tự nhiên như
sỏi, cát và đá; trong khi đó các công trình nhân tạo lại là những cấu trúc bê
tông cố định gắn với đáy biển bằng ống dẫn và các cọc” [15]. Theo Robert
Beckman, “đảo nhân tạo là các thực thể nổi trên biển khi thuỷ triều lên cao do
các hoạt động cải tạo đất hoặc các hoạt động nhân tạo khác…”[15]. Theo
Cordula Fitzpatrick, “đảo nhân tạo do con người tạo ra, được bao bọc bởi nước
ở mọi hướng, trên mực nước lúc thuỷ triều lên cao nhất và cuối cùng chúng được
xây dựng cố định tại một vị trí địa lý nhất định nào đó trong một khoảng thời
gian xác định tồn tại ở trạng thái hoạt động bình thường trên biển” [15]. Tác giả
Ngô Hữu Phước cho rằng “các định nghĩa nói trên chưa phản ánh toàn diện các vấn
đề kỹ thuật pháp lý và tính pháp lý của đảo nhân tạo”. Ông định nghĩa:
Đảo nhân tạo là công trình do con người xây dựng cố định, vĩnh viễn
trên nền của đáy biển bằng các vật liệu tự nhiên như đất, đá, cát hoặc bê
tông, được bao quanh bởi nước và nổi trên biển khi thuỷ triều lên cao để
khẳng định hoặc yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
của quốc gia trên biển... [15].
Như vậy, khác với các công trình nhân tạo khác như nhà giàn; giàn khoan
dầu, khí; hệ thống cáp ngầm, ống dẫn ngầm trên biển, đảo nhân tạo là công trình
xây dựng cố định, vĩnh cửu, thường xuyên nhô trên mặt nước biển và không thể di
dời dịch chuyển được.


10
Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

Theo pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật Biển Việt Nam 2012, khái niệm
“đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển” được định nghĩa bao gồm: (i) các giàn
khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác bảo đảm hoạt động bình
thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết bị chuyên dùng để thăm dò,
khai thác và sử dụng biển; (ii) các loại báo hiệu hàng hải và (iii) các thiết bị, công
trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, đảo
nhân tạo và thiết bị, công trình nhân tạo được định nghĩa mà không có sự tách bạch
cụ thể. Trong các quy định vừa nêu trên, chúng được phân loại căn cứ vào mục đích
sử dụng của nó.
Hiện nay có ba loại đảo và các công trình nhân tạo tồn tại trong vùng biển
Đông và mỗi loại có những đặc điểm pháp lý khác nhau. Thứ nhất, chúng bao gồm
các thiết lập nhân tạo nổi có tính chất tạm thời (temporary artificial installation),
bao gồm các dàn khoan dầu khí (oil plattfom) tại đây, những thiết lập này khi không
còn hoạt động nữa sẽ được tháo dỡ và loại bỏ. Thứ hai, chúng bao gồm các thiết lập
và cấu trúc nhân tạo gắn kết tạm thời hoặc vĩnh viễn với đảo tự nhiên (artificial
installation and structures appended to natural islands) như đường băng, các cảng
biển và căn cứ quân sự, hậu cần kỹ thuật… Hai loại này về cơ bản sẽ được điều
chỉnh bằng các quy định tương ứng trong UNCLOS 1982. Loại thứ ba là các đảo
nhân tạo được xây dựng dựa trên các loại đá tự nhiên, các thực thể nhỏ, bãi cạn và
các rạn san hô vĩnh cửu. Đây là một loại thực thể trên biển có sự kết hợp giữa thực
thể tự nhiên và thực thể nhân tạo [9]. Do vậy, chúng có thể được sử dụng để thay
đổi bản chất pháp lý của một thực thể đang tồn tại từ dạng khác nhằm phục vụ
những ý đồ khác nhau, chẳng hạn như phục vụ cho yêu sách về lãnh thổ. Điển hình

là hành động từ năm 1988 đến nay, Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng trái
phép một số rạn san hô ở Trường Sa nhằm mục đích đóng căn cứ quân sự hoặc các
mục đích khác. Nước này đã xây dựng các công trình nhân tạo trên các rạn san hô
hay cải tạo chúng thành các đảo nhân tạo như Gạc Ma, Chữ Thập, Tư Nghĩa, Châu
Viên, Gaven, Vành Khăn, Subi. Có thể thấy rằng các điều khoản liên quan của
UNCLOS 1982 có thể áp dụng đối với hai loại đầu tiên, thì tình trạng pháp lý của

11
Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

loại thứ ba lại đặc biệt và khó xác định theo UNCLOS nói riêng và các quy phạm
pháp luật quốc tế nói chung. Bởi lẽ đối với nhiều đảo, do có các thiết bị nhân tạo
nên rất khó phân biệt cái nào là đảo tự nhiên và cái nào là đảo nhân tạo? Nếu coi đó
là một đảo tự nhiên thì nó lại xen lẫn với các thiết lập và cấu trúc nhân tạo; nếu coi
đó là một đảo nhân tạo thì nó lại không được con người gắn kết cố định với đáy
biển mà lại được hỗ trợ bởi một nền tự nhiên như một rạn san hô dù ở trên nước hay
không khi thuỷ triều lên. Vấn đề đặt ra hiện nay chưa có điều khoản nào trong luật
pháp quốc tế điều chỉnh trực tiếp vấn đề này. Công ước về Thềm lục địa 1958 có
điều khoản chỉ liên quan đến việc xây dựng đảo nhân tạo trên thềm lục địa vì nó
quy định rằng các quốc gia ven biển được quyền xây dựng và duy trì hoặc hoạt
động trên các thiết lập trên thềm lục địa và các thiết bị khác cần thiết cho việc thăm
dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng những thiết lập nhân tạo và thiết lập
như vậy không có địa vị của đảo. Cũng có thể nói rằng, việc xây dựng các đảo nhân
tạo và các công trình nhân tạo là không trái với Công ước Luật Biển 1982. Tuy
nhiên điều đó chỉ đúng trong trường hợp hành động được thực hiện bởi quốc gia có
chủ quyền được công nhận đối với những thực thể này. Trái lại, với hành động của
quốc gia xây dựng các công trình nhân tạo đó trên các thực thể chiếm cứ bằng vũ

lực hay cưỡng đoạt trái phép thì đó là hành động đáng lên án. Một quốc gia không
thể tự ý cải tạo các bãi cạn theo cách như vậy nhằm xây dựng các đảo nhân tạo hay
các công trình nhân tạo trên chúng nếu không có sự cho phép của quốc gia ven biển,
đồng thời chịu sự tài phán của quốc gia này.
Trên thực tiễn, loại thứ ba cũng đã từng được đề cập trong phán quyết của Toà
án công lý quốc tế ICJ trong vụ giải quyết tranh chấp giữa Qatar và Bahrain về phân
định biển và các vấn đề lãnh thổ năm 2011. Theo thẩm phán Shigeru Oda thì với các
công nghệ hiện đại, việc phát triển các đảo nhỏ và bãi cạn có thể làm nền móng cho các
công trình trong tương lai. Gần đây nhất hòn đảo san hô Okinotoroshima của Nhật Bản
(Rạn san hô Douglas) nằm ở cực Nam lãnh thổ Nhật Bản. Do bị nước biển làm xói
mòn, bề mặt của rạn san hô này trên mặt nước khi thuỷ triều lên đã dần bị rút xuống
và hạ thấp đi. Khi thuỷ triều lên chỉ có thể thấy 16cm của hòn Bắc (Kitakojima) và

12
Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

6cm của hòn Đông (Higashikojima) – hai bãi đá của rạn san hô này – nổi trên mặt
nước. Dưới tác động của tự nhiên, rạn san hô này sẽ bị nước biển nuốt hoàn toàn.
Do đó, kể từ năm 1977, Nhật Bản đã đầu tư một khoản tiền lớn (khoảng 300 triệu
USD) để củng cố và bồi đắp các rạn san hô làm cơ sở để đòi hỏi thêm các vùng
nước thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. Nhật Bản đã xây dựng
một bức tường xung quanh, bao bọc rạn san hô để bảo vệ chúng không bị biến mất
dưới tác động của tự nhiên. Nhật Bản đang nghiêm túc nỗ lực xây dựng
Okinotoroshima thành một đảo nhân tạo lớn. Theo báo cáo, nếu thành công, Nhật
Bản có thể đòi hỏi một vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 400.000km2 và thềm
lục địa rộng khoảng 740.000km2 xung quanh rạn san hô.
1.3. Sự liên hệ giữa đảo nhân tạo và công trình nhân tạo

Theo quan điểm của các chuyên gia, đảo nhân tạo và công trình nhân tạo là
hai khái niệm có sự liên hệ mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp, “đảo nhân
tạo” và “công trình nhân tạo” cùng tồn tại hoặc được coi là một. Thông thường,
khái niệm xây dựng các đảo nhân tạo sẽ bao hàm việc xây dựng các công trình nhân
tạo trên đó hoặc ngược lại, việc xây dựng các công trình nhân tạo trên một thực thể
thường được hiểu đồng nghĩa với việc xây dựng đảo nhân tạo theo nghĩa rộng.
Thứ nhất, nếu bản thân các công trình nhân tạo đóng vai trò như một “đảo
nhân tạo” tức là có sự gắn bó vật chất với đáy biển và có đầy đủ các tiêu chuẩn cần
thiết của một đảo như có nước bao quanh, thường xuyên nhô lên khỏi mặt nước khi
nước thuỷ triều lên cao nhất. Thì trong trường hợp này hai khái niệm đảo nhân tạo
và công trình nhân tạo là một và có thể thay thế cho nhau [11].
Thứ hai, nếu chúng được xây dựng và lắp đặt đồng thời, hoặc sau đó, với
một đảo nhân tạo. Trong trường hợp này, hai khái niệm được hiểu không hoàn toàn
đồng nhất. Vấn đề đặt ra là trong trường hợp một quốc gia tiến hành hoạt động cải
tạo đất (land reclamation) và xây dựng những công trình trên đó thì điều này có thể
làm thay đổi bản chất pháp lý của các bãi cạn này hay không? Trong trường hợp
này, thứ nhất, các bãi cạn lúc nổi lúc chìm này có thể tiếp tục là một bãi cạn lúc nổi
lúc chìm, tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 7, trong trường hợp trên đó có những đèn

13
Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.

biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô lên trên mặt nước hoặc việc vạch
các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế thì chúng có thể
được sử dụng làm một điểm để xác định đường cơ sở. Thứ hai, chúng có thể trở
thành một đảo nhân tạo (artificial islands), trong trường hợp này chúng không có
quyền thiết lập bất kỳ vùng biển nào xung quanh đó [11].

Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất đảo nhân tạo, công trình nhân tạo
đều là các cấu trúc do con người tạo ra. So với đảo tự nhiên, cấu trúc nhân tạo thỏa
mãn tất cả các yếu tố cấu thành trừ yếu tố “sự hình thành tự nhiên”. Chỉ có một yếu
tố khác biệt duy nhất song các cấu trúc nhân tạo này không được các Công ước
dành cho quy chế pháp lý của đảo bởi việc áp dụng quy chế dẫn tới nhiều hệ quả
khác nhau. Trước hết, các cấu trúc này do con người tạo ra nên có kích thước rộng
hay hẹp, số lượng ít hay nhiều tùy thuộc vào ý chí của quốc gia ven biển. Điều này
có nghĩa là các quốc gia có tiềm lực kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật cao sẽ có
thể xây dựng nhiều cấu trúc nhân tạo, từ đó mà xác lập các vùng biển rộng lớn; nó
làm xuất hiện tình trạng bất bình đẳng. Mặt khác, sự hiện diện của các cấu trúc nhân
tạo nhân tạo, với số lượng lớn trên khắp đại dương, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các
luồng hàng hải quốc tế và việc bảo đảm an toàn cho các phương tiện trên biển. Với
những hệ quả trên mà các cấu trúc nhân tạo không những không được hưởng quy
chế pháp lý của đảo tự nhiên mà Công ước Luật Biển 1982 còn quy định rất chặt
chẽ các tiêu chuẩn an toàn trong quá trình xây dựng, hoạt động và ngay cả khi tháo
dỡ các cấu trúc này.
1.4. Lịch sử phát triển của các chế định về công trình nhân tạo trong
luật quốc tế
Cuối thế kỷ thứ 15, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai quốc gia hùng mạnh
nhất ở Châu Âu kể từ khi họ đạt được những thành tựu xuất sắc trong công nghệ và
bắt đầu từ từ chinh phục những vùng đất mới, đồng thời xây dựng đế chế cho riêng
mình. Nhưng những sự nỗ lực để đạt được quyền lực tuyệt đối không tránh khỏi dẫn
đến xung đột giữa hai quốc gia này về sự thống trị thuộc địa của các đại dương. Tự
do hàng hải rất quan trọng vào thời điểm đó, không chỉ để có được và chinh phục,

14
Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.


mà còn để các quốc gia duy trì quyền lực. Trước sự cạnh tranh này, Đức Giáo
Hoàng Alexander VI đã chia Đại Tây Dương thành khu riêng biệt cho hai đế quốc
quyền lực. Năm 1943, những thay đổi trong mối quan hệ giữa các quốc gia về việc
chia sẻ các đại dương trên thế giới đã đưa đến sự cần thiết cho các sắc lệnh đầu tiên
để chi phối việc sử dụng không gian biển quốc tế. Các hoạch định ranh giới các
vùng biển như chúng ta biết ngày nay đã được xác định rất nhiều bởi những bước
đầu tiên hướng đến điều tiết các vùng biển đó.
Vào đầu thế kỷ thứ 16, với những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ, quyền
lực đã được chuyển từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sang các lực lượng hải quân
của Hà Lan và Anh. Sức mạnh to lớn trên biển của hải quân Anh đã được thiết lập
vững chắc vào năm 1588, sau thất bại của hạm đội Tây Ban Nha ở eo biển Anh.
Cùng thời gian đó, pháp luật được áp đặt bởi Đức Giáo Hoàng Alexander VI đã
không còn được áp dụng. Đó cũng là lúc mà thời đại của “tự do trên biển” như chủ
trương của Grotius đưa ra cùng với nó là một ý tưởng chung của biển như là vô tận
trong tự nhiên và mở cửa cho việc sử dụng của tất cả các nước. Một quan điểm của
hệ quả tất yếu đã phát triển cùng với sự tự do trên biển là khái niệm mà một quốc
gia ven biển có thể áp dụng một cách đặc biệt quyền thực thi pháp luật trong vùng
nước tiếp giáp với bờ biển của họ. Đây là nguyên tắc đã được phát triển thành khái
niệm hiên đại của lãnh hãi. Tư tưởng này được các quốc gia tư bản mới hoan
nghênh vì nó tạo sức cạnh tranh với sự phân chia trên, tạo điều kiện cho các quốc
gia hàng hải khác như Hà Lan, Anh... phát triển. Năm 1635, luật gia người Anh John Selden khẳng định quyền của vua Anh thực hiện chủ quyền trên các vùng biển
bao quanh nước Anh. Tuy nhiên, nguyên tắc tự do trên biển đã thắng thế. Kể từ đây,
những hội nghị soạn thảo luật liên tiếp diễn ra…
1.4.1. Hội nghị pháp điển hoá luật pháp quốc tế La Haye 1930
Dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, một hội nghị cho việc soạn thảo luật
quốc tế đã diễn ra ở Hague vào năm 1930. Hội nghi Pha
̣ ́ p điể n hóa Lu ật quố c tế
La Hay 1930 là diễn đàn đầu ti ên chin
̣ nghiã đảo và các

́ h thức thảo lu ận về đinh
điề u ki ện để đảo có thể ta ̣o ra lañ h hải . Dự thảo này đã được Ủy ban II thông qua

15
Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

rằng “đảo là m ột vùng đất có n ước bao bọc xung quanh , khi thủy triề u l ên vùng
đấ t này vẫn ở tr ên mặt nước”. Đây là đinh
̣ nghiã còn khá s ư lược, chủ yếu dựa
trên các ti êu chí mang tính khách quan ; gầ n với đinh
̣ nghiã theo nghiã điạ lý tự
nhiên với ba yế u tố cấ u thành : là m ột vùng đấ t , có n ước bao bọc xung quanh và
thường xuyên ở trên mặt nước.
Tại Hội nghị này, một số nước như Pháp, Đức đề nghị dành cho cấu trúc
nhân tạo quy chế đảo. Hội nghị đã không chấp nhận đề nghị này và không dành quy
chế đảo cho các đảo nhân tạo. Tuy vậy, Hội nghị cũng không loại đảo nhân tạo ra
khỏi định nghĩa về đảo. Nhìn chung, trong Hội nghị La Hay 1930, định nghĩa đảo
không dành được nhiều sự quan tâm của các quốc gia và kết quả cuối cùng của Họi
nghị cũng chưa thống nhất được định nghĩa đảo.
Báo cáo của Uỷ ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc năm 1954 còn đề
nghị các bãi cạn nửa chìm nửa nổi có nhà cửa xây dựng ở trên cũng được hưởng
quy chế đảo. Đề nghị này không được thông qua, nhưng các thành viên của Uỷ ban
cũng không ủng hộ việc đòi hỏi đảo nhất thiết phải là vùng đất tự nhiên. Uỷ ban đã
thông qua đề nghị của ông S.H.Lauterpacht rằng: “đảo phải thường xuyên ở trên
mức nước cao trong các hoàn cảnh bình thường” [2].
Cũng tại hội nghị này, lần đầu tiên thuật ngữ “thích hợp cho con người đến
ở” được đưa ra. Đã có một số ý kiến cho rằng nên sử dụng tiêu chuẩn “thích hợp

cho con người đến ở” để phân biệt một đảo thực sự với đảo nhân tạo. Tại Hội nghị,
Anh cho rằng một đảo muốn có lãnh hải thì không chỉ phải có thể ở được mà còn
“có thể sử dụng được”. Tuy vậy, Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này của Anh.
Tại hội nghị, nhiều luật gia đã đưa ra nhận định của mình và cho rằng bản
chất của một hòn đảo chưa được xây dựng một cách đầy đủ tại hội nghị. Trong số
này, luật gia nổi tiếng Gidel không chấp nhận định nghĩa của Uỷ Ban về việc không
có sự phân biệt giữa các hòn đảo tự nhiên và đảo nhân tạo nên ông đã tự đề nghị
khái niệm riêng của mình. Ông cho rằng:
Đảo nhân tạo có thể được coi là đảo tự nhiên miễn là chúng thỏa
mãn các điều kiện sau: bao quanh là nước, vĩnh viễn nổi trên mặt biển

16
Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.

khi thủy triều lên và là nơi có đủ điều kiện tự nhiên có thể cho phép con
người sinh sống. Ngoài ra, đảo nhân tạo còn phải là các đảo được hình
thành theo công thức tự nhiên như các lớp bồi tích với sự trợ giúp của
con người. Một hòn đảo tự nhiên có thể được đồng hóa với các đảo nhân
tạo miễn là chúng có đầy đủ các điều kiện tương tự. Những điều kiện này
bao gồm những trường hợp mà ở đó sự hình thành các đảo đã được xảy
ra thông qua các biến động của các hiện tượng tự nhiên hoặc đã được
thúc đẩy bởi phương tiện lao động của con người [24].
Từ đây, sau khi cân nhắc các yếu tố lịch sử, một câu hỏi được đặt ra là liệu
có thể tái định nghĩa về “đảo” để bao hàm cả đảo nhân tạo, đặc biệt là những đảo
mà phần nhân tạo đã gắn kết chặt chẽ với phần tự nhiên?
Đến năm 1945, Hội Quốc Liên đã được thay thế bởi Liên hợp quốc và Uỷ
ban pháp luật quốc tế (ILC) được thành lập từ đó. Năm 1956, ILC công bố một bản

báo cáo trong đó bao gồm tất cả các khía cạnh có ý nghĩa với luật biển. Đây chính
là tiền đề cho hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển được tổ chức tại Geneva vào
năm 1958 (UNCLOS I).
1.4.2. UNCLOS I và II
Hội nghị Lần thứ nhất của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1958 tại Geneva
đã cho ra đời bốn công ước: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải; Công
ước về biển cả; Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả;
Công ước về thềm lục địa. Các công ước này đã pháp điển hoá rất nhiều các nguyên
tắc, tập quán và đã đưa ra nhiều khái niệm mới (như thềm lục địa). Nhưng công ước
này lại thất bại trong việc thống nhất bề rộng lãnh hải (các quốc gia yêu sách tới năm
loại bề rộng lãnh hải khác nhau) và trong việc xác định ranh giới của thềm lục địa.
Năm 1954, trong dự thảo Điều 11 về định nghĩa đảo của Báo cáo viên đặc
biệt của Uỷ ban Luật pháp quốc tế, đảo được định nghĩa là “một vùng đất có nước
bao quanh và thường xuyên ở trên mức nước cao”. Trong khoá họp tiếp theo của
Uỷ ban, Báo cao viên đã đề nghị đưa cụm từ “trong hoàn cảnh bình thường” vào
trước cụm từ “thường xuyên ở trên mặt nước khi thuỷ triều lên”. Có 9 phiếu của Uỷ

17
Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

ban Luật pháp quốc tế đã ủng hộ đề nghị trên. Tuy vậy, đoàn Mỹ có ý kiến cho rằng
các yêu đảo phải ở trên mức nước cao “trong hoàn cảnh bình thường” và “thường
xuyên” rất mâu thuẫn nhau; rằng không có cái gọi là thuỷ triều bình thường và bất
thường. Vì vậy, họ đề nghị trong định nghĩa đảo nên bỏ các cụm từ “trong hoàn
cảnh bình thường” và “thường xuyên” đi mà chỉ nêu đơn giản là: đảo là một vùng
đất hình thành tự nhiên, có nước bao bọc và ở trên mặt biển khi thuỷ triều lên. Dự
thảo định nghĩa đảo này của đoàn Mỹ đã được Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật

Biển lần I chấp nhận và coi đó như một tiêu chuẩn để được gọi là “đảo” rằng đó “là
một vùng đất hình thành một cách tự nhiên có nước bao bọc, khi thuỷ triều lên vùng
đất này vẫn ở trên mặt nước” và đã được các quốc gia chấp thuận đồng thời coi đó
như một tiêu chuẩn để xác định quy chế đảo và ghi nhận chính thức trong Điều 10
của Công ước 1958 về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp [2].
Tại hội nghị cụm từ “sự hình thành tự nhiên” là nội dung mới được bổ sung
vào định nghĩa đảo trong Công ước 1958. Yếu tố này đưa ra nhằm phân biệt đảo tự
nhiên với đảo nhân tạo, hạn chế trường hợp những quốc gia có khoa học kỹ thuật
phát triển xây dựng các đảo nhân tạo để thực hiện tham vọng lấn chiếm biển của
mình. Cũng tại đây, tiêu chuẩn đảo phải “… có nước bao bọc xung quanh, khi thuỷ
triều lên vẫn ở trên mặt nước” cũng là một trong các tiêu chuẩn để xác định quy
chế của một đảo. Như vậy nếu gắn liền với một bán đảo khi thuỷ triều xuống thấp
nhất thì một cấu tạo tự nhiên trên biển sẽ mất đi quy chế đảo. Trong các trường hợp
nêu trên, các cấu tạo tự nhiên đó chỉ được coi là bán đảo – một bộ phận của bờ biển.
Theo Điều 11 Công ước 1958 về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp, những bãi cạn lúc
chìm lúc nổi không có quy chế đảo. Các công trình nhân tạo cũng không được
hưởng quy chế đảo dù rằng chúng có nước biển bao bọc xung quanh [2].
Như thế, Công ước 1958 về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp đã dùng tiêu chuẩn
“khi thuỷ triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước” để phân biệt với những cấu
tạo tự nhiên nào được hưởng quy chế đảo và những cấu tạo nào không được hưởng
quy chế này. Điều 11 của Công ước dành cho các cấu tạo tự nhiên nửa chìm nửa nổi
một quy chế pháp lý hạn chế. Nếu các cấu tạo tự nhiên ở dưới mực nước khi thuỷ

18
Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

triều lên cao nhất và ở trên mặt nước lúc thuỷ triều thấp nhất, nằm hoàn toàn hay

từng phần không vượt quá chiều rộng của lãnh hải của đất liền hoặc một đảo thì
đường ngấn nước thuỷ triều thấp nhất sẽ được sử dụng để đo chiều rộng của lãnh
hải (Điều 11.1). Trong trường hợp này, các cấu trúc tự nhiên nửa nổi nửa chìm sẽ có
tác dụng mở rộng vùng lãnh hải của đảo. Trong trường hợp cấu trúc tự nhiên đó
nằm xa hoàn toàn bờ biển một khoảng cách rộng hơn lãnh hải thì nó sẽ không có
các vùng biển riêng [2].
Tuy nhiên tại Hội nghị Lần thứ nhất của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1958
(UNCLOS I) vẫn không đạt được thoả thuận nào liên quan đến việc hình thành chiều
rộng của lãnh hải, một vấn đề mà từ lâu đã được yêu cầu giải quyết. Điều đó là đã dẫn
đến mục đích mà Hội nghị liên hợp quốc về luật biển năm 1960 (UNCLOS II) thành
lập và đưa ra thảo luận. Tuy nhiên thỏa thuận cuối cùng về chiều rộng của lãnh
hải phải chờ đến Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS III)
mới được thông qua.
1.4.3. UNCLOS III
Trong năm 1971, các cuộc thảo luận dẫn đến sự hình thành của Công ước
Luật biển bắt đầu. Tại phiên họp đầu tiên của Uỷ ban Đáy đại dương đã thảo luận
về các vấn đề “thẩm quyền đối với các đảo nhân tạo và công trình nhân tạo trên
biển”, “thiết bị cố định hoặc di động”, “hoạt động của các đảo nhân tạo, các công
trình nhân tạo như bến cảng nổi và các thiết lập khác”.
Tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển lần III, chủ yếu đề cấp đến
việc một quốc gia ven biển có thể uỷ quyền việc xây dựng một hòn đảo nhân tạo
trên thềm lục địa cho tất cả các mục đích ngoại trừ việc thăm dò và khai thác tài
nguyên thiên nhiên; các hòn đảo nhân tạo phải được bao quanh bởi khu vực an toàn
rộng không quá 500m và các đảo nhân tạo này không có lãnh hải của riêng mình…
Về cơ bản đại diện của các quốc gia cho rằng định nghĩa đảo trong Công ước Luật
Biển mới nên kế thừa định nghĩa đảo của Công ước 1958 về Lãnh hải và Vùng tiếp
giáp. Bên cạnh đó, định nghĩa trong Công ước mới cũng phải phản ánh được những
phát triển mới như sự hình thành khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và xác định rõ

19

Footer Page 25 of 126.


×