Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 62 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V THANH TNG

TRáCH NHIệM HìNH Sự ĐốI VớI TộI
LừA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V THANH TNG

TRáCH NHIệM HìNH Sự ĐốI VớI TộI
LừA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. HONG VN HNG

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Vũ Thanh Tùng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ............. 8
1.1.

Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cưỡng chế và trách
nhiệm hình sự trong một số trường hợp đặc biệt............................... 8


1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cƣỡng chế của trách
nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự trong một số trƣờng hợp
đặc biệt................................................................................................. 8

1.1.2.

Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, hình thức của trách nhiệm hình sự
và trách nhiệm hình sự trong một số trƣờng hợp đặc biệt đối với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................ 19

1.2.

Cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản ............................................................................ 24

1.3.

Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong luật hình sự một số nước ...................................................... 40

1.3.1.

Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa .................. 40

1.3.2.

Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong

Bộ luật hình sự Thụy Điển .................................................................. 43


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 49
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TNHS ĐỐI
VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (TỪ SỐ LIỆU
THỰC TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI) VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC ÁP DỤNG TNHS ĐỐI VỚI
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢNError! Bookmark not defined.
2.1.

Thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (trên cơ sở thực tiễn địa bàn
thành phố Hà Nội)............................. Error! Bookmark not defined.

2.1.1.

Thực tiễn định tội danh đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sảnError! Bookmar

2.1.2.

Thực tiễn áp dụng các biện pháp cƣỡng chế của TNHS đối với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............ Error! Bookmark not defined.

2.2.

Những hạn chế trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .. Error! Bookmark not defined.


2.2.1.

Hạn chế trong định tội danh .............. Error! Bookmark not defined.

2.2.2.

Hạn chế trong quyết định hình phạt .. Error! Bookmark not defined.

2.2.3.

Hạn chế trong áp dụng các biện pháp tƣ phápError! Bookmark not defined.

2.3.

Những biện pháp khắc phục những hạn chế trong quy định
về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong Bộ luật hình sự Việt Nam ..... Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN CHUNG ................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 52
PHỤ LỤC ....................................................... Error! Bookmark not defined.



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

CHND:


Cộng hòa nhân dân

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

THTT:

Tiến hành tố tụng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong pháp luật hình sự, việc xác định Trách nhiệm hình sự của một tội
phạm hay một nhóm tội phạm là rất quan trọng bởi trách nhiệm hình sự là
một trong những chế định cơ bản và quan trọng của Luật hình sự Việt Nam.
Tính chất và mức độ thể hiện của các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự Việt
Nam nhƣ pháp chế, nhân đạo, dân chủ xã hội chủ nghĩa phụ thuộc chủ yếu
vào việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự. Việc xác định đúng trách
nhiệm hình sự cho một loại tội phạm là kết quả phản ánh chính xác hiệu quả
của nhà làm luật cũng nhƣ phát huy đƣợc tác dụng răn đe của pháp luật hình

sự trong việc phòng chống tội phạm. Đối với các loại tội phạm xâm phạm sở
hữu thì trách nhiệm hình sự đƣợc quy định có nhiều mức độ khác nhau. Hình
phạt thấp nhất là cải tạo không giam giữ và cao nhất là tử hình. Trong đó, tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản đƣợc quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự nƣớc
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1999 có năm khung hình phạt và
mức cao nhất là chung thân (Bộ Luật Hình Sự của Nƣớc Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam Số 15/1999/QH10 Sửa đổi bổ sung 2009/QH12 Ngày
19/6/2009 đã bỏ hình phạt tử hình).
Hà Nội là một trong hai trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất của cả nƣớc,
là nơi diễn các hoạt động kinh tế lớn, dân cƣ từ các tỉnh thành di chuyển và
tập trung sinh sống, học tập tại Hà Nội chiếm tỷ lệ cao, vì vậy nhu cầu xã hội
về mọi mặt tại Hà Nội là rất lớn. Trong những năm qua, loại tội phạm Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản tại Hà Nội diễn biến theo chiều hƣớng gia tăng và
thƣờng xuyên với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Từ hành vi phạm tội, chủ
thể thực hiện tội phạm đến các đối tƣợng bị xâm hại đều rất đa dạng, phong
phú. Các đối tƣợng phạm tội thƣờng lợi dụng những sơ hở phát sinh trong nền

1


kinh tế thị trƣờng, lợi dụng lòng tin, nhu cầu xã hội và thông qua các giao
dịch dân sự, quan hệ kinh tế…. để thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả có vụ
gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, làm ảnh hƣởng đến nền kinh tế thị
trƣờng, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng của nhà nƣớc, các tổ chức, các nhân,
nhiều doanh nghiệp đứng trƣớc nguy cơ phá sản, gây mất trật tự an ninh và
làm hoang mang tâm lý của ngƣời dân
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các quy định về trách nhiệm hình sự đối
với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” còn chƣa hợp lý, chƣa phù hợp với tình
hình tội phạm thực tế, việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối
với loại tội này trên cả nƣớc nói chung và Hà Nội nói riêng còn gặp nhiều khó

khăn, dẫn đến việc phòng chống loại tội phạm này ở nƣớc ta và Hà Nội chƣa
đƣợc nâng cao, chƣa đủ tính răn đe. Bởi vậy, tác giả quyết định chọn đề tài
“Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Luật hình sự
Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)” làm đề tài tốt
nghiệp cao học Luật. Việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý
luận và thực tiễn về Trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trên
địa bàn thành phố Hà Nội đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ
quan tiến hành tố tụng là việc làm hết sức cần thiết. Từ đó, có thể đƣa ra các
giải pháp hoàn thiện về kỹ thuật lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự về tội “lừa đảo chiếm đoạt
tài sản” là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần nâng
cao chất lƣợng giải quyết vụ án hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm hình sự là một vấn đề đƣợc nhiều nhà khoa học quan
tâm, nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau. Ở nƣớc ta tính đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu về TNHS đƣợc công bố, đáng chú ý là các công

2


trình nhƣ: Trách nhiệm hình sự và hình phạt do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
(2001) chủ biên, NXB. CAND, Hà Nội; Trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự của các tác giả GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), TS. Phạm
Mạnh Hùng, TS. Trịnh Tiến Việt (2005), NXB. Tƣ Pháp, Hà Nội; Tội phạm
và TNHS của tác giả TS. Trịnh Tiến Việt (2013), NXB. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội; Luận án tiến sĩ Chế định TNHS theo luật hình sự Việt Nam của tác
giả Phạm Mạnh Hùng, bảo vệ tại Trƣờng đại học Luật Hà Nội năm 2004; Về
TNHS của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt của GS.TSKH.
Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 4/2012; Chế định miễn TNHS trong luật hình

sự Việt Nam của tác giả PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, tạp chí Khoa học, số
4/2017; Về chế định miễn TNHS trong BLHS năm 1999 của PGS.TS. Phạm
Hồng Hải, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2001; Chương 12: Trách
nhiệm hình sự và hình phạt, giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập I) của
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2015… Trong đó, luận án tiến sĩ Chế định
TNHS theo luật hình sự Việt Nam của tác giả Phạm Mạnh Hùng, bảo vệ tại
Trƣờng đại học Luật Hà Nội năm 2004 là một công trình nghiên cứu về vấn
đề trách nhiệm hình sự khá đầy đủ, toàn diện.
Các nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu trong đó có tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản đáng chú ý nhƣ: Định tội danh đối với các tội xâm phạm
sở hữu của TS. Lê Đăng Doanh (2013), NXB. Tƣ pháp, Hà Nội, trong đó,
tác giả phân tích các dấu hiệu đặc trƣng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
đồng thời phân tích các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên thực tế mà còn
có nhiều ý kiến về vấn đề định tội danh, qua đó đƣa ra quan điểm của cá
nhân đối với từng vụ việc; Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
tài sản, PGS.TS. Cao Thị Oanh (2015), NXB. Tƣ Pháp, Hà Nội, trong đó,
tác giả đã đƣa ra một số vấn đề vƣớng mắc về thực tiễn định tội danh, định
khung hình phạt và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

3


sản dựa trên kết quả khảo sát 100 bản án về tội lùa đảo chiếm đoạt tài sản
trên cả nƣớc, đồng thừi kiến nghị các giải pháp khắc phục cụ thể; Bình luận
khoa học BLHS Việt Nam năm 1999 của tác giả Nguyễn Mai Bộ (2001),
NXB. CAND, Hà Nội; Cần xác định hành vi chiếm đoạt trong trường hợp
không có khả năng trả nợ của tác giả Đinh Văn Quế, tạp chí Tòa án nhân
dân, số 12/1995; Bàn về yếu tố chiếm đoạt tài sản trong các tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản của tác giả Nguyễn
Thị Phƣơng Thảo, tạp chí Kiểm sát, số 9, tháng 5/2012; Các tội xâm phạm

sở hữu trong BLHS năm 1999 của tác giả Trƣơng Quang Vinh, tạp chí Luật
học, số 4/2000; Thực trạng tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
sử dụng công nghệ cao và một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội
phạm này ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO của tác giả Lê Đăng
Doanh; các luận văn, luận án nhƣ: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những
vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ, Trần Thị Phƣơng Hiền, 2007;
Đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí
Minh, luận văn thạc sĩ; Đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ở Việt Nam, luận án tiến sĩ, Lê Đăng Doanh, 2008; Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên
địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn thạc sĩ, Nguyễn Tiến Dũng, 2014…
Các công trình này nghiên cứu vấn đề TNHS và về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản một cách độc lập trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng
chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và cụ thể về “Trách
nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật
hình sự” với tƣ cách là một đề tài độc lập, chuyên biệt. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu về đề tài này là cần thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
luận văn
Mục đích, yêu cầu: làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề
4


lý luận và thực tiễn các quy định và việc áp dụng các quy định về trách nhiệm
hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự
để từ đó tìm ra những điểm còn tồn tại, bất cập và đề xuất một số giải pháp
góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên quan đến trách nhiệm hình sự
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó nâng cao hiệu qua áp dụng nó trong
thực tiễn và góp phần nâng cao chất lƣợng giải quyết các vụ án hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự và
trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm về xâm phạm sở hữu;
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản;
+ Đánh giá các quy định hiện hành về trách nhiệm hình sự đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đƣa ra những ƣu điểm và nhƣợc điểm trong các
quy định này;
+ Đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự ở Việt Nam;
+ Đƣa ra giải pháp hoàn thiện các quy định của Luật hình sự Việt Nam
về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và giải pháp
nâng cáo hiệu quả thực tiễn áp dụng những quy định đó của các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Đối tượng: đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Bộ
luật hình sự về trách nhiệm hình sự, về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 100
bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2010 đến năm 2016.
Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của tội lừa

5


đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự một cách tổng thể
trong phạm vi chung của các giai đoạn tố tụng ở Việt Nam từ năm 1985
đến nay. Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự và một số nƣớc về trách
nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đánh giá thực tiễn việc
áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam trong khoảng

thời gian 05 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa
học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, logic học, tội phạm học, điều tra hình
sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật hình sự
và việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của các cơ quan THTT cũng nhƣ các văn bản của 3 ngành Công
an, Kiểm sát, Toà án hƣớng dẫn về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp: hệ thống, logic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề trách nhiệm hình sự của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Luận văn phát hiện những điểm còn bất cập trong luật hình sự Việt

6


Nam về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những thiếu
sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên
quan đến trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tìm ra những
nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về trách nhiệm hình sự của

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định
của luật TTHS về đối tƣợng chứng minh nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể
đƣợc khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ quan
THTT hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi
BLTTHS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến trách nhiệm
hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để hoàn thiện hơn.
Về mặt thực tiễn: Các cơ quan THTT có thể khai thác vận dụng
những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả
hoạt động của mình trong việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn gồm 2 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 2: Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cưỡng chế và trách nhiệm hình
sự trong một số trường hợp đặc biệt

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cưỡng chế của trách
nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp đặc biệt
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm hình sự
Theo đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ trách nhiệm đƣợc hiểu là: “điều
phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình” [47, tr.1621].
Trong thực tiễn đời sống xã hội chính trị và pháp lí, thuật ngữ “trách
nhiệm” thƣờng đƣợc hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ,
bổn phận của một ngƣời trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã hội hoặc nhà nƣớc. Ví dụ:
trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ môi trƣờng sống, trách nhiệm của
bố mẹ trong chăm sóc, bảo vệ và giáo dục con cái… Thứ hai, trách nhiệm là
hậu quả bất lợi mà một ngƣời phải gánh chịu trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã hội
hoặc Nhà nƣớc do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó [19, tr.8].
Trách nhiệm pháp lí trong đó có trách nhiệm hình sự đƣợc dùng theo
nghĩa thứ hai. Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong khoa
học luật hình sự về khái niệm “trách nhiệm hình sự”, có thể kể đến một vài
quan điểm nhƣ sau:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, là trách nhiệm của
ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong pháp
luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà ngƣời đó đã thực hiện [25, tr.14];

8


Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc phạm tội, thể hiện ở
chỗ ngƣời đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trƣớc
Nhà nƣớc [45, tr.41];
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lí, bao gồm:
nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự,
chịu bị kết tội, chịu biện pháp cƣỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt,

biện pháp tƣ pháp) và chịu mang án tích [18, tr.21];
Trách nhiệm hình sự là sự phản ứng của Nhà nƣớc đối với ngƣời
thực hiện tội phạm, thể hiện tập trung ở sự áp dụng hình phạt với chủ thể
đó [40, tr.157].
Các quan điểm đó tuy có sự khác nhau về một số nội dung nhƣ thời
điểm bắt đầu trách nhiệm hình sự, các yếu tố của trách nhiệm hình sự…
nhƣng tựu chung lại, đa số các quan điểm đều phản ánh thống nhất một số đặc
điểm của trách nhiệm hình sự là:
Thứ nhất, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện
hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có ngƣời thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện những
nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện. Điều này có nghĩa,
không có việc thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm thì không thể
có trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, để quy kết hành vi nào đó là
tội phạm và buộc ngƣời thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự,
ngƣời áp dụng pháp luật phải trên cơ sở đối chiếu hành vi đã thực hiện với các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, chứ
không đƣợc áp đặt theo ý thức chủ quan, bất chấp những quy định của pháp
luật. Nếu trong quá trình áp dụng pháp luật, ngƣời áp dụng pháp luật xác định
đƣợc hành vi của một ngƣời thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm

9


đƣợc Bộ luật hình sự quy định thì mới có thể buộc ngƣời thực hiện hành vi
phải chịu trách nhiệm hình sự [19, tr.17].
Thứ hai, trách nhiệm hình sự chỉ có thể được xác định bằng trình tự
đặc biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có
nghĩa vụ phải thực hiện. Việc xác định các căn cứ để có thể áp dụng trách

nhiệm hình sự là kết quả của cả một quá trình điều tra, truy tố, xét xử của các
cơ quan tố tụng có thẩm quyền. Quá trình này đƣợc thực hiện bởi các cơ quan
có thẩm quyền và phải tuân theo các quy định của luật Tố tụng hình sự về
trình tự, thủ tục… Song, cần lƣu ý rằng, “quá trình giải quyết vụ án cùng với
việc áp dụng các biện pháp đó của cơ quan tiến hành tố tụng không phải là
quá trình thực hiện trách nhiệm hình sự mà chỉ là quá trình xác định những
điều kiện cần và đủ” [19, tr.31] để có thể truy tố ngƣời phạm tội và buộc tội
họ trƣớc Tòa án.
Thứ ba, trách nhiệm hình sự được biểu hiện tập trung nhất ở việc người
phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là
hình phạt. Trách nhiệm hình sự bao gồm hai nội dung cơ bản là ngƣời phạm tội
phải bị kết tội (bởi cơ quan có thẩm quyền duy nhất là Tòa án) và ngƣời phạm
tội phải chịu biện pháp cƣỡng chế của TNHS bao gồm hình phạt và các biện
pháp tƣ pháp. Trong đó, hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nƣớc nhằm tƣớc bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của ngƣời phạm tội.
“Trách nhiệm hình sự có nội hàm rộng hơn hình phạt. Hình phạt chỉ là một
dạng đặc trưng, điển hình và phổ biến do Tòa án áp dụng trên thực tế của
trách nhiệm hình sự” [46, tr.227]. Trong nhiều trƣờng hợp, ngƣời phạm tội
đƣợc miễn hình phạt. Điều đó không đồng nghĩa với việc ngƣời phạm tội
không có trách nhiệm hình sự, bởi họ vẫn bị Tòa án kết tội, mà chỉ là ngƣời
phạm tội trong trƣờng hợp đó không phải chịu biện pháp cƣỡng chế nghiêm
khắc nhất của nhà nƣớc do đã thực hiện hành vi phạm tội mà thôi.

10


Thứ tư, trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu là trách
nhiệm trước nhà nước chứ không phải với ngƣời mà quyền và lợi ích hợp
pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Trách nhiệm hình sự chỉ
đƣợc thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với

tính chất là hai chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, đó là Nhà nƣớc và
ngƣời phạm tội. Trong đó “Nhà nước, mà đại diện cho Nhà nước là các cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền – có quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử người phạm tội” [46, tr.225] có nghĩa vụ chỉ đƣợc xử lí ngƣời phạm tội
dựa trên các căn cứ và trong các giới hạn của pháp luật quy định:
Ngƣời phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tƣớc bỏ hoặc hạn
chế quyền, tự do nhất định, nhƣng đồng thời họ cũng có quyền
yêu cầu sự tuân thủ nghiêm minh, đầy đủ và thực hiện đúng quy
định của pháp luật từ phía nhà nƣớc, từ phía các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự có thẩm quyền và từ các cán bộ thực thi
pháp luật [46, tr.226].
Thứ năm, trách nhiệm hình sự phải được phản ánh trong bản án hay
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Nhƣ đã trình bày ở nội dung
trên, căn cứ vào kết quả điều tra và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án
sẽ ra phán quyết về việc có kết tội ngƣời bị truy tố hay không. Nếu có đủ cơ
sở, Tòa án sẽ ra bản án kết tội đối với ngƣời đó. Bản án kết tội của Tòa án
chính là sự thể hiện của trách nhiệm hình sự áp dụng đối với ngƣời phạm tội.
Việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía nhà nƣớc và việc phải chịu trách
nhiệm hình sự từ phía ngƣời phạm tội chỉ bắt đầu khi bản án kết tội của Tòa
án đối với ngƣời bị kết tội có hiệu lực pháp luật.
Nhƣ vậy, từ các phân tích trên, tác giả xin đƣa ra khái niệm trách nhiệm
hình sự nhƣ sau: trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, là hậu
quả pháp lí bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước nhà nước do việc

11


người đó thực hiện tội phạm, được thể hiện ở việc người phạm tội phải chịu
bị kết tội bởi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án và phải chịu các
biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (bao gồm hình phạt và các biện

pháp tư pháp).
1.1.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cơ sở của TNHS là một trong những vấn đề quan trọng của TNHS.
Cơ sở của TNHS bao gồm cơ sở triết học của TNHS, cơ sở pháp lí của
TNHS và cơ sở thực tế của TNHS. Trong đó, vấn đề cơ sở triết học của
TNHS nhằm giải quyết câu hỏi “dựa trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc
con người phải chịu TNHS về hành vi của họ?” [16, tr.219]. Còn vấn đề cơ
sở pháp lí của TNHS nhằm trả lời câu hỏi “căn cứ vào đâu mà Nhà nước có
thể buộc con người phải chịu TNHS về hành vi của mình” [16, tr.219].
Về cơ sở triết học của TNHS: xã hội có thể buộc con ngƣời phải chịu
TNHS về hành vi của họ là bởi hành vi của con ngƣời vừa có tính tất yếu
vừa có tính tự do. Tính tất yếu của hành vi của con ngƣời thể hiện ở chỗ
hành vi đƣợc hình thành không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời những
điều kiện xã hội mà đƣợc hình thành một cách có quy luật. Nó là kết quả
của sự tác động qua lại giữa những điều kiện xã hội và con ngƣời. Nhƣng,
điều đó không có nghĩa hành vi của con ngƣời trong một tình huống cụ thể
là tất yếu, là duy nhất, là không thể tránh đƣợc.
Mọi xử sự của con ngƣời đều chịu sự chi phối của quy luật
khách quan nhƣng con ngƣời, nhờ hoạt động ý thức, có khả năng
nhận thức đƣợc quy luật là lợi dụng quy luật thực hiện mục đích của
mình. Đó là sự tự do của con ngƣời [16, tr.138]. Lí giải cụ thể hơn:
Các nguyên nhân bên ngoài tác động đến con ngƣời không
phải một cách máy móc mà phải thông qua sự suy xét (lí trí) và sự
quyết định (ý chí) của họ. Để thỏa mãn bất kì nhu cầu nào trong

12


đời sống cũng đều có nhiều biện pháp giải quyết và việc lựa chọn
biện pháp nào là kết quả của hoạt động lí trí và ý chí. Chính vì

vậy, trong những điều kiện khách quan giống nhau, mỗi ngƣời có
thể lựa chọn biện pháp xử sự khác nhau. Con ngƣời khi đã có
quyền lựa chọn là có tự do [16, tr.139].
Nhƣ vậy, tự do là cơ sở triết học của trách nhiệm và tránh nhiệm chỉ
đặt ra cho con ngƣời khi họ có tự do.
Cơ sở pháp lí của TNHS: Theo Điều 2 BLHS năm 1999 thì “chỉ người
nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự”. Để kết luận hành vi đã đƣợc thực hiện của ngƣời nào đó có phải là tội
phạm không và là tội gì, hình phạt áp dụng đối với họ ra sao, cần phải xác
định hành vi đó thỏa mãn những dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể chƣa?
Nếu đã thỏa mãn tức là ngƣời ấy đã thực hiện tội phạm cụ thể đƣợc quy định
trong BLHS và ngƣời thực hiện hành vi này phải chịu TNHS. Nhƣ vậy, “cấu
thành tội phạm là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự, là điều kiện cần và
đủ của trách nhiệm hình sự” [16, tr.219].
Cơ sở thực tế của TNHS: tội phạm là sự kiện pháp lí làm phát sinh
TNHS. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình
sự [16, tr.50). Cơ sở thực tế của trách nhiệm hình sự “là việc thực hiện hành
vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được luật hình sự quy
định” [19, tr.74]. Trên thực tế, để có thể xác định một hành vi nào đó là hành
vi phạm tội để áp dụng trách nhiệm hình sự đối với ngƣời thực hiện hành vi,
các cơ quan có thẩm quyền phải xác định đƣợc sự thỏa mãn, sự phù hợp của
hành vi đã thực hiện với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm đƣợc quy
định trong luật hình sự.
1.1.1.3. Các biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự
Các biện pháp cƣỡng chế của trách nhiệm hình sự bao gồm hình phạt
và biện pháp tƣ pháp. Cụ thể:
13


Hình phạt: Theo định nghĩa tại Điều 26 BLHS, “Hình phạt là biện pháp

cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và
do Tòa án quyết định”. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất
trong hệ thống các biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc sử
dụng nhƣ là một công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống tội phạm. “Hình
phạt không phải là cái gì khác ngoài phương tiện để tự bảo vệ mình của xã hội
chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó” [16, tr.230]. Tính nghiêm
khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ ngƣời bị kết án có thể bị tƣớc bỏ hoặc bạn
chế quyền tự do, quyền về tài sản, về chính trị, thậm chí cả quyền cơ bản nhất
của con ngƣời là quyền sống. Hình phạt cũng để lại án tích cho ngƣời bị kết án.
Trong BLHS Việt Nam, hình phạt đƣợc quy định trong cả phần chung và phần
các tội phạm, và Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định hình phạt đối
với ngƣời phạm tội. Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với ngƣời đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Trong đó:
Hệ thống hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình;
Hệ thống hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cƣ trú; quản chế; tƣớc một số
quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền; trục xuất.
Biện pháp tƣ pháp: “Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự
được BLHS quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt” [16, tr.257].
Các biện pháp tƣ pháp có ý nghĩa hỗ trợ cho hình phạt trong những trƣờng
hợp cần thiết phải xử lí cơ bản, toàn diện ngƣời phạm tội về hành vi nguy
hiểm cho xã hội của họ. Trong trƣờng hợp ngƣời mắc bệnh tâm thần mất khả

14



năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi, các biện pháp tƣ pháp đóng vai trò
thay thế hình phạt “loại bỏ nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi nguy hiểm
cho xã hội và thể hiện nội dung cao cả của nguyên tắc nhân đạo Xã hội chủ
nghĩa” [16, tr.258].
Trong BLHS Việt Nam, các biện pháp tƣ pháp bao gồm: tịch thu vật,
tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng
thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh. Đối với ngƣời phạm tội
chƣa thành niên thì các biện pháp tƣ pháp có thể áp dụng là giáo dục tại xã,
phƣờng, thị trấn hoặc đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng.
1.1.1.4. Trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp đặc biệt
Một là: trách nhiệm hình sự trong trường hợp đồng phạm
Theo quy định tại Điều 20 BLHS, đồng phạm là trƣờng hợp có hai
ngƣời trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Đồng phạm phải thỏa mãn
các dấu hiệu khách quan và chủ quan nhƣ sau:
Dấu hiệu khách quan đòi hỏi: thứ nhất, có hai ngƣời trở lên và tất cả
những ngƣời tham gia phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm, đó là
điều kiện về độ tuổi chịu TNHS và điều kiện về năng lực TNHS; thứ hai,
những ngƣời này phải cùng thực hiện tội phạm, tức là tham gia vào tội phạm
với một trong bốn dạng hành vi: 1) Hành vi thực hiện tội phạm (thực hiện
hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm), ngƣời có hành vi này đƣợc gọi
là ngƣời thực hành; 2) Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (tổ chức thực hiện
hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm), ngƣời có hành vi này đƣợc gọi
là ngƣời tổ chức; 3) Hành vi xúi giục ngƣời khác thực hiện tội phạm (xúi giục
ngƣời khác thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm), ngƣời có
hành vi này đƣợc gọi là ngƣời xúi giục; 4) Hành vi giúp sức ngƣời khác thực
hiện tội phạm (giúp ngƣời khác thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành
tội phạm), ngƣời có hành vi này đƣợc gọi là ngƣời giúp sức. Trong vụ đồng

15



phạm có thể có một loại hành vi nhƣng cũng có thể có đầy đủ cả bốn loại
hành vi. Ngƣời đồng phạm có thể tham gia từ đầu, cũng có thể tham gia khi
tội phạm đã xảy ra nhƣng chƣa kết thúc.
Dấu hiệu chủ quan của đồng phạm bao gồm dấu hiệu lỗi và dấu hiệu
mục đích.
Về dấu hiệu lỗi, đồng phạm chỉ có thể xảy ra với những trƣờng hợp
phạm tội với lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi ngƣời
đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn
sự cố ý tham gia của những ngƣời đồng phạm khác. Về lí trí, mỗi ngƣời đồng
phạm đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và họ đều biết ngƣời
khác có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Đồng thời, mỗi ngƣời
đồng phạm đều thấy trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình cũng nhƣ hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện. Về ý
chí, những ngƣời đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung hoặc cùng
có ý thức để mặc cho hậu qủa phát sinh.
Về dấu hiệu mục đích, đây là dấu hiệu đòi hỏi với những tội có dấu
hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc. Với những tội này, ngoài dấu hiệu
cùng thực hiện và dấu hiệu cùng cố ý, đồng phạm còn đòi hỏi dấu hiệu
cùng mục đích. Đƣợc coi là cùng mục đích khi những ngƣời tham gia đều
có chung mục đích đƣợc phản ánh trong cấu thành tội phạm hoặc biết rõ và
tiếp nhận mục đích đó.
Khi xác định TNHS trong trƣờng hợp đồng phạm cần lƣu ý: về nguyên
tắc, những ngƣời đồng phạm phải chịu TNHS đối với tội mà họ cùng phạm.
Tuy nhiên, khi xác định TNHS của những ngƣời đồng phạm cần tuân thủ các
nguyên tắc:
1) Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm, theo đó
tất cả những ngƣời đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về cùng tội danh, theo

16



cùng điều luật và trong phạm vi chế tài mà điều luật ấy quy định; các
nguyên tắc chung về việc truy cứu TNHS, về quyết định hình phạt, về thời
hiệu đối với loại tội những ngƣời đồng phạm đã thực hiện đƣợc áp dụng
chung cho tất cả…
2) Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng
phạm. Theo nguyên tắc này, những ngƣời đồng phạm không phải chịu trách
nhiệm về hành vi vƣợt quá của ngƣời đồng phạm khác; việc miễn TNHS hoặc
miễn hình phạt đối với ngƣời đồng phạm này không loại trừ TNHS của những
ngƣời đồng phạm khác; hành vi của ngƣời tổ chức, xúi giục hay giúp sức dù
chƣa đƣa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu TNHS; sự tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội của ngƣời đồng phạm này loại trừ TNHS của những
ngƣời đồng phạm khác…
3) Nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những ngƣời đồng phạm. Thể hiện
nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam xác định chính sách hình sự của nhà
nƣớc ta là “nghiêm trị kết hợp khoan hồng”, “nghiêm trị ngƣời chủ mƣu, cầm
đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối… khoan hồng đối với ngƣời tự thú, thành
khẩn khai báo, tố giác ngƣời đồng phạm, lập công chuộc tội…” (khoản 2
Điều 3 BLHS).
Bên cạnh hành vi của ngƣời đồng phạm, còn có những hành vi khác
liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu “là hành vi cố ý liên quan đến tội
phạm được thực hiện bởi người khác nhưng không có ý nghĩa quyết định đến
việc thực hiện tội phạm đó nên họ phải chịu TNHS độc lập về một tội phạm
do Luật hình sự quy định” [6, tr.160]. Có ba dạng hành vi, ba tội danh liên
quan đến tội phạm đó là hành vi (tội) che giấu tội phạm (Điều 313), hành vi
(tội) không tố giác tội phạm (Điều 314) và hành vi (tội) chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có (Điều 250).

17



Hai là: TNHS trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
Trƣớc hết cần khẳng định, theo lí luận chung đƣợc thừa nhận, việc phân
chia các giai đoạn phạm tội thành chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt, tội
phạm hoàn thành chỉ có thể thực hiện đƣợc với những tội đƣợc thực hiện với
lỗi cố ý trực tiếp. Trong đó:
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó ngƣời phạm tội có hành vi tạo
ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhƣng chƣa bắt đầu
thực hiện tội phạm đó [16, tr.162]. Các dạng hành vi chuẩn bị phạm tội có thể
là chuẩn bị công cụ, phƣơng tiện phạm tội; tìm kiếm những ngƣời đồng phạm;
thăm dò địa điểm phạm tội; loại trừ trƣớc những trở ngại khách quan… Vấn
đề trách nhiệm hình sự không đặt ra đối với ngƣời chuẩn bị phạm tội ít
nghiêm trọng và tội nghiêm trọng vì chuẩn bị phạm tội là trƣờng hợp có mức
độ nguy hiểm cho xã hội thấp nhất so với phạm tội chƣa đạt và tội phạm hoàn
thành. Hành vi trong chuẩn bị phạm tội chƣa trực tiếp xâm hại đến khách thể
của tội định thực hiện và riêng hành vi chuẩn bị chƣa thể gây ra đƣợc những
hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ đặt vấn đề
trách nhiệm hình sự khi tội định phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng (Điều 17 BLHS) [16, tr.161].
Việc quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội phải
tuân thủ quy định tại Điều 52 BLHS. Theo quy định tại khoản 2 Điều 52
BLHS, đối với trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật đƣợc áp dụng có
quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì mức cao nhất
đƣợc áp dụng là không quá hai mƣơi năm tù; nếu hình phạt cao nhất quy định
là tù có thời hạn thì mức cao nhất đƣợc áp dụng là không quá một phần hai
mức phạt tù cao nhất mà điều luật quy định.
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhƣng không thực hiện
đƣợc đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của ngƣời phạm tội


18


×