ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MINH THU
TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO
NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MINH THU
TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO
NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Minh Thu
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC
TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................................... 9
1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có ........................................................................................................ 9
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có ....................................................................... 12
1.2.1. Khách thể của tội phạm ............................................................................. 12
1.2.2. Chủ thể của tội phạm .................................................................................. 15
1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm .................................................................. 15
1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm ....................................................................... 18
1.3. Vài nét lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam đối với tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có..................... 20
1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm
1945 ............................................................................................................................ 21
1.3.2. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến
trước khi Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực ...................................................... 24
1.3.3. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến trước
khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực ................................................................. 26
1.3.4. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1999 đến nay ...... 28
1.4. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có trong pháp luật Hình sự của một số nước trên thế
giới ............................................................................................................... 32
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 41
Chương 2. CÁC HÌNH THỨC PHÁP LÝ ĐỐI VỚI TỘI CHỨA CHẤP
HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 ............................................................... 43
2.1. Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có theo Bộ luật Hình sự 1999 .................... 43
2.1.1. Hình phạt đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có............................................................................. 43
2.1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ........................................................ 57
2.1.3. Vấn đề miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người phạm
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ................ 60
2.2. Phân biệt giữa tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có với một số tội phạm khác ............................................... 64
2.2.1. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với tội che giấu tội phạm .................................................................... 64
2.2.2. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với tội không tố giác tội phạm .......................................................... 66
2.2.3. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với tội rửa tiền ....................................................................................... 69
2.2.4. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với trường hợp đồng phạm cùng tội phạm nguồn ........................ 72
Kết luận Chương 2..................................................................................... 74
Chương 3. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ
TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ........ 76
3.1. Khái quát số vụ án đã thụ lý về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm gần
đây................................................................................................................ 76
3.2. Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015 . 79
3.2.1. Số liệu thống kê về thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai
đoạn 2011- 2015 ...................................................................................................... 79
3.2.2. Một số vấn đề trong thực tiễn với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có những năm gần đây ............................... 87
3.3. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn với tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ........... 97
3.3.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ...................................... 97
3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của
Tòa án nhân dân với những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có ................................................................... 101
3.3.3. Một số giải pháp khác .............................................................................. 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 111
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 117
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:
Bộ luật Dân sự
BLHS:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng Hình sự
CTTP:
Cấu thành tội phạm
TNHS:
Trách nhiệm Hình sự
TAND:
Tòa án nhân dân
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1.
So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có, tội che giấu tội phạm và tội không tố giác
tội phạm
68
Bảng 2.2.
So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có với tội rửa tiền
72
Bảng 3.1.
Thống kê số liệu vụ án và bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã thụ lý trên
địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2011- 2015
78
Bảng 3.2.
Thống kê số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được giải
quyết trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 2011- 2015
81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, trước sự thay đổi, phát triển của các điều kiện
kinh tế- xã hội, tình hình các loại tội phạm nói chung có nhiều diễn biến phức
tạp. Đặc biệt là các tội xâm phạm quyền sở hữu có chiều hướng gia tăng. Điều
này gây ảnh hưởng không nhỏ việc bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản của
công dân trong đó có quyền sở hữu. Liên quan đến các tội phạm xâm hại về
sở hữu, tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có trở thành vấn đề đáng lưu tâm, đang gây nhiều lo lắng cho người dân. Tính
chất của tội phạm cũng góp phần gây khó khăn trong hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử các tội phạm xâm phạm sở hữu.
Trong giai đoạn nền kinh tế của đất nước đang phát triển theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình trạng người dân chạy theo tiếng
gọi của lợi nhuận thực hiện các hoạt động kinh doanh, mua bán các loại hàng
hoá, tài sản dù biết là do người khác phạm tội mà có là tình trạng đáng cảnh
báo. Việc công dân dù biết tài sản mình đang chứa chấp hoặc tiêu thụ do
người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm kiếm lời khiến
cho việc xử lý các loại tội phạm xâm hại sở hữu như trộm cắp tài sản, cướp tài
sản, cướp giật tài sản,... càng thêm khó khăn trong công tác điều tra, truy tố
tội phạm do tài sản khó được xác minh, tìm kiếm. Đứng trước thực trạng cũng
như diễn biến của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu như vậy, một số công
dân sẵn sàng chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản của công dân, tài sản của Nhà
nước do người khác phạm tội mà có có giá trị lớn do mua rẻ, bán đắt gây ra
thiệt hại lớn cho người dân, cũng như cho tài sản của Nhà nước. Điều này gây
cản trở không nhỏ đến hoạt động đúng đắn của cơ quan có thẩm quyền trong
việc điều tra, xử lý tội phạm. Hơn thế nữa, hành vi này còn gián tiếp khuyến
1
khích các hành vi phạm tội, phạm tội nhiều lần của người khác, gây ra ảnh
hưởng tiêu cực cho xã hội, khiến tình hình tội phạm thêm phức tạp, gây khó
khăn cho công tác phòng ngừa tội phạm.
Khi nghiên cứu về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có những năm gần đây (giai đoạn 2010- 2015), nhiều vấn đề về
mặt lý luận cũng như thực tiễn cần tìm hiểu kỹ càng. Đặc biệt, trên địa bàn
thành phố Hà Nội- thủ đô của đất nước, việc nghiên cứu các vấn đề tội phạm
này càng cần thiết hơn bởi lẽ Hà Nội là thành phố đi đầu trong quá trình phát
triển, mức sống của người dân có đòi hỏi cao; vì thế, đây cũng là nơi thu hút
nhiều loại tội phạm về sở hữu, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng, trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa trong đó có tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có. Tội phạm này có sự xuất phát từ những tội phạm
nguồn gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc gia tăng tỷ lệ tội phạm về sở hữu. Tuy
nhiên, trong các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại ít được nghiên cứu đầy đủ
và cụ thể. Việc xác định rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội phù hợp với sự
phát triển của xã hội hiện nay hay trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng
cũng chưa được đi sâu nghiên cứu, bám sát tình hình thực tiễn. Thực tiễn đặt
ra rằng, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
khá phức tạp dưới nhiều hình thức, thủ đoạn đơn giản có, tinh vi có nhằm hợp
pháp hóa tài sản phạm tội để đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Điều này gây ảnh
hưởng không nhỏ tới việc gia tăng phức tạp tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung, cũng như đề ra các
biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có.
Vì lẽ đó, việc nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có đặt ra vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm
2
đáp ứng đòi hỏi của xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện tinh
thần cải cách tư pháp theo định hướng của Đảng và tinh thần của Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020". Hơn thế nữa, về mặt lý luận, việc nghiên cứu đưa ra các dấu hiệu cũng
như cơ sở pháp lý cụ thể góp phần làm sáng tỏ các hành vi tội phạm, tạo tiền
đề cho công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Từ các cơ sở nêu
trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm có tính tinh vi và diễn biến tội
phạm phức tạp. Loại tội phạm này đã được một số nhà luật học nghiên cứu, đề
cập trong một số giáo trình, sách, báo, bài viết gần đây gồm có:
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà
Nội Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm)- tập
9 của ThS Đinh Văn Quế, Nxb Tp Hồ Chí Minh; Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn
Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ
Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001... Các công
trình nói trên các tác giả đã đề cập nội dung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc bình luận
và đưa ra các khái niệm, dấu hiệu một cách đơn giản, khái quát làm khuôn
mẫu nghiên cứu mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và
3
có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có dưới góc độ pháp lý hình sự.
- Đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Luận văn Thạc sỹ năm 2007 của tác
giả Trần Thị Thu Nam; Đề tài: “Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An”- khóa luận tốt
nghiệp năm 2009 của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh: Các đề tài trên đều đã đề
cập đến tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
dưới góc độ luật Hình sự và Tội phạm học. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu
đã cách đây khá xa, vì vậy, tình hình tội phạm và các dấu hiệu, điều kiện
phạm tội hiện nay đã có nhiều biến đổi. Ngoài ra, đề tài cũng chưa đi sâu làm
rõ vấn đề các hình thức trách nhiệm hình sự của tội phạm. Vấn đề về tội phạm
nguồn chưa được đưa ra. Hơn nữa, các đề tài mới chỉ đưa ra phân tích chung
hoặc trên một địa bàn huyện của tỉnh. Mà thực tế, địa bàn thành phố Hà Nội
lại là một điểm nóng của tội phạm lại chưa được đi sâu nghiên cứu.
- Các bài viết “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Tạp chí Luật học số 05.2004
của Thạc sỹ Phạm Văn Báu; “Một số vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 tháng 9
năm 2007 của tác giả Trần Quang Tiệp; “Yếu tố định lượng đối với tội Chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”- Trang thông tin
TAND tối cao 2013 của tác giả Hồ Vĩnh Phú, “Bàn về Điều 250 Bộ luật Hình
sự”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 tháng 6/2004 của tác giả Lê Văn Luật...
cũng đã đề cập về tội phạm này dưới góc độ Luật Hình sự và Tội phạm học.
Các bài viết mới chỉ đưa ra một cách khái quát về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có, một số vấn đê cần lưu ý nhưng chưa đi
4
vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm cũng như thực tiễn xét xử
của tội phạm.
Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu được trình bày ở trên, vấn
đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và
thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội còn bỏ ngỏ. Đến thời điểm
này, đề tài “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội) vẫn có tính mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu mà luận văn hướng tới là trên cơ sở lý luận và
thực tiễn xét xử của tội phạm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chuyên sâu
đối với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cũng qua đó hình thành cái nhìn từ
thực tiễn xét xử các vụ án về tội phạm làm cơ sở cho việc nhận thức cũng như
áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự xử lý về tội phạm. Ngoài ra, trên cơ
sở nghiên cứu, luận văn cũng đề xuất những giải pháp mới nhằm hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về
tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn đặt ra các vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu và đưa ra khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; làm rõ lịch sử
hình thành và phát triển những quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Thứ hai, làm rõ các hình thức pháp lý đối với tội phạm chứa chấp
5
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; so sánh tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một số tội phạm
khác.
Thứ ba, phân tích, làm rõ vấn đề thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố
Hà Nội về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có;
tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án. Từ đó,
đưa ra đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật
Hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam dưới
góc độ pháp lý hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm
từ năm 2011 đến năm 2015.
Tại thời điểm người viết nghiên cứu đề tài này, Bộ luật Hình sự 2015 vẫn
chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có được tiến hành theo Bộ luật Hình sự 1999.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đê tài
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
phương pháp được tác giả lựa chọn làm cơ sở nghiên cứu luận văn. Ngoài ra,
tác giả dựa trên các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh
6
vực trong đó có lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn để
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, …
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về tội phạm
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Những đóng
góp mới về mặt khoa học của luận văn có thể kể đến:
- Phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, đưa ra vấn đề về tội
phạm nguồn, phân tích sự phát triển các quy định về tội phạm chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong lịch sử, đối chiếu các quy
định của Bộ luật Hình sự 1999 và Bộ luật Hình sự 2015 và so sánh các quy
định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có, các hình thức pháp lý của tội phạm và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành
phố Hà Nội, nêu lên những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự về tội phạm.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như cả
nước nói chung.
7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Về mặt lý luận, luận văn có ý nghĩa cung cấp thêm cơ sở lý luận góp
phần làm phong phú về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học để tham khảo cho
7
các bài viết, công trình nghiên cứu, bài giảng có liên quan.
Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra thực tiễn, đánh giá, dự báo diễn
biến tình hình tội phạm và đề xuất những giải pháp hợp lý, có ý nghĩa trong
việc xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định
của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và ở
nước ta nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có theo quy định của luật Hình sự Việt Nam
Chương 2: Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật Hình sư 1999
Chương 3: Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội và giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ
TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có
Theo từ điển luật học, chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có
là "(hành vi) cất giấu hoặc tạo điều kiện cho việc cất giấu những tài sản mình
biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.275].
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là "(hành vi) mua, trao đổi,
nhận hoặc giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do
hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.781].
Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09/2011/TTLT-BCA-BQPBTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ban hành ngày 30/11/2011 Hướng
dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền (Sau đây gọi tắt là Thông tư
09/2011) quy định:
Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ,
che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất
giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó và tiêu thụ tài sản là một trong các
hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc
thực hiện các hành vi đó.
Hiểu một cách chung nhất, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản so
người khác phạm tội mà có là hành vi cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu
hoặc mua, trao đổi, nhận, giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ
là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có.
9
Cũng theo từ điển này, tài sản được hiểu:
Là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài
sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật có thực, vật
đang tồn tại và sẽ có như hoa, lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo
mẫu đã được thoả thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá
được bằng tiền và quyền tài sản [51, tr.778].
Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản".
Đối với vật là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có phải là vật có thực, vật đang tồn tại, có giá
trị và nằm trong sự chiếm hữu của con người, “đối tượng của tội tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có chỉ có thể là tài sản (các đối tượng vật
chất, hàng hóa, tiền) do phạm tội mà có trừ các đối tượng vật chất là hàng
cấm ) do phạm tội mà có”[2, tr.6].
Tiền và giấy tờ có giá cũng là những đối tượng tài sản của tội phạm
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, đối
với giấy tờ có giá cần lưu ý bởi nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Giấy tờ có giá được chia làm hai loại gồm: Giấy tờ có giá ghi danh và Giấy tờ
có giá vô danh. Với đối tượng là tài sản trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có thì giấy tờ có giá ghi danh sẽ không thỏa
mãn được là đối tượng tác động của tội phạm bởi loại giấy tờ này chỉ chủ sở
hữu đứng tên mới có khả năng thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến
nó. Giấy tờ có giá vô danh "là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng
chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu
của người nắm giữ giấy tờ có giá" (Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá
của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04/01/2005). Với giấy tờ có giá vô
10
danh, người phạm tội có thể tự thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, giấy tờ
có giá vô danh sẽ là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có [22, tr.7].
"Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" (Điều 181 Bộ luật Dân sự
2005). Quyền tài sản là loại tài sản quyền gắn liền với chủ sở hữu, do đó, tuỳ
thuộc vào quyền tài sản nhất định mới là đối tượng tác động của tội phạm chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì có những quyền tài
sản chỉ chủ sở hữu mới có thể thực hiện quyền này trong giao dịch dân sự.
Thông tư số 09/2011, tại Khoản 3 Điều 1 có hướng dẫn về "tài sản" bao
gồm: "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản,
hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật
tiêu hao, vật không tiêu hao, vật chùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và
quyền tài sản".
Như vậy, những "tài sản" được pháp luật ghi nhận, thuật ngữ "tài sản"
trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự
tương ứng với quy định về "tài sản" trong Bộ luật Dân sự 2005.
Từ khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS, định nghĩa
khoa học về tội phạm với những dấu hiệu được phân tích ở trên, tác giả xin
đưa ra khái niệm Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có như sau:
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là
hành vi nguy hiểm cho xã hội khi biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà
có vẫn cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu hoặc mua, trao đổi, nhận,
giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, trái
pháp luật hình sự, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự
11
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có
Căn cứ quy định cụ thể về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có, những yếu tố đặc trưng của cấu thành tội phạm (CTTP)
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thể
hiện như sau:
1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các
quan hệ xã hội đó [47, tr. 86].
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013- đạo luật cơ
bản của nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu của công dân: "1. Mọi người
có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất,
phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền
sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ".
Từ đây, nền tảng cơ bản về quyền sở hữu của công dân được pháp luật
Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. Mọi sự xâm phạm sẽ được bảo vệ bởi ngành
luật tương ứng. Tội phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản có
được từ hành vi phạm pháp, tuy không có sự hứa hẹn trước với người có tài
sản do phạm tội mà có, nhưng vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó vì mục
đích vụ lợi. Hành vi của người phạm tội đã xâm phạm trật tự công cộng, trật
tự xã hội, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, khuyến khích việc thực hiện tội
phạm cũng như gây khó khăn cho hoạt động tư pháp trong điều tra, truy tố,
xét xử tội phạm.
Việc xác định khách thể của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
12
do người khác phạm tội mà có là căn cứ quan trọng để định tội cũng như phân
biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác; khách thể của tội phạm sẽ cho thấy
rõ bản chất, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Khách thể chung là "tổng hợp các quan hệ xã hội được các quy phạm
pháp luật Hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị
tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất
định" [6, tr. 351]. Khách thể chung của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài do người
khác phạm tội mà có là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Xác định khách thể chung của tội phạm sẽ đưa ra cơ sở pháp lý chung khẳng
định hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có là hành vi phạm tội bị pháp luật hình sự cấm.
Khách thể trực tiếp là "một quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm
pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một tội phạm nhất
định nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt
hại đáng kể nhất định" [6, tr. 351]. Khách thể trực tiếp của tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là trật tự quản lý nhà nước đối
với tài sản do phạm tội mà có do tội phạm này có tác động xấu gây ảnh hưởng
đến hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội phạm, cũng như gây khó khăn cho
hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể tội
phạm bị người thực hiện hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [47, tr.
94]. Đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có là tài sản do (người khác) phạm tội mà có. Đó có thể là bất kỳ
tội phạm nào được quy định trong Bộ luật Hình sự mà kết quả trực tiếp của nó
là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp. Nếu tài sản do người khác
phạm tội mà có là đối tượng phạm tội của tội khác thì người có hành vi chứa
13
chấp, tiêu thụ tài sản đó bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng mà BLHS
quy định đối với hành vi tàng trữ, tiêu thụ các loại tài sản đó [27, tr.307]. Khi
nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm này cần lưu tâm đến các loại tài
sản do phạm tội mà có gồm những loại tài sản nào như đã phân tích ở phần
khái niệm trên.
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xâm
phạm đến khách thể là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
được pháp luật Hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, loại tội phạm này lại được hình
thành chỉ khi có tội phạm nguồn tạo ra đối tượng tác động cho tội phạm chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Sở dĩ có thể khẳng
định như vậy vì bản thân điều luật 250 BLHS về tội phạm đã thể hiện, hành vi
phạm tội của tội phạm cấu thành khi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là
do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, vấn đề "Tội phạm nguồn" lại chưa
được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về tội phạm này.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tác giả đưa ra khái niệm về tội
phạm nguồn:
"Tội phạm nguồn là tội phạm tạo ra các loại tài sản từ đó có thể trở
thành đối tượng tài sản của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có".
Xuất phát từ tội phạm nguồn, cùng với các yếu tố cấu thành tội phạm
khác, tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
mới đủ căn cứ hình thành. Như vậy, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có là một loại tội phạm phái sinh, có thuộc tính tự
nhiên phụ thuộc vào tội phạm nguồn. Nếu không có tội phạm nguồn thì không
có tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Tội phạm nguồn là một trong những căn cứ quan trọng để xác định cấu thành
14
tội phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Đây cũng là căn cứ để phân biệt giữa hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do vi phạm pháp luật (không phải là tội phạm) mà có với tội phạm.
1.2.2. Chủ thể của tội phạm
Luật hình sự Việt Nam coi chủ thể của tội phạm là người có năng lực
trách nhiệm hình sự, đạt một độ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội
[47, tr.122].
Điều 250 BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có gồm 04 khung hình phạt khác nhau sau: đến ba năm tù (khoản
1), đến bảy năm tù (khoản 2), đến mười năm tù (khoản 3), đến mười lăm năm
tù (khoản 4). Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 sửa đổi 2009,
quy định về tuổi chịu TNHS tại Điều 12, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chỉ có thể bị truy cứu TNHS khi thực hiện hành vi thuộc một trong các tình
tiết định khung tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 250 BLHS là trường hợp phạm
tội rất nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể bị truy cứu
TNHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của các khung từ Khoản 1 đến Khoản 4 Điều 250 BLHS 1999.
1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp
những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách
quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu có ý nghĩa pháp lý là: hành vi nguy
hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội; các dấu hiệu không bắt buộc (thủ đoạn,
phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội) [6, tr.365-366].
Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện là hành vi "chứa chấp"
hoặc "tiêu thụ" tài sản do người khác thực hiện các hành vi phạm tội khác mà
15
có như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản,... Thế nào là hành vi
chứa chấp hoặc hành vi tiêu thụ tài sản tại Điều 250 BLHS 1999 không liệt kê
rõ. Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09/2011 đưa ra quy định về hai
hành vi được đề cập trong cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có:
Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ,
che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất
giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó và tiêu thụ tài sản là một trong các
hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc
thực hiện các hành vi đó.
Tuy nhiên, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ chỉ thuộc hành vi khách
quan của tội phạm khi người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ nhận
tài sản từ người phạm tội và biết đó là tài sản do phạm tội mà có, có thể nói,
hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ không có tác động đến việc thực hiện tội
phạm của người có tài sản do phạm tội mà có. Người có tài sản do phạm tội
mà có là tội phạm nguồn của tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có. Việc thực hiện hành vi khách quan chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản không nằm trong mối quan hệ nhân quả với tội phạm có
tài sản do phạm tội mà có [22, tr.42]. Trường hợp người thực hiện hành vi
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản nhưng không nhận tài sản từ người phạm tội
(tội phạm nguồn) thì hành vi của họ không phạm tội tại Điều 250 BLHS mà
có thể phạm tội khác được quy định trong BLHS.
Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
phải là hành vi được tiến hành không có sự hứa hẹn trước với người phạm tội
có được tài sản. Đây là điểm khác so với hành vi giúp sức trong đồng phạm.
Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản mà có sự hứa hẹn trước với người có
16
tài sản do phạm tội là hành vi có tác động trực tiếp đến việc thực hiện tội
phạm của người có tài sản do phạm tội mà có và bị coi là hành vi giúp sức
trong đồng phạm.
Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản là hành vi khách quan của tội
phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ khi
hành vi đó là trái pháp luật, hay nói cách khác, chỉ hành vi được quy định
trong Bộ luật Hình sự mới có thể là tội phạm. Điều này cũng có nghĩa là cấm
áp dụng nguyên tắc tương tự. Trường hợp người mua tài sản do phạm tội mà
có trong trường hợp nhà nước phát mại, bán đấu giá để sung công quỹ do
không tìm được chủ sở hữu hoặc người có quyền bảo quản tài sản thì đó là
hành vi hợp pháp, không phạm vào tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có [62].
Cần lưu ý, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có được quy định tại Điều 250 BLHS 1999 sửa đổi 2009 có quy định hai
hành vi khách quan trong một cấu thành tội phạm "chứa chấp", "tiêu thụ". Do
đó, người phạm tội thực hiện hành vi khách quan chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản thì chỉ bị truy cứu TNHS về một hành vi mình phạm phải "tội chứa chấp
tài sản do người khác phạm tội mà có" hoặc "tội tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có". Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi được
Điều 250 BLHS quy định thì sẽ bị truy cứu TNHS về cả hai hành vi đó [1,
tr.12-13].
Hậu quả của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có:
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể được bảo vệ bởi luật hình
sự [47, tr.110]. Về nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định được
mới được quy định trong cấu thành tội phạm. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
17