Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.45 KB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. PLEIKU

TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT VÀI BIỆN PHÁP NHẰM DUY TRÌ SĨ SỐ
HỌC SINH

NĂM HỌC : 2011 - 2012

1


MỘT VÀI BIỆN PHÁP NHẰM DUY TRÌ SĨ SỐ HỌC SINH
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn như hiện nay,
việc học sinh, nhất là học sinh người dân tộc thiểu số bỏ học đã trở thành
nỗi bức xúc của tồn xã hội. Việc thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục
trung học cơ sở của Đảng và Nhà nước đúng kế hoạch có lẽ là vấn đề nan
giải đối với một tỉnh miền núi điều cv``kiện phát triển kinh tế còn gặp
nhiều khó khăn như Gia Lai. Vì vậy, vấn đề duy trì sĩ số ở trường phổ
thơng trong giai đoạn hiện nay có một tầm quan trọng hết sức đặc biệt. Dư
luận xã hội, ý kiến của những người có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục
hết sức lo lắng trước tình trạng nghỉ học, bỏ học của học sinh phổ thơng.
Nền kinh tế thị trường tạo những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển
tồn diện của nền kinh tế nước ta. Tuy vậy, một số nhược điểm của nó
cũng đã bộc lộ, đó là sự cạnh tranh kinh tế, quy luật phát triển khơng đồng
đều đã tạo ra sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Khoảng cách của
mức sống giữa nơng thơn và thành thị, giữa người giàu và người nghèo
ngày càng lộ rõ, mặc dù Đảng và Nhà nước ta ln có những chủ trương và
chính sách để hỗ trợ người nghèo.
Mặt khác những hạn chế của nền kinh tế thị trường đã và đang tác


động đến suy nghĩ, lối sống thực dụng của một số bộ phận thanh thiếu
niên, học sinh. Nhà trường, đặc biệt là các trường phổ thơng đang đứng
trước những thách thức lớn vì phải đối mặt với những thách thức lớn vì
phải đối mặt với những mâu thuẫn lớn cần phải giải quyết. Một bên là chất
và một bên là lượng. Làm sao để vừa đảm bảo được số lượng học sinh
khơng ngồi nhầm lớp vừa đảm bảo được học sinh khơng bỏ học, nghỉ học.
Thực tế hiện nay ở các trường phổ thơng, các thầy cơ giáo đang cố
gắng thực hiện đảm bảo u cầu: dạy đúng, dạy đủ nội dung, chương trình
sách giáo khoa hiện hành. Thực hiện được u cầu này cũng đã đáng biểu
dương. Còn việc duy trì sĩ số học sinh, vẫn được nghiễm nhiên xem đó là
việc của lãnh đạo nhà trường và của các cấp quản lý ngành giáo dục. Đây
là một nhận thức khơng đúng và ở trong suy nghĩ của khơng ít giáo viên.
Nói như thế, khơng có nghĩa là phủ nhận cơng lao và hoạt động nỗ lực của
thầy cơ để góp phần động viên học sinh đến trường, đến lớp.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, trong q trình giảng dạy và làm cơng
tác chủ nhiệm lớp, tơi đã mạnh dạn tập trung tìm hiểu, sử dụng những giải
pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu làm sao duy trì tốt sĩ số học sinh ở những
lớp mình được nhà trường phân cơng phụ trách tơi ln xác định rõ phương
2


hướng và nhiệm vụ của hai mặt giáo dục là “Dạy chữ” và “Dạy người”,
việc giáo dục đạo đức cho học sinh là việc làm vô cùng quan trọng và cần
thiết đối với từng cấp học, nó là cơ sở để giúp học sinh phát triển toàn diện.
Với mong muốn làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và có thêm những kinh
nghiệm quý báu trong việc duy trì sĩ số học sinh, cùng với những trăn
trở về thực trạng một số học sinh bỏ học học hiện nay, tôi xin mạnh dạn
đưa ra đề tài: “Một vài biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh ” hy
vọng qua quá trình thực hiện đó có thể rút ra những bài học nhằm đóng góp
một phần kinh nghiệm nhỏ trong việc hạn chế tình trạng học sinh bỏ học,

nghỉ học hiện nay.

3


PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I.Vị trí vai trò, tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp với vấn đề
duy trì sĩ số học sinh:
Đất nước đang ở vào thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ để hội
nhập vào trào lưu phát triển chung của toàn cầu. Sự hội nhập và phát triển
của đất nước đang đặt ra cho từng địa phương từng gia đình và từng cá
nhân những cơ hội lớn lao để phát triển. Bên cạnh cơ hội là những yêu cầu
hết sức khó khăn mà từng đối tượng phải nỗ lực để vượt qua. Nhà trường
trong tình hình phát triển mới của ngành giáo dục và của đất nước rõ ràng
mang trên mình trách nhiệm càng lớn lao hơn .
Trường học không những chỉ phải đào tạo những thế hệ học sinh học
giỏi, đạo đức tốt mà còn phải là những con người năng động, sáng tạo. Do
đó công tác giáo dục trong bối cảnh mới cũng phải có những yêu cầu mới
phù hợp hơn.
Sự nghiệp giáo dục nước nhà đang ở vào giai đoạn cải cách, đang
gặp những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, như Bác Hồ đã nói “ Dù khó
khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt, trên nền tảng
giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất
lượng văn hoá và chuyên môn, nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do
cách mạng nước ta đề ra và trong thời gian không xa đạt những đỉnh cao
của khoa học và kỹ thuật” (Trích “ Thư của Bác Hồ gửi ngành giáo dục
nhân dịp khai giảng năm học 1968 -1969”.
Dạy học là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường phổ thông. Cụ thể,
nhiệm vụ vinh quang này được trao cho đội ngũ thầy cô giáo; nhưng để

thực hiện tốt việc dạy của thầy thì điều trước tiên phải có là sự hiện diện
của trò, bởi vì nếu không có trò thì thầy dạy ai? Một thực trạng hiện nay là
học sinh, nhất là học sinh người dân tộc thiểu số, bỏ học nhiều. Người thầy
giáo sẽ phải làm gì để hạn chế, ngăn chặn việc học sinh bỏ học? Học sinh
bỏ học thì trách nhiệm thuộc về ai? Gia đình, nhà trường hay xã hội ?
Trách nhiệm của gia đình và xã hội chắc chắn là rất lớn nhưng vai trò của
nhà trường cũng không nhỏ. Trong nhà trường, ai sẽ có vai trò lớn trong
việc giúp học sinh không bỏ học ? Các thầy cô giáo bộ môn thông qua việc
dạy học bộ môn (nhiệm vụ chuyên môn) để bồi dưỡng kiến thức khoa học
theo từng môn cho học sinh. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh thông qua các sinh hoạt tập thể để
nhằm thu hút, tập hợp các em, giáo dục lý tưởng và các kỹ năng hoạt động
xã hội cho các em. Với các hoạt động thi đua có tính phong trào, Đoàn và
Đội thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường sinh hoạt vui, khỏe, lành
4


mạnh để tập hợp lôi kéo các em tham gia, giúp các em có thêm niềm vui
khi đến trường, đến lớp. Đoàn Thanh niên và Đội Thiếu niên không thể
theo sát từng học sinh. Không thể nắm rõ từng mặt tích cực và hạn chế,
những khó khăn và thuận lợi trong sinh hoạt, học tập của các em để có thể
có những biện pháp giáo dục, động viên các em một cách sát thực và kịp
thời khi các em có ý bỏ học. Các thầy cô bộ môn, trên một chừng mực nào
đó có thể nói rằng: thông qua dạy chữ để dạy người. Việc dạy dỗ tận tình,
chu đáo của các thầy cô có một tác dụng lớn đối với việc giáo dục nhân
cách cho các em, giúp các em có tấm lòng hiếu học. Các em sẽ cố gắng đi
học đều đặn nếu đến lớp các thầy cô giảng dạy dễ hiểu, giúp các em dễ tiếp
thu bài, ham thích việc học. Nhiệm vụ chuyên môn vẫn là hàng đầu và
trong từng tiết dạy, hoàn thành kế hoạch lên lớp (giáo án không bị cháy )
đã là điều chấp nhận được.

Ngoài mức độ trên, chúng ta không thể đòi hỏi người giáo viên bộ
môn có trách nhiệm cao hơn được nữa. Nhất là trong hoàn cảnh ngành giáo
dục cả nước vừa mới thay đổi chương trình, sách giáo khoa, người thầy
giáo đang còn phải tận lực để tiếp cận, thâm nhập chương trình với khối
lượng kiến thức lớn để vận dụng tốt những phương pháp dạy học mới.
Giáo viên chủ nhiệm - người có vị trí quan trọng - trước hết là người
thay mặt Hiệu trưởng nhà trường triển khai cụ thể và đôn đốc học sinh thực
hiện các chủ trương hoạt động của trường; là người phối hợp trách nhiệm
của các giáo viên bộ môn dạy ở lớp; còn là người lãnh đạo, tổ chức và
hướng dẫn tất cả mọi hoạt động của lớp; là người làm cầu nối cho mối
quan hệ gia đình - nhà trường - xã hội; chính vì vậy nên công tác chủ
nhiệm được quy đổi tương đương một số tiết dạy nhất định. Do những đặc
điểm về vai trò đó, giáo viên chủ nhiệm luôn phải theo sát học sinh, nắm
bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng, tâm lý các em để có thể giúp đỡ,
giáo dục các em kịp thời và có hiệu quả.
II .Tìm hiểu tình hình nghỉ, bỏ học của học sinh và các biện pháp ngăn
ngừa, vận động:
1. Đặc điểm tình hình của lớp:
Năm học 2011 – 2012 tôi được nhà trường giao chủ nhiệm lớp 8N,
một trong những lớp yếu nhất của trường. Theo tình hình ban đầu:
- Tổng số học sinh của lớp 42 em
- Hạnh kiểm:
 Tốt: 19 em
 Khá: 16 em
 Trung bình: 7 em
- Học tập:
5


 Giỏi: 5 em

 Khá: 12 em
 Trung bình: 17 em
 Yếu: 8 em
Qua một quá trình thu thập, tập hợp các thông tin về lớp và học sinh,
tôi đã rút ra những đặc điểm tình hình tư tưởng, về việc học của các em.
Tư tưởng, ý thức về việc học của học sinh và của gia đình học sinh
được thể hiện phần nào qua tác phong của các em như cách ăn mặc, cách
trang phục và việc thực hiện nội quy của trường và các quy định của lớp.
Xét về mặt lý luận cũng như thực tế: những gia đình (có mức sống
trung bình) mà cha mẹ có ý thức chăm lo đến việc học thì con cái họ luôn
đến trường với tác phong mẫu mực, đúng nghĩa học trò: đồng phục, áo
quần gọn gàng, sạch sẽ, sách vở được bao bìa cẩn thận. Những học sinh ở
nhóm này thường là học sinh chuyên cần, chăm chỉ, hầu như không bao giờ
vắng, nghỉ học không có lý do chính đáng.
Ngược lại, những gia đình cả cha lẫn mẹ thiếu sự quan tâm về việc
học của con thì tác phong đến trường của các em này cũng khác: áo quần
luộm thuộm, sách vở lôi thôi, không có được thái độ, ý thức học tập tốt.
Hay bỏ buổi, bỏ giờ, nhất là giờ các môn học khó. Lớp chủ nhiệm của tôi
có 24 học sinh nam, trong đó 5 em để tóc dài và rẽ ngôi, chải chuốt và ý
thức học tập của các em này rất thấp. Về ăn mặc, số nam sinh này thường
không mặc đồng phục và không bỏ áo vào trong quần, không đeo khăn
quàng theo quy định của nhà trường.
Một vấn đề quan trọng khác cũng nói lên ý thức tư tưởng học tập của
các em, đó là việc chấp hành nội quy học tập. Có em thỉnh thoảng nghỉ học
không lí do, đến lớp không chịu học bài và làm bài tập do giáo viên giao
về nhà. Đặc biệt tinh thần đoàn kết trong lớp không được như các lớp khác.
Vì ở lứa tuổi lớp 8 nên tâm lí các em có những thay đổi lớn. Xu hướng
muốn vươn lên làm người lớn đã gây ra những bất đồng, mâu thuẫn, xích
mích giữa các em trong lớp. Sự chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, bè phái đã
diễn ra.

Khối đoàn kết, tình thân ái giữa học sinh trong lớp không cao, niềm
vui của lứa tuổi học trò bị thiếu. Đây chưa phải là nguyên nhân chính,
nhưng nó chính là chất dính quan trọng để tạo nên sự gắn kết giữa các
thành viên trong lớp, giúp các em có thêm niềm vui để đến trường sinh
hoạt và học tập tốt hơn.
Sau khi tìm hiểu tình hình tư tưởng của lớp, và nắm được những yếu
tố tác động đến ý thức, tác phong học tập của các em cùng những đặc điểm

6


cụ thể của lớp, tôi đã đề ra những biện pháp phù hợp để thực hiện quá trình
giáo dục của mình.
2. Tổ chức hoạt động nắm tình hình và tư tưởng nghỉ học của học sinh.
a. Tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh:

Vị trí vai trò của người giáo viên chủ nhiệm rõ ràng hết sức quan
trọng đối với chiều hướng duy trì sĩ số của một lớp. Để có thể đề ra những
giải pháp đúng đắn nhằm thực hiện trọn vẹn vai trò của mình, việc tìm hiểu
và nắm chính xác các thông tin về tình hình mọi mặt của lớp, nhất là vấn đề
bỏ học của học sinh là một công việc tốn nhiều công sức. Trong quá trình
tìm hiểu tình hình chung cần tập trung chú ý đến khả năng học tập và hoàn
cảnh gia đình của các em; đặc biệt lưu ý đến những em học sinh vốn đã học
yếu lại có hoàn cảnh gia đình khó khăn .
Để nắm tình hình về học sinh một các toàn diện, sâu sắc, tôi đã tiến
hành nhiều hoạt động.
Trước hết, tôi yêu cầu các em lập cho tôi một bản “sơ yếu lý lịch”
trích ngang. Nội dung của lý lịch ngắn gọn nhưng phản ánh đầy đủ các
thông tin về tình hình gia đình (nghề nghiệp của cha mẹ, số nhân khẩu
trong nhà…), quan hệ gia đình - xã hội (tôn giáo, diện chính sách xã

hội…). Sau đó tôi lập một phiếu điều tra để tìm hiểu về khả năng, sở
trường, các tâm tư, nguyện vọng và một số nội dung liên quan tới cuộc
sống của các em ở gia đình. Tập hợp lý lịch và phiếu điều tra của từng em,
xem xét nghiên cứu và tôi đã có thể nắm những nét khái quát về từng em
và gia đình (những em có hoàn cảnh đặc biệt được tôi lưu ý nhiều hơn, tôi
đánh dấu sao ( *) ở đầu danh sách để ghi nhớ).
Công tác điều tra, thu thập thông tin được tôi hết sức quan tâm. Qua
tập hợp nội dung sơ yếu lý lịch, phiếu điều tra, tôi thống kê, phân loại được
các số liệu về lớp tôi phụ trách công tác chủ nhiệm như sau:
Về thành phần gia đình, xã hội: Lớp có 07 học sinh người dân tộc
JaRai, 03 em thuộc đối tượng con thương binh. Có 03 em học sinh lưu
ban . Về tôn giáo có 12 em gia đình theo đạo Phật, 05 em theo Thiên Chúa
Giáo. Địa bàn cư trú của đa số các em thuộc vùng Trà Bá, Phù Đổng
Pleiku.
Về thành phần kinh tế: 16 em thuộc gia đình sinh sống bằng nghề
nông, 14 em thuộc thành phần buôn bán nhỏ và cán bọ, công chức nhà
nước, 12 em có cha, mẹ làm các nghề tự do (thợ nề, thợ mộc, chạy xe ôm,
làm nghề theo thời vụ…). Trong số những học sinh có cha mẹ, làm nông,
buôn bán, tôi tiếp tục phân loại cụ thể hơn và xác định được: có 12 em
thuộc gia đình nông dân nghèo hoặc buôn bán hàng rong mà số nhân khẩu
trong nhà lại đông.
7


Về đặc điểm tình hình chung của lớp: Ban cán sự lớp có tinh thần
làm việc tốt, nhiệt tình. Tuy vậy, lớp vẫn còn những hạn chế về nề nếp, ý
thức học tập chưa cao. Đặc biệt là tình trạng học yếu của một số em ở trong
diện gia đình nghèo. Một số em có nhà ở cách trường rất xa, gia đình lại
khó khăn, không mua được xe đạp nên việc đi lại học tập của các em lại
càng khó khăn hơn (như em Hoan, em Minh). Bên cạnh đó còn có một số

em thiếu sự quan tâm lo lắng của gia đình. Những phụ huynh của các em
này hầu như giao khoán việc học của con em họ cho nhà trường (em Mai,
Hà, Thái, Dung). Có em, dù còn ít tuổi nhưng ngoài các buổi đi học ở
trường còn phải tự làm việc để kiếm tiền lo cho việc học và phụ giúp gia
đình.
Thực hiện công tác điều tra nêu trên, đã giúp tôi có một bức tranh
tổng thể về lớp chủ nhiệm và những công việc mà tôi phải thực hiện trong
năm học. Sau đó, để hiểu về các em một cách rõ ràng và có tính chính xác
cao hơn tôi đã tìm gặp trao đổi với những người liên quan đến các em (giáo
viên chủ nhiệm năm học trước, một số giáo viên bộ môn có tâm huyết và
dạy môn học có số tiết được phân bố nhiều như Toán, Văn…; bạn cùng
xóm, cùng trường…). Ngoài ra, để tìm hiểu và đánh giá các em một cách
khách quan, chân thực hơn tôi còn phải để thời gian và tập trung chú ý
quan sát các em qua các hoạt động như lao động, sinh hoạt văn nghệ, kể cả
cách chơi đùa của các em trong giờ giải lao. Qua tìm hiểu tôi thấy c ó em
sống trong gia đình rất nghèo nhưng lại được sự quan tâm chu đáo của bố mẹ.
Có em sống trong gia đình rất sung túc nhưng bố mẹ lại thờ ơ đến việc giáo
dục con em. Có em phải làm việc nhiều hơn là học. Và cũng có em sống trong
hoàn cảnh hết sức đặc biệt như mồ côi, gia đình không hạnh phúc… và như
vậy cứ mỗi một hoàn cảnh đều liên quan đến đạo đức, học tập của các em từ
đó có nguy cơ dẫn đến các em bỏ học, vi phạm đạo đức hoặc giao du với
những phần tử xấu của xã hội.
Công việc cực kỳ quan trọng (không thể bỏ qua) tiếp theo là thăm
hỏi gia đình học sinh. Vì không thể bố trí đủ thời gian để đi đến tất cả mọi
gia đình của các em trong lớp, tôi phải ưu tiên chọn ra một số em để đi
thăm, ưu tiên số một là học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn,
cha mẹ làm nông hoặc làm các nghề tự do, buôn bán nhỏ lẻ ở chợ. Sau đó
là các em thuộc gia đình chính sách xã hội và các thành phần khác. Với
trình tự như thế, tôi bố trí lịch đến thăm vào các ngày chủ nhật hoặc các
ngày tôi rảnh rỗi. Có em tôi báo trước thời gian nhưng cũng có em tôi đi

bất chợt để tạo sự bất ngờ cho các em, đồng thời cũng nhằm giúp tôi nắm
tình hình cuộc sống, sinh hoạt của các em chính xác hơn.
Qua tìm hiểu tôi được biết trong lớp có em Hậu thường hay đi học
muộn, nghỉ học vô lý do, đến lớp không thuộc bài hay ngủ gục, hay cáu gắt,
nổi nóng, có tư tưởng bỏ học. Tìm hiểu cụ thể, tôi được biết gia đình Hậu rất
8


nghèo, bố phải đi làm xa, mẹ hàng ngày phải chở hàng lên tận huyện
Chưprông, sáng đi sớm tối mịt mới về. Mọi công việc hàng ngày em phải tự
lo liệu, như sáng đưa em đến nhà trẻ xong em đi học, trưa về tự lo ăn
uống ...Vì thế nên có lúc em không ăn, để số tiền mẹ cho đi chơi điện tử, dẫn
đến cơ thể em ngày càng xanh sao, người lờ đờ, lên lớp em cứ nằm dài ra bàn
không muốn học. Đó là chưa kể đến em không làm bài không thuộc bài
thường xuyên và ở tất cả các môn học, bị nhắc nhở nhiều nên em có tâm lý
chán nản, muốn bỏ học. Tôi đã đến gia đình trao đổi, phân tích cho bố mẹ
Hậu biết rõ tình hình của em trên trường và tìm cách giải quyết: vào ban ngày
đưa em về gửi ở nhà một người cô để được chăm sóc ăn uống và quản lí giờ
học. Dần dần cùng với sự kèm cặp của bạn lớp phó học tập và sự theo dõi,
nhắc nhở của tôi em đã có nhiều tiến bộ.
Hoạt động sau cùng của nội dung điều tra nắm tình hình là tiếp xúc,
tâm sự bằng việc bố trí thời gian nói chuyện riêng với các em. Việc này tôi
xếp sau cùng; vì đây là khâu cuối của tìm hiểu nhưng là khâu mở đầu cho
hoạt động sư phạm của tôi. Xác định rằng, việc trao đổi, đàm thoại với các
em sẽ giúp tôi hiểu cụ thể hơn những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của các
em, cho nên tôi chuẩn bị kỹ từng nội dung trao đổi với từng em. Đặc biệt là
những em tôi đã ghi dấu (*) để ghi nhớ, tôi càng chuẩn bị kỹ hơn. Không
những chuẩn bị nội dung các vấn đề cần tìm hiểu mà tôi còn dự kiến luôn
những tình huống các em sẽ trả lời hoặc có thể hỏi lại tôi.
b. Tìm hiểu diễn biến tâm lý của học sinh

Như chúng ta đã biết đối với học sinh ở lứa tuổi thiêu niên đã có những
biến đổi đáng kể về đời sống tâm lý, các em thích được làm người lớn, muốn
được người lớn tôn trọng và xác nhận việc làm của mình.Vì thế chúng ta phải
hết sức khéo léo và ứng xử phù hợp với lứa tuổi các em. Nếu không các em
dễ dàng bị tự ái hoặc bị tổn thương.
Trường hợp ở lớp có em Thịnh. Thịnh sinh ra trong một gia đình khá
giả và trí thức. Bố là kỹ sư cầu đường làm việc tại Hoàng Anh. Mẹ là y tá của
bệnh viện đa khoa thành phố. Bản thân em học giỏi nhưng thường hay cúp
giờ, đánh nhau, bỏ nhà đi. Tìm hiểu kỹ tôi được biết bố em là người rất
nguyên tắc và cứng nhắc. Mọi hoạt động của em được bố quản lý một cách
chặt chẽ, sáng đưa đi học, trưa đón về… Còn mẹ em là người đàn bà yếu đuối
quá nuông chiều con, chăm sóc cho em từng ly từng tý. Mỗi khi em yêu cầu
gì mẹ em đều đáp ứng: nào là mua cho xe đạp xịn, điện thoại di động... Khi
em vi phạm tôi gọi điện, có khi gặp trực tiếp trao đổi thì chị luôn tỏ ra bênh
vực con, cho con mình là ngoan và luôn giấu ba em về những sai phạm hay
những đòi hỏi quá đáng của em.
Trong một lần tâm sự, em đã thổ lộ với tôi, em nghĩ rằng bố em không
tin em, còn mẹ em cứ xem em như một đứa bé. Tôi biết em đã bị tổn thương
vì nghĩ bố không tin mình và tự ái vì không được làm người lớn. Tôi đã trao
đổi với gia đình nên thay đổi cách giáo dục em, nên động viên giúp đỡ em là
9


chính, không nên áp đặt con theo cách nghĩ của mình hoặc quá nuông chiều
con. Từ đó Thịnh đã dần dần thay đổi.

3. Các giải pháp thực hiện:
Việc xây dựng tập thể lớp vững mạnh, đoàn kết thân ái là vấn đề hết
sức cần thiết trong công tác của một giáo viên chủ nhiệm. Vì sống và sinh
hoạt trong tập thể tốt các em sẽ học được tinh thần làm chủ, tình nhân ái

đoàn kết yêu thương nhau. Những tình cảm tốt đẹp giữa các em sẽ nảy sinh
trong cộng động lớp hoà hợp. Đó là lí do khiến tôi phải khẩn trương tiến
hành các hoạt động để xây dựng lớp thành tập thể đoàn kết, thân ái và vững
mạnh.
Vào học hơn một tháng, lớp có một bạn bị ốm khá nặng (em tên là
Thái - một trong 5 học sinh thuộc diện học yếu lại hay vi phạm về tác
phong tôi đã nêu trên), em phải nghỉ học trong ba ngày liên tiếp. Nhân cơ
hội này tôi động viên, bố trí cán bộ lớp và một nhóm học sinh tổ chức đến
thăm và phân công thay nhau ghi chép lại những bài mà em Thái thiếu
trong thời gian nghỉ ốm. Việc đến thăm và ghi chép bài giúp bạn khi bạn
nghỉ học vì đau ốm là vấn đề bình thường trong các lớp học phổ thông.
Nhưng ở đây, qua điều tra thăm dò đầu năm, tôi đã biết về khả năng và ý
định nghỉ học của em Thái. Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cha
làm thợ mộc, mẹ bán rau ở chợ, nhà có 5 anh em, em là con lớn nhất. Thu
nhập kinh tế thấp và thất thường của cha mẹ cũng đã ảnh hưởng đến ý thức
và kết quả học tập của em. Qua kiểm tra hồ sơ, học bạ ở các lớp 6, 7 của
em, tôi được biết, em đã hai năm học yếu và cũng đã hai lần thi lại để lên
lớp. Với một lần đến thăm gia đình, tôi đã gặp cha của em, sau một hồi trao
đổi, tuy chưa nói rõ, nhưng tôi cũng nắm bắt được ý định của cha em Thái
là: cho con nghỉ học để đi làm phụ giúp gia đình. Như thế, nếu không có sự
giúp đỡ, tác động của nhà trường và các thầy cô giáo, chắc chắn em Thái
sẽ phải nghỉ học.Việc tổ chức các bạn trong lớp đến thăm và giúp em Thái
là một trong các giải pháp tác động của tôi nhằm ngăn chặn khả năng bỏ
học của em. Tôi cử ban cán sự lớp và 5 học sinh (do tôi chọn lựa sau khi đã
suy nghĩ cẩn thận) tổ chức đi thăm. Những học sinh tôi chọn đi đều là
những em có hoàn cảnh tương tự như em Thái. Các em nhiều lần đến thăm,
trò chuyện và phân công nhau ghi chép những bài học mà em Thái đã mất
trong thời gian nghỉ học. Tôi chọn em có khả năng học tốt nhất (trong số
các em đi thăm) giảng giải lại những bài khó cho em Thái. Sự thân thiện,
quan hệ tốt giữa những người bạn học cùng lớp, cùng cảnh ngộ đã tác động

không những đến bản thân em Thái mà còn có tác động phụ đến gia đình,
làm thay đổi dần suy nghĩ của cha em Thái.
Sự quan tâm giúp đỡ chu đáo và tận tình của ban cán sự lớp không
những đã giúp cho em Thái nhanh chóng khỏi bệnh mà còn có tác dụng
10


khác lớn hơn. Em Thái, sau khi đi học trở lại đã trở nên thân thiện, cởi mở
hơn với bạn bè trong lớp. Em vui vẻ, gần gũi và nghe lời góp ý của các
bạn, em mặc đồng phục gọn gàng khi đến trường. ý thức và thái độ học tập
của em tiến bộ rõ rệt.
Để đảm bảo hiệu quả vững chắc trong việc giúp em Thái không bỏ
học, cần có sự tác động phối hợp giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp, những
thầy cô giáo dạy các bộ môn văn hóa trong lớp. Tôi trình bày hoàn cảnh
của em với những giáo viên có tâm huyết và đề nghị họ quan tâm giúp đỡ
em Thái. Tôi được sự đồng tình của các bạn đồng nghiệp. Em Thái được
động viên lên bảng giải những bài tập, trả lời những câu hỏi từ dễ đến khó.
Đạt được những điểm số khá cao tương ứng, em càng phấn khởi và ý thức
ham học càng được khơi gợi rõ hơn.
Sau khi em Thái đi học một thời gian, tôi lại đến thăm gia đình em,
gặp mẹ em và tôi nêu về tiến bộ trong việc học tập của em đồng thời thăm
dò thái độ, suy nghĩ của gia đình về việc học của em. Mẹ em hết sức vui
mừng, với tâm trạng phấn khởi, mẹ em bộc lộ với tôi: “Chúng tôi nghĩ
rằng, cháu nó học quá yếu, gia đình lại hết sức khó khăn, trước đây cha
cháu định xin phép nhà trường cho cháu nó nghỉ học đi phụ thợ hồ với bác
của cháu, kiếm thêm thu nhập đỡ gánh nặng cho gia đình. Vì cháu có học
nữa, chắc cũng không làm nên cơm cháo gì”. Sự vui mừng và lời tâm sự
chân tình của mẹ em đã giúp tôi khẳng định được hiệu quả của giải pháp
tôi thực hiện.
Biện pháp phối hợp với các lực lượng xã hội (Chi hội phụ huynh học

sinh, hội khuyến học, chính quyền địa phương): Đây là nhóm giải pháp có
tầm quan trọng đặc biệt và có cơ sở để thực hiện tốt. Trên danh nghĩa, các
tổ chức này đều đã được thành lập và hoạt động, còn hiệu quả hoạt động
thực tế của nó đạt được như thế nào còn tùy thuộc vào nhiều nhân tố tác
động khác. Nếu nhà trường (cụ thể là giáo viên) biết kết hợp tốt phương
thức giáo dục “gia đình - nhà trường – xã hội” thì các lực lượng xã hội sẽ
phát huy tốt vai trò của mình trong lĩnh vực giáo dục. Bởi, trong 3 yếu tố
nêu trên, nhà trường (mà trách nhiệm chính là giáo viên) được đặt ở vị trí
trung gian. Nhà trường có vai trò làm cầu nối giữa gia đình và xã hội . Nói
cụ thể: Giáo viên chủ nhiệm là người xây dựng mối quan hệ giáo dục giữa
xã hội với từng gia đình học sinh.
Trong buổi họp phụ huynh đầu năm, với chủ ý đã định, tôi đề xuất
thành lập Ban chấp hành chi hội, ngoài 3 người thường trực theo quy định
của nhà trường thì còn cử thêm 3 ủy viên khác. Tôi chọn cử 3 phụ huynh
có hoàn cảnh và con em có nguy cơ nghỉ học vì lý do kinh tế gia đình hoặc
vì lý do về khả năng học tập thấp của các em. Tôi vận động đưa 3 người
này vào Ban chấp hành chi hội phụ huynh của lớp với tư cách ủy viên
11


không thường trực. Giữa giáo viên và Ban chấp hành chi hội có sự cam kết
thống nhất về nhiệm vụ và hoạt động. Trong đó, tôi hết sức lưu ý đến việc
đảm bảo mục tiêu duy trì sĩ số của lớp, trách nhiệm của Hội khi có học sinh
bỏ học.
Trong quá trình diễn biến của năm học, gần cuối học kỳ I có một học
sinh do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn, đã nghỉ học. Tôi báo với
Thường trực của Hội phụ huynh biết và Hội đã phát huy vai trò của mình.
Họ đã tập hợp Ban chấp hành, liên hệ với cán bộ Khuyến học, chính quyền
địa phương, tổ chức đi đến nhà em Huệ, học sinh nghỉ học, trao đổi nói
chuyện với gia đình em. Được biết, nhà em Huệ có 4 anh chị em, Huệ là

con thứ hai. Kinh tế khó khăn, mẹ bán rau ở chợ, cha làm thợ nề, thu nhập
của gia đình rất bấp bênh, vì vậy, mặc dù muốn con được học hành để có
được vốn văn hóa làm hành trang cho cuộc sống sau này, nhưng gia đình
bất lực, không đủ lo cho con. Trước tình hình đó, Ban chấp hành chi hội
quyết định tổ chức cuộc vận động quyên góp trong phạm vi các phụ huynh
của lớp. Số tiền quyên góp được tuy không nhiều nhưng cũng đủ mua cho
em Huệ 1 chiếc xe đạp cũ nhưng còn rất tốt và một số tiền để em mua sách
vở, dụng cụ học tập. Trở lại thăm nhà em Huệ lần thứ hai, với món quà đầy
ý nghĩa, Hội phụ huynh đã làm cho cha, mẹ em Huệ rất xúc động. Gia đình
em cảm kích trước hoạt động năng động và tấm lòng của Hội phụ huynh.
Việc làm này đã tiếp thêm sức mạnh cho họ và họ đã động viên em Huệ đi
học trở lại.
Sự tham gia của nhiều lực lượng, nhiều tiếng nói khác nhau kết hợp
với một sự giúp đỡ nhỏ và chân tình về vật chất của Hội đã tác động mạnh
đến tư tưởng, tình cảm và suy nghĩ của gia đình em Huệ. Việc em Huệ trở
lại trường học đã khẳng định điều này.
Biện pháp phát huy vai trò của cộng đồng: Đây là giải pháp khó thực
hiện nhưng sẽ phát huy hiệu quả tốt nếu vận dụng đúng trong bối cảnh cụ
thể, đặc biết đối với những vấn đề liên quan tới học sinh người dân tộc
thiểu số tại địa phương. Tập tục và luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng từ trước đến nay vẫn luôn
tin tưởng và tôn trọng già làng. Uy tín và ảnh hưởng của già làng đối với
các thành viên trong làng rất lớn, xét về góc độ cộng đồng và xã hội thì
tiếng nói của họ có lúc còn có tác dụng mạnh hơn cả tiếng nói của chính
quyền địa phương. Hiểu rõ tập tục này, tôi hết sức quan tâm vận dụng nó
khi có những trường hợp học sinh người dân tộc thiểu số bỏ học.
Lớp tôi chủ nhiệm có 7 em học sinh người dân tộc JaRai. Các em
sống ở làng Plei Ngõ. Kết thúc học kỳ I của năm học, em Rơ Mah Khan
nghỉ học. Qua tìm hiểu, tôi được biết: Sở dĩ em nghỉ học vì kết quả học kỳ
I của em quá thấp, xếp loại học lực kém. Kiểm tra lại sơ yếu lý lịch trích

12


ngang, tôi xác định được: em là con thứ 3 trong gia đình. Cha, mẹ làm
nông. Anh và chị của em đã học xong chương trình trung học phổ thông,
đang làm việc cho một cơ sở chế biến lâm sản. Tình hình kinh tế gia đình
không đến mức khó khăn. Tôi đến làng em Khan và tìm gặp già làng. Tôi
trình bày việc học của các em học sinh dân tộc ở lớp tôi hiện đang sống ở
làng đồng thời cho già làng biết về trường hợp nghỉ học của em Khan, sau
đó đề nghị già làng giúp đỡ tôi, cùng tôi vận động gia đình và em Khan để
em đi học lại. Nhằm bảo đảm hiệu quả của công việc, tôi gợi ý với già làng
một số nội dung cần trao đổi với gia đình em. Trong đó, tôi nhấn mạnh ý:
có học thì mới có việc làm và có cuộc sống tốt như anh chị của em Khan.
Già làng và tôi cùng đến gặp gia đình em. Tại đây, tôi không còn thể hiện
vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Tất cả đều do già làng chủ động nói
chuyện với cha mẹ và anh chị của em Khan. Họ nói chuyện với nhau bằng
tiếng JaRai. Tôi không hiểu gì nhưng qua cử chỉ và thái độ của những
người tham gia đối thoại, tôi biết chắc chắn rằng em Khan sẽ được yêu cầu
đi học lại. Gần cuối buổi tiếp xúc, tôi mới trao đổi với anh, chị của Khan
một số vấn đề về khả năng và ý thức học tập của em Khan. Tôi nói rõ: sở dĩ
em học yếu, kết quả thấp là do ham chơi, không chịu học. Qua trao đổi, tôi
cũng biết được em Khan chỉ thích vào các làng bắt chim, bắt cá hơn là học
bài, làm bài. Tôi đề nghị gia đình quản lý tốt hơn việc “bắt chim, bắt cá”
của em Khan, yêu cầu em học cũng phải tốt như “bắt chim, bắt cá”. Biết
được tâm lý học sinh người dân tộc rất dễ tự ái, mặc cảm, khi em Khan đi
học trở lại, tôi không nói gì, chỉ lặng lẽ đề nghị các giáo viên bộ môn quan
tâm giúp đỡ em hơn. Nhưng để bảo đảm chắc chắn hơn, qua em Khan tôi
gửi lời cám ơn đến với già làng kèm theo một món quà nhỏ của tôi nhờ em
Khan trao giúp. Thực hiện việc này, tôi đã xây dựng được một chỗ dựa của
mình ở làng và đó chính là nhân tố góp phần ngăn chặn việc bỏ học trở lại

của em Khan.
Cũng qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, tôi rút được kinh
nghiệm: Để hỗ trợ tốt cho giáo viên trong việc quản lý lớp nói chung, duy
trì sĩ số của lớp nói riêng thì việc có một Ban cán sự lớp năng động, tích
cực và học tốt, có uy tín là điều không thể thiếu được. Biết được điều này,
trong quá trình tổ chức bộ máy cán bộ lớp tôi hết sức quan tâm việc chọn
nhân sự và luôn theo dõi quá trình, cung cách làm việc của các em. Nhờ
xây dựng bộ máy cán bộ lớp tốt, các em đã giúp tôi thực hiện tốt nhiều
việc. Thực tế ở lớp tôi chủ nhiệm, có học sinh bỏ học vì những lý do tế nhị
mà em không bao giờ nói được với thầy cô giáo hoặc với cha mẹ. Những
vấn đề tế nhị đó chỉ được trao đổi hẹp trong nội bộ các em với nhau. Vì
vậy, qua các thành viên trong Ban cán sự lớp, tôi luôn tìm cách tìm hiểu,
nắm thông tin về hoàn cảnh, suy nghĩ của học sinh khi có em bỏ học, nghỉ
học. Trên cơ sở hiểu rõ nguyên nhân nghỉ học của các em, tôi mới có cách
13


xử lý phù hợp. Cụ thể, ở lớp tôi chủ nhiệm có em Mai, một học sinh nữ, có
hoàn cảnh gia đình khá khó khăn, học lực trung bình, hạnh kiểm tốt bỏ học
ngay sau khi sơ kết học kỳ I. Việc em Mai bỏ học nằm ngoài dự kiến của
tôi. Gia đình của em có khó khăn nhưng không phải quá khó đến mức phải
nghỉ học. Với lực học của em thì lý do em bỏ học chắc chắn không phải vì
học yếu. Tôi gọi em Đức, lớp trưởng và là một học sinh được bạn bè yêu
mến, tin cậy. Tôi bảo em tìm hiểu và cho tôi biết lý do em Mai bỏ học.
Bằng cách thăm dò các bạn trong lớp, em Đức báo cho tôi rõ: Mai bỏ học
vì gia đình khó khăn. Suốt cả học kỳ I, Mai đến trường chỉ với một bộ đồng
phục (quần xanh, áo trắng) duy nhất. Tôi dự đoán: Em Mai là một học sinh
nữ, tính tình hiền lành, ít nói, không đua đòi ăn diện nhưng ở lứa tuổi các
em, các em dễ buồn và mặc cảm với bạn bè trong cách ăn mặc nên đã bỏ
học.

Đây là trường hợp bỏ học vì một lý do tế nhị, vì vậy, đầu tiên tôi
gặp và nói chuyện tâm tình với em như một người bạn cùng cảnh ngộ để
giải tỏa một phần tư tưởng mặc cảm của em. Sau đó, tôi đến thăm gia đình,
hỏi về việc bỏ học của em. Cha mẹ em cũng không hiểu rõ vì sao em bỏ
học. Họ bảo rằng: em chán học, nghỉ học vì học không nổi, theo không kịp
bạn bè. Tôi tìm cách gặp riêng mẹ em và trình bày cho mẹ em biết về khả
năng, lực học của em đồng thời nêu rõ những điều tôi biết được về nguyên
nhân bỏ học của em (qua tìm hiểu ở các học sinh trong lớp và qua tâm sự
của em). Mẹ em, với bản năng của một người phụ nữ, nhận thức nhanh
được vấn đề và tìm cách khắc phục tế nhị theo hướng gợi ý của tôi. Kết quả
thật đáng phấn khởi, em Mai đi học trở lại với bộ quần áo mới và nụ cười
tự tin hơn .
Trong thời gian làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã có lần thực hiện
không thành công việc vận động học sinh bỏ học đi học trở lại. Đó là
trường hợp của em Sơn, một học sinh nam, với hoàn cảnh cá nhân khá đặc
biệt: do kinh tế gia đình khó khăn, nhà ở xa trường, bước vào học lớp 1
muộn 01 tuổi, dù tuổi lớn so với bạn bè cùng lớp nhưng khả năng tư duy
của em rất chậm, do đó em không theo kịp bạn bè. ở lớp 4, bậc Tiểu học,
em bị lưu ban. Bước vào bậc Trung học cơ sở, em lại tiếp tục lưu ban ở lớp
7. Năm học lớp 8 do tôi chủ nhiệm, qua khảo sát đầu năm, lực học của em
rất kém, đến hết học kỳ 1, kết quả vẫn không thay đổi. Kinh tế gia đình
thuộc diện rất khó khăn. Tôi biết rõ, em đã cố gắng hết mình để theo học.
Thế nhưng, lực học và tình hình kinh tế gia đình em không thể đáp ứng
được. Sau khi sơ kết học kỳ I, em tìm gặp tôi và xin nghỉ học. Việc này
không tạo cho tôi một sự ngạc nhiên nào cả, bởi vì tôi đã xác định trước
điều này. Biết việc nghỉ học của em là điều tất yếu, nhưng với lương tâm
và trách nhiệm của một giáo viên, tôi cũng thử sử dụng hết tất cả các giải
pháp có thể sử dụng (huy động sức mạnh của Ban chấp hành Hội phụ
14



huynh, Hội khuyến học, tập thể lớp, trao đổi với gia đình...). Tất cả đều
không hiệu quả. Em vẫn nghỉ học. Tại sao như thế?
Thực tế nêu trên làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều để rồi đi đến khẳng
định: Em nghỉ học là điều không thể thay đổi, bởi vì, với độ tuổi của em,
các bạn cùng lứa đã ngồi học ở lớp 11 bậc THPT, nếu có tiếp tục học, em
cũng có khả năng tiếp tục lưu ban ở năm lớp 8 và khả năng này là rất lớn.
Tình hình kinh tế gia đình không cho phép em được lưu ban một lần nữa.
Qua phân tích, nhận định như thế, tôi quyết định dừng các cố gắng tác
động của mình, chấp nhận thất bại với lời động viên cuối cùng của tôi với
em: “Có nhiều con đường để bước vào đời, không học ở nhà trường phổ
thông, em có thể vừa đi làm giúp cha mẹ, vừa đi học ở các lớp bổ túc văn
hóa vào ban đêm để có vốn văn hóa trang bị cho đời sống sau này”. Em đã
thực hiện đúng như lời khuyên của tôi, ban ngày đi phụ thợ hồ, ban đêm đi
học bổ túc văn hóa.
Việc giúp đỡ, động viên em tiếp tục học ở nhà trường phổ thông đã
vượt quá khả năng của nhà trường và tầm của một giáo viên chủ nhiệm lớp
như tôi. Mặc dù đã thất bại trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ học của em
Sơn nhưng tôi vẫn xin được nêu ra ở đây để các đồng nghiệp cùng suy nghĩ
và có thể có những giải pháp hiệu quả để thực hiện thành công.

15


PHẦN THỨ BA :
KẾT QUẢ VÀ VIỆC PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG
NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN
I.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua một số biện pháp thực hiện như đã nêu trên tơi thu được kết quả
thực tế đáng phấn khởi: sau ba năm học làm cơng tác chủ nhiệm lớp, tơi đã

vận động được 4/5 học sinh bỏ học và có nguy cơ bỏ học quay trở lại lớp,
con số khơng lớn nhưng đó cũng là niềm vui, phần thưởng vơ giá của tơi.
Từ kinh nghiệm năm học trước, với các biện pháp trên, tơi tiếp tục áp
dụng cho năm học này để hồn thành tốt cơng tác chủ nhiệm của mình. Từ
một lớp có học sinh dân tộc yếu – kém trong học tập lớp tơi đã có sự tiến
bộ rõ rệt.
Kết quả cụ thể học kỳ 1 năm học 2011 - 2012 như sau:
- Hạnh kiểm:

số
42

Tốt
TS
30

Khá
%
71,4

TS
12

%
28,6

Trung bình
TS
%
0


Yếu
TS
0

%

- Học lực:

số
42

Giỏi
TS
15

Khá
%
35,7

TS
13

%
31

Trung bình
TS
%
12

28,6

Yếu
TS
%
2
4.7

- Danh hiệu của lớp : Tiên tiến
- Chi đội đạt
: Vững mạnh xuất sắc
- Duy trì sĩ số

: 100%

II/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua nhiều năm trực tiếp làm cơng tác chủ nhiệm lớp. Đặc biệt trong
năm học 2011-2012 đến thời điểm này lớp tơi có nhiều tiến bộ rõ rệt, các
em học sinh dân tộc thiểu số, các em học sinh có hồn cảnh đặc biệt, hồn
cảnh khó khăn... đã đi học đầy đủ, chun cần và vươn lên học khá, tốt
16


không có em nào bỏ học giữa chừng. Nhiều học sinh tiến bộ, ý thức đạo
đức, tự giác trong học tập, có học sinh giỏi, có học sinh khá, học sinh trung
bình, không còn học sinh yếu kém. Bản thân tôi rút ra được những bài học
kinh nghiệm sau:
+ Đối với giáo viên:
Trước tiên, cần phải có tình thương yêu chân thành với học trò, hiểu
những chuyển biến về thể chất và tâm lý của các em trong giai đoạn

chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn. Thật sự hiểu sâu sắc và thông cảm
với những suy nghĩ, tâm tư của phụ huynh học sinh, nhất là đối với những
người ở trong gia cảnh mà kinh tế gặp khó khăn, điều kiện lo cho con ăn
học bị hạn chế. Đây là tiền đề và cũng là động lực thúc đẩy người thầy có
những suy nghĩ và giải pháp hoạt động đúng đắn để góp phần ngăn chặn
tình trạng bỏ học.
Từ tiền đề và động lực nêu trên, ngay từ những ngày đầu, khi nhận
trách nhiệm làm công tác chủ nhiệm, giáo viên phải thực sự quan tâm đến
vấn đề duy trì, đảm bảo sĩ số của lớp. Phải đặt mục tiêu duy trì, đảm bảo sĩ
số lớp ngang tầm với các mục tiêu giáo dục khác. Có kế hoạch thực hiện,
cùng những giải pháp được tính toán, cân nhắc, lựa chọn cẩn thận.
Thường xuyên quan tâm, theo dõi sĩ số của lớp, hết sức lưu ý đến
những đối tượng học sinh ở trong diện có khả năng bỏ học. Khi có học sinh
nghỉ học 2 ngày mà không có phép, không có lý do thì giáo viên chủ nhiệm
phải đến nhà học sinh này để tìm hiểu nguyên nhân từ đó vận động học
sinh và gia đình để em này tiếp tục đi học lại càng sớm càng tốt, không nên
để các em nghĩ học nhiều ngày vì nếu nghĩ lâu việc thuyết phục các em trở
lại trường sẽ gặp nhiều khó khăn. Phải làm cho các em thấy việc học vừa là
nghĩa vụ vừa là quyền lợi lại vừa là niền vui. Tuyệt đối tránh tình trạng để
các em nghỉ với thời gian quá lâu giáo viên mới xử lý nhằm hạn chế tư
tưởng e ngại và mặc cảm của các em.
Các giải pháp tuyên truyền, vận động học sinh (khi có học sinh bỏ
học) đi học trở lại, phải được suy nghĩ, chọn lựa thật thận trọng và tùy theo
nguyên nhân bỏ học, đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng em để có giải
pháp cụ thể. Khi học sinh đi học trở lại, giáo viên không chủ quan, cần có
những giải pháp hỗ trợ cần thiết giúp học sinh củng cố niềm tin, an tâm học
tập, vì có thể có tình trạng tái bỏ học. Nếu để hiện tượng tái bỏ học xảy ra
thì có lẽ sẽ không có biện pháp nào có thể làm cho học sinh đi học lại một
lần nữa.
Hãy giúp đỡ các em để các em tiếp thu được kiến thức một cách

đúng nghĩa, phải bám lấy học sinh để có những biện pháp thật phù hợp cho
từng đối tượng, từng hoàn cảnh cụ thể của từng em chứ không phải chỉ
17


giúp các em bám lớp, có như vậy các em mới có hứng thú trong học tập,
các em sẽ thực sự bám lớp.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp với học sinh dân tộc địa phương
chúng ta phải thật tế nhị và phải nhiệt tình dành nhiều thời gian và công
sức kết hợp với địa phương, với già làng, với hội khuyến học trường của
phường và với gia đình các em nếu thấy các em có nguy cơ bỏ lớp. Công
việc này có nhiều khó khăn nhất định nhưng với tình thương đối với các
em và lòng quyết tâm của giáo viên chúng ta nhất định chúng ta sẽ thành
công trong việc thuyết phục các em không bỏ lớp.
+ Đối với tập thể lớp:
Phải xây dựng tập thể lớp trở thành một tập thể đoàn kết, thân ái có
một không gian thân thiện, hòa hợp, thật sự trở thành một địa chỉ mà các
thành viên có thể cảm nhận được sự chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cá nhân.
+ Đối với các lực lượng phối hợp:
Biết kết hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn để có thông tin đầy
đủ và chính xác hơn về học sinh của mình tạo điều kiện giúp đỡ kèm cặp
những học sinh yếu kém.
Kết hợp với đoàn đội để kiểm tra và theo dõi thường xuyên, phát hiện
kịp thời những em vi phạm để có hướng giúp đỡ các em tiến bộ.
Kết hợp với địa phương phát hiện và ngăn chặn kịp thời những em giao
du với phần tử xấu của xã hội, động viên những học sinh có tư tưởng bỏ học.

Giáo viên chủ nhiệm là người đóng vai trò trung tâm trong hoạt động
duy trì sĩ số học sinh. Các lực lượng khác (giáo viên bộ môn, Đoàn Thanh
niên, Đội Thiếu niên, Hội cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương, già

làng, trưởng thôn…) là những lực lượng hết sức quan trọng. Giáo viên chủ
nhiệm không thể nào thực hiện được mục tiêu duy trì sĩ số nếu không thực
hiện được vai trò trung tâm của mình, không tạo được sự hỗ trợ tổng hợp
và tận tình của các lực lượng này.
III.KẾT LUẬN :
Việc duy trì sĩ số học sinh là nhiệm vụ quan trọng trong công tác dạy
và học của các nhà trường. Đặc biệt làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh
(đặc biệt là học sinh dân tộc) là góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của
nhà trường góp phần phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở địa phương.
Từ thực tế tôi nhận thấy, duy trì sĩ số học sinh hơn hết đòi hỏi người
giáo viên phải có sự đam mê nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao, hết
lòng vì học sinh. Cảm nhận và chia sẻ với những tâm tư, nguyện vọng và
hoàn cảnh mà các em học sinh phải vượt qua. Người làm nghề dạy học như
18


chúng ta ngoài chữ “tâm” còn phải có chữ “nhẫn”. Dạy học sinh không
phải chỉ bằng những quy định hà khắc mà phải bằng sự thuyết phục, cảm
hóa , động viên, khích lệ. Muốn chinh phục học sinh có hiệu quả, bản thân
giáo viên phải là tấm gương sáng, mẫu mực trong từng lời ăn tiếng nói,
trong cách ứng xử với học sinh. Đối xử với học sinh phải công bằng khách
quan nhưng vẫn đảm bảo sự tế nhị cần thiết.
Đồng thời, giáo viên phải tạo được sự gần gũi, thân thiết với học
sinh, làm sao phải xoá bỏ được cảm giác e ngại của các em, có như thế thì
các em sẽ mạnh dạn bày tỏ những điều các em chưa biết hoặc biết chưa sâu
để từ đó giáo viên dễ dàng giúp các em tự giác học tập, yêu mến thích thú
khi được đến trường, “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Để có một nền giáo dục phát triển không phải chỉ là nhiệm vụ và do
nhà trường quyết định mà còn phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp
ngành và phụ huynh học sinh, của toàn xã hội. Giáo viên chủ nhiệm phải

tranh thủ được sự giúp sức về mọi mặt của chính quyền địa phương và sự
đồng tình ủng hộ của tất cả các bậc phụ huynh, nhất là phụ huynh học sinh
dân tộc. Bởi thời gian các em ở nhà nhiều hơn đến lớp, những tác động từ
gia đình và địa phương ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và quá trình
phát triển nhân cách của các em.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra sau
nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp. Trong quá trình trình bày không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp của các
bạn đồng nghiệp để tôi có được những kinh nghiệm hữu ích trong quá trình
làm công tác chủ nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

19


MỤC LỤC
Tr
ang
PHẦN I: Đặt vấn đề …………………………………….....……………..1
PHẦN II. Nội dung nghiên cứu.................................................................3
I. Vị trí,vai trò, tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm với với
vấn đề duy trì sĩ số học sinh ........................................................................3
II. Tìm hiểu tình hình nghỉ, bỏ học của học sinh và các biện
pháp ngăn ngừa, vận động.............................................................................5
1. Đặc điểm tình hình của lớp.......................................................................5
2. Tổ chức hoạt động nắm tình hình và tư tưởng nghỉ học
của học sinh...................................................................................................7
a. Tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh..............................................................7
b. Tìm hiểu diễn biến tâm lý của học sinh....................................................9
3. Các giải pháp thực hiện.......................................................................... 10

PHẦN III: Kết quả và việc phổ biến ứng dụng nội dung
vào thực tiễn...............................................................................................16
I. Kết quả đạt được .................................................................................…16
II.Bài học kinh nghiệm………………….…………..……………………16
III. Kết luận ………………………………………………………….…...18

20



×