Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Hủy kết hôn trái pháp luật theo luật HNGĐ 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.21 KB, 56 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Luật Hà Nội, các
thầy giáo, cô giáo trong khoa pháp luật Dân sự nói chung và các thầy giáo, cô
giáo trong tổ bộ môn Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng đã tạo điều kiện thuận
lợi trong thời gian qua để em có thể thực hiện khóa luận này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo, Thạc sĩ
Bùi Thị Mừng đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp của mình.
Qua đây, em cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bố mẹ cùng các
bạn của em, những người luôn động viên, khích lệ em trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận tốt nghiệp.

`

Hà Nội, ngày 31 tháng 3 năm 2015
Sinh viên
Vì Thị Phương Thảo

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết luận,
số liệu trong khóa luận là trung thực, đảm bảo độ tin cậy.

Xác nhận của giảng viên
hướng dẫn

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Vì Thị Phương Thảo



2


CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
BLTTDS
Luật HN&GĐ

Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng Dân sự
Luật Hôn nhân và gia đình

3


MỤC LỤC

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng mỗi con người, là môi
trường quan trọng hình thành và giáo dục tính cách của các thành viên trong gia
đình. Gia đình phát triển bền vững, xã hội sẽ lành mạnh, mọi người đều có cơ
hội phát triển và hưởng hạnh phúc. Gia đình lỏng lẻo, không đảm bảo tốt các vai

trò, chức năng của mình thì xã hội có nguy cơ bị xáo trộn, ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội.
Hiện nay, đi ngược với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều tập tục, lề thói cũ
trong hôn nhân và gia đình vẫn tồn tại, tái xuất hiện ở một số địa phương. Bên
cạnh đó, những quan niệm và biểu hiện của lối sống phương Tây đã du nhập vào
nước ta, tác động tới tư tưởng và lối sống của một bộ phận không nhỏ nam, nữ
thanh niên, làm cho quan hệ hôn nhân và gia đình chuyển biến nhiều chiều, trong
đó có chiều hướng tiêu cực. Hiện tượng kết hôn vi phạm các đìêu kiện kết hôn
theo quy định của pháp luật vẫn diễn ra ở hầu hết các địa phương, khá phổ biến
và trở thành một vấn đề cấp thiết của xã hội.
Kết hôn trái pháp luật có những tác động tiêu cực đến quan hệ đời sống gia
đình và nhân cách của chủ thể trong quan hệ hôn nhân, phần nào cản trở sự
nghiệp xây dựng nếp sống văn minh, gia đình mới ở nước ta, ảnh hưởng đến kỉ
cương và sự phát triển chung của xã hội. Do đó, qua việc nghiên cứu để tài “Hủy
kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”, em mong
có thể làm sáng tỏ nhận thức chung về hủy kết hôn trái pháp luật; góp ý kiến của
bản thân để việc hủy kết hôn được thực hiện triệt để, phù hợp với đạo đức.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Còn ít công trình nghiên cứu chuyên sâu và nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau về hủy kết hôn trái pháp luật. Hủy kết hôn trái pháp luật được đề cập trong
một số công trình nghiên cứu như: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Đại học
5


Luật HN và Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Đại học Xã hội và nhân văn
coi hủy kết hôn trái pháp luật là một bộ phận của khoa học luật HN&GĐ; tác
phẩm Từ những cuộc hôn nhân bất hợp pháp”- Nguyễn Thành Long tiếp cận

dưới góc độ thực trạng hủy kết hôn trái pháp luật. Các công trình nghiên cứu cụ
thể như: Luận văn Thạc sỹ: “Hôn nhân trái pháp luật- căn cứ xác định và biện
pháp xử lí” của tác giả Ngô Thị Hường; khóa luận tốt nghiệp: “Hủy kết hôn trái
pháp luật- cơ sở lí luận và thực tiễn áp dụng”- Định Thị Thảo; khóa luận tốt
nghiệp: “Hủy kết hôn trái pháp luật”- Hà Hương Giang.
Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2015 với nhiều thay đổi, bổ sung nên hủy kết hôn trái pháp luật theo Luật
HN&GĐ năm 2014 chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một
cách toàn diện và đầy đủ.
3.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về đề tài nhằm làm sáng tỏ lí luận và thực tiễn áp dụng việc hủy
kết hôn trái pháp luật trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực và dự báo
một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Luật HN&GĐ năm 2014 về hủy kết
hôn trái pháp luật. Từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp, kiến
nghị hoàn thiện những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng Luật HN&GĐ năm
2014 có thể gặp phải.
4.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là phân tích một số cơ sở lí luận xác định việc
kết hôn trái pháp luật, người có thẩm quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật,
hướng xử lý đối với các trường hợp có căn cứ hủy kết hôn trái pháp luật và một
số dự báo những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Luật HN&GĐ năm 2014.
5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài


Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cũng như đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hôn nhân và gia
6


đình, khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phường pháp tổng
hợp, phương pháp điểu tra xã hội học…
6.

Cơ cấu đề tài

Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, khóa luận gồm ba chương:
Chương 1. Lí luận chung về hủy kết hôn trái pháp luật.
Chương 2. Nội dung cụ thể về hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật HN&GĐ
năm 2014.
Chương 3. Một số dự báo về thực tiễn áp dụng hủy việc kết hôn trái pháp luật.

7


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỦY KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1.1.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1 Khái niệm kết hôn
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam hôn nhân được định nghĩa là:”thể chế

xã hội kèm theo những nghi thức xác nhận quan hệ tính giao giữa hai hay nhiều
người thuộc hai giới tính khác nhau (nam, nữ), được coi nhau là chồng và vợ,
quy định mối quan hệ và trách nhiệm giữa họ với nhau và giữa họ với con cái
của họ. Sự xác nhận đó, trong quá trình phát triển của xã hội, dần dần mang thêm
những yếu tố mới …” [22]
Theo Từ điển Luật học thì kết hôn được hiểu là “sự kiện pháp lý làm phát
sinh quan hệ hôn nhân”. [21]
Theo Khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 thì kết hôn được ghi nhận
cụ thể như sau: “kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau
theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
Như vậy, có thể thấy, dưới góc độ xã hội, kết hôn được hiểu là việc nam,
nữ lấy nhau thành vợ, chồng. Dưới góc độ pháp lý, kết hôn là một sự kiện làm
phát sinh quan hệ vợ chồng. Với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý làm phát sinh
quan hệ vợ chồng, việc kết hôn phải thỏa mãn các điều kiện theo quy định của
pháp luật. Theo Luật HN&GĐ năm 2014, người kết hôn phải tuân thủ pháp luật
về điều kiện kết hôn và phải đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
1.1.2 Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Theo quy định tại Khoản 6 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 thì kết hôn trái
pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định
tại Điều 8 của Luật này. Do đó, nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà
8


nước có thẩm quyền mà một bến hoặc cả hai bên vi phạm một trong các điều
kiện sau thì được xác định là kết hôn trái pháp luật:
-

Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
Việc kết hôn thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn.

Như vậy, kết hôn trái pháp luật khác với trường hợp “chung sống như vợ
chồng” là nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn theo đúng
thẩm quyền. Kết hôn trái pháp luật cũng khác với đăng ký kết hôn sai thẩm
quyền. Bởi lẽ kết hôn trái pháp luật là hai bên nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn còn đăng ký kết hôn sai thẩm
quyền là việc đăng ký kết hôn không được thực hiện tại các cơ quan có thẩm
quyền.
1.1.3 Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật
Theo từ điển Tiếng Việt, “hủy” là làm cho không còn tồn tại hoặc làm cho
không còn giá trị nữa. Như vậy, hủy kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài
mà Nhà nước áp dụng đối với các trường hợp hai bên nam, nữ đã đăng ký kết
hôn nhưng vi phạm một trong các điều kiện kết hôn. Tòa án theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp, buộc hai
bên nam nữ phải chấm dứt việc sống chung. Hủy kết hôn trái pháp luật nhằm
đảm bảo Luật HN&GĐ được chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Hủy kết hôn
trái pháp luật có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, hủy việc kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ của Nhà nước
đối với hành vi vi phạm điều kiện kết hôn. Luật HN&GĐ năm 2014 đặt ra các
điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn nhằm mục đích bảo vệ quan hệ
hôn nhân mà pháp luật thừa nhận. Hủy kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ
không đồng tình của nhà nước đối với hành vi trái pháp luật.

9


Thứ hai, hủy kết hôn trái pháp luật là một biện pháp chế tài đối với cá

nhân có hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật đặt ra nhằm đảm bảo trật tự xã hội
cũng như mọi cá nhân cần phải tuân thủ một cách nghiêm minh, đầy đủ. Việc
thực hiện các điều kiện kết hôn cũng vậy, cần được thực hiện và giám sát thực
hiện đầy đủ. Chế tài sẽ được áp dụng nếu vi phạm các điều kiện kết hôn mà pháp
luật đã quy định.
Thứ ba, mặc dù là một biện pháp chế tài nhưng đường lối xử lý việc kết
hôn trái pháp luật mang tính chất linh hoạt và mềm dẻo.Tùy từng trường hợp cụ
thể mà pháp luật quy định các hình thức xử lý khác nhau. Ví dụ: hai bên nam nữ
kết hôn khi chưa đủ độ tuổi kết hôn nhưng đến khi có yêu cầu hủy kết hôn trái
pháp luật thì hai bên nam nữ đã đủ độ tuổi kết hôn, chung sống với nhau hạnh
phúc, mục đích hôn nhân đã đạt được, việc hủy kết hôn lúc này không còn ý
nghĩa. Trong trường hợp này, nếu hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân
thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Quan hệ hôn nhân được xác lập từ
thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn.
1.2.

KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT HN&GĐ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI

KỲ VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT

1.2.1. Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo pháp luật HN&GĐ Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
* Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo hệ thống pháp luật ở nước ta trước
thời kì phong kiến
Trước thời kỳ Pháp thuộc, nước ta tồn tại chế độ quân chủ, tất cả quyền
lực tập trung vào tay Vua. Xã hội phong kiến Việt Nam đã có những quan niệm
riêng về hôn nhân và đã đặt ra các điều kiện cần thiết bắt buộc các bên nam nữ
phải tuân theo khi họ kết hôn. Tiêu biểu cho pháp luật thời kì này là Bộ Luật
Hồng Đức (Triểu Lê) và Bộ luật Gia Long (Triều Nguyễn). Theo các Bộ luật
này, về nguyên tắc, giấy chứng nhận kết hôn là một văn bằng pháp lý đặc biệt

10


quan trọng, gắn bó vợ và chồng bằng các quyền và nghĩa vụ cụ thể. Nếu đã đăng
kí kết hôn mà một hoặc cả hai bên vi phạm vào các điều cấm thì bị coi là vô hiệu
và có thể bị tiêu hủy. Pháp luật thời kì này đã quy định các trường hợp cấm kết
hôn bao gồm:
+ Cấm kết hôn khi cha mẹ bị giam cầm tù tội (Điều 99 Bộ luật Gia Long);
+ Cấm kết hôn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng (Điều 317 Bộ
luật Hồng Đức). Theo đó, người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà
lại lấy chồng hay cưới vợ thì xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử
tôi biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa;
+ Cấm kết hôn giữa những người thân thích (Điều 319 Bộ luật Hồng Đức
và Điều 100 Bộ luật Gia Long). Tại Điều 100 Bộ luật Gia Long quy định: “phàm
những người đồng tính (cùng họ) lấy nhau, thì bị tội 60 trượng và phải ly dị”. Rõ
ràng đây là một là một trong các điều cấm khắt khe nhất trong luật cổ Việt Nam
về điều kiện kết hôn.
Ngoài ra, Bộ luật Hồng Đức còn quy định cấm kết hôn trong các trường
hợp sau:
+ Cấm quan lại không được lấy con hát làm vợ (Điều 323)
+ Cấm học trò lấy vợ của thầy học đã chết; anh, em lấy vợ của em, anh đã
chết (Điều 324)
+ Cấm quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng vùng đó (Điều 33)
Theo cổ luật, có thể thấy, giá thú (hôn nhân) là sự giao kết giữa hai bên họ
nam và bên họ nữ mà mục tiêu trên hết là để nối theo truyền thống của tổ tiên,
sau đó là sinh con nối dõi tông đường, tiếp tục lưu truyền việc thờ cúng. Hôn
nhân có vai trò quan trọng đối với vợ chồng, con cái, gia đình và toàn xã hội nên
cổ luật đã có những quy định nhằm giới hạn những trường hợp có thể xin tiêu
hủy hôn nhân. Pháp luật đã có sự phân biệt về sự vi phạm điều kiện kết hôn với
các biện pháp chế tài xử lý có mức độ khác nhau. Đối với những trường hợp khi

11


kết hôn các bên chỉ vi phạm vào các điều kiện đơn thường thì các đương sự chỉ
bị phạt trượng hay phạt roi mà hôn nhân của họ không bị tiêu hủy.
Tiêu hủy hôn nhân trong cổ luật không có hiệu lực trở về trước mà chỉ có
hiệu lực trong tương lai. Nghĩa là hôn nhân vẫn có hiệu lực trong quá khứ, trước
khi bị tiêu hủy thì hôn nhân đó vẫn được thừa nhận, họ chỉ bị “chia lìa” hay “ li
dị” kể từ khi hôn nhân bị tuyên bố tiêu hủy mà thôi.
* Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo hệ thống pháp luật thời kỳ Pháp
thuộc
Trong thời kỳ này, đất nước ta lúc bấy giờ bị chia thành 3 miền, mỗi miền
có một bộ luật riêng: miền Bắc có Dân luật Bắc Kì (năm 1931), miền Trung có
Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật (năm 1936), miền Nam có Bộ Dân luật Giản yếu
(năm 1883). Tuy về chi tiết có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung cả ba bộ
luật dân sự đều đề cập đến những chế định pháp lí như nhau, trong đó có chế
định về hủy kết hôn trái pháp luật.
Hôn nhân trái pháp luật trong thời kì này được hiểu là các trường hợp khi
các bên đã kết hôn đã vi phạm vào điều cấm kết hôn hoặc vi phạm một trong các
điều kiện khác của hôn nhân hợp pháp. Điều kiện kết hôn được ba bộ luật ghi
nhận có sự khác nhau song chủ yếu tập trung vào một số vấn đề liên quan trực
tiếp đến lợi ích của những người kết hôn, lợi ích của con cái, của gia đình và của
cả xã hội. Nếu việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn thì hôn nhân đó bị coi
là hôn nhân trái pháp luật và có thể bị tiêu hủy. Những vi phạm điển hình là:
+ Vi phạm độ tuổi kết hôn
+ Vi phạm sự tự nguyện của những người kết hôn
+ Việc kết hôn thiếu sự đồng ý của cha mẹ
+ Việc kết hôn vi phạm vào các điều cấm
Bên cạnh đó, để bảo vệ trật tự thê thiếp, các bộ luật dân cũ còn cấm lấy vợ
thứ nếu chưa lấy vợ chính“chưa lấy vợ chính thì chưa lấy vợ thứ” (Điều 80 Bộ

12


Dân luật Bắc kỳ). Ngoài ra, để đảm bảo giữ trọn đạo hiếu, các bộ dân luật thời
kỳ này còn cấm kết hôn trong thời kỳ có tang cha mẹ (thời gian để tang là 27
tháng); người chồng góa bị cấm kết hôn trong thời gian để tang vợ (1 năm);
người vợ góa bị cấm kết hôn trong thời gian để tang chồng (27 tháng). [5]
+ Ngoài ra, hôn nhân còn bị vô hiệu khi phạm vào một trong các trường
hợp không khai với hộ lại.
Khi phạm vào điều cấm kết hôn hoặc vi phạm một trong các điều kiện
khác của hôn nhân hợp pháp nêu trên thì hôn nhân sẽ bị tiêu hủy. Mỗi điều cấm
hoặc điều kiện của hôn nhân hợp pháp bị vi phạm là một căn cứ để tiêu hủy hôn
nhân trái pháp luật.
Hậu quả pháp lý của việc tiêu hủy được quy định khác nhau trong các bộ
luật. Trong Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật đã tìm ra
những biện pháp nhằm giảm bớt những quy định quá nghiêm ngặt. Ví dụ: khi
hôn nhân bị tiêu hủy, việc tiêu hủy chỉ có hiệu lực trong tương lai, nghĩa là trước
khi bị tiêu hủy, giữa các bên vẫn tồn tại quan hệ vợ chồng, con sinh ra vẫn là con
trong giá thú. Các bên chỉ chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ khi hôn nhân bị tiêu
hủy. Bộ Dân luật Giản yếu lại quy định rằng, khi hôn nhân bị tiêu hủy thì quan
hệ hôn nhân không có giá trị trong cả quá khứ và tương lai. Đối với vợ chồng, kể
từ khi họ kết hôn đến khi hôn nhân bị tiêu hủy, các bên chưa hề xác lập quan hệ
hôn nhân. Tài sản chung của vợ chồng được thanh toán như trong trường hợp hai
người góp sức góp công làm ra. Đối với các con, các con bị coi là con ngoại hôn
(con ngoài giá thú). Như vậy, Bộ Dân luật Giản yếu đã quy định những hậu quả
hết sức nặng nề đối với việc tiêu hủy hôn nhân.
1.2.2. Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo pháp luật HN&GĐ Việt
Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
* Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong Luật HN&GĐ năm
1959

13


Luật HN&GĐ năm 1959 được Quốc hội khóa I Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa thông qua ngày 29/12/1959 và có hiệu lực từ ngày 13/01/1960. Luật
HN&GĐ ra đời đánh dấu một bước phát triển tiến bộ vượt bậc trong công tác lập
pháp của Nhà nước ta. Sự ra đời của Luật HN&GĐ năm 1959 đã khẳng định bản
chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc xóa
bỏ những tàn tích lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến đã tồn tại
hàng ngàn năm ở nước ta. Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định cụ thể các điều
kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn để đảm bảo quan hệ hôn nhân thực
sự an toàn, lành mạnh và tiến bộ, đồng thời đây là các căn cứ để hủy kết hôn trái
pháp luật.
Các điều kiện kết hôn bao gồm:
-

Về độ tuổi kết hôn: Con gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên

-

mới được kết hôn (Điều 6)
Về sự tự nguyện của hai bên: “Con trai và con gái đến tuổi, được hoàn
toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép

-

buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản trở” (Điều 4)
Kết hôn không thuộc các trường hợp cấm kết hôn
Về mặt hình thức của hôn nhân: “Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành
chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái

công nhận và ghi vào sổ kết hôn.

Như vậy, Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định cụ thể điều kiện kết hôn. Do
đó, vi phạm điều kiện kết hôn chính là vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình mới
nên cần phải xử lý nghiêm khắc. Mỗi điều kiện bị vi phạm là một căn cứ để hủy
kết hôn trái pháp luật.
Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 1959 không quy định biện pháp chế tài đối với
những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn cụ thể. Biện pháp xử lý đối với các
trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn được ghi nhận trong Thông tư số 112-

14


NCPL ngày 19- 8-1972. Theo đó, về đường lối xử lý với các trường hợp này cần
phải có căn cứ thực tế và phân biệt các trường hợp sau:
- Cần xử tiêu hôn những vi phạm điều kiện kết hôn đang tiếp diễn và tính
chất nghiêm trọng như: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, đang có vợ, có chồng mà lấy
vợ hoặc chồng khác, lấy người trong họ hàng mà Luật tuyệt đối cấm kết hôn; lấy
người đang mắc một số bệnh trong những bệnh tật mà Luật cấm kết hôn.
- Đối với những việc trước đây vi phạm điều kiện kết hôn, nhưng nay đã
chấm dứt hoặc vi phạm không có tính chất nghiêm trọng và có thể sửa chữa một
cách dễ dàng thì đường lối xử lý về ly hôn nếu đương sự yêu cầu cắt đứt quan hệ
vợ chồng.
Về hậu quả của việc hủy kết hôn trái pháp luật: Về nguyên tắc, khi hôn
nhân bị Tòa án tiêu hủy thì có hiệu lực cả trong quá khứ và tương lai. Về quan hệ
nhân thân, từ khi kết hôn trái pháp luật, quan hệ giữa hai bên nam nữ chỉ là quan
hệ sống chung trái pháp luật chứ không phải là quan hệ vợ chồng và không được
pháp luật thừa nhận. Về quan hệ tài sản, phải thanh toán theo cách thanh toán tài
sản của những người chung sức làm ăn với nhau, tài sản riêng của ai người đó
mang về. Tài sản do hai người làm ra sẽ chia theo công sức mà mỗi bên đóng

góp. Những khoản chi tiêu riêng của ai, người đó sẽ phải tự chi trả. Về cấp
dưỡng giữa các bên về nguyên tắc không đặt ra.
*Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong Luật HN&GĐ năm 1986
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời khi đất nước đã hoàn toàn
thống nhất và đang thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Luật
HN&GĐ năm 1986 được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1986 và có hiệu lực kể
từ ngày 03/01/1987.
Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định các điều kiện kết hôn. Về điều kiện
kết hôn, về cơ bản Luật HN&GĐ năm 1986 giống với Luật HN&GĐ năm
1959. Theo đó, về độ tuổi kết hôn, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên
15


mới được kết hôn (Điều 5). Sự tự nguyện của hai bên nam nữ cũng là điều kiện
cơ bản để hôn nhân hợp pháp”: Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định,
không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”
(Điều 6).
Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ năm 1986 còn quy định các trường hợp cấm
kết hôn. Đó là các trường hợp:
- Đang có vợ hoặc có chồng;
- Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của
mình; đang mắc bệnh hoa liễu;
- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha
mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa những người khác có họ
trong phạm vi ba đời;
- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi
Về hình thức kết hôn, việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết
hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. Mỗi điều kiện kết hôn bị vi phạm sẽ
là một căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật.

Theo quy định tại Điều 9 thì chỉ những trường hợp kết hôn vi phạm một
trong các Điều 5,6,7 Luật HN&GĐ năm 1986 mới coi là trái pháp luật. Có nghĩa,
trường hợp kết hôn vi phạm Điều 8 của Luật về đăng ký kết hôn không bị coi là
trái pháp luật mà vẫn được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Điều 8 quy định
việc kết hôn phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận và “ mọi
nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý”. Tuy nhiên, Điều 9 lại quy
định hôn nhân vi phạm Điều 8 không đăng ký kết hôn lại không thuộc các trường
hợp hôn nhân trái pháp luật. Do đó, giữa Điều 8 và Điều 9 có sự mâu thuẫn với
nhau.

16


Như vậy, hai bên nam, nữ kết hôn đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhưng vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì về
nguyên tắc sẽ bị hủy kết hôn trái pháp luật khi có yêu cầu. Mỗi điều kiện bị vi
phạm là một căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật.
Những người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật bao gồm: một
hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ,
có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ
nữa Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có
quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật (Điều 8)
Về hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật: Tài sản của những
người mà hôn nhân bị huỷ được giải quyết theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai
thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy; tài sản chung được chia căn cứ vào
công sức đóng góp của mỗi bên; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị
cưỡng ép kết hôn được bảo vệ. Quyền lợi của con được giải quyết như trong
trường hợp cha mẹ ly hôn. Quan hệ giữa vợ và chồng sau khi bị hủy kết hôn trái
pháp luật không được Luật HN&GĐ năm 1986 đề cập đến. (Điều 9)
* Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong Luật HN&GĐ năm

2000
Luật HN&GĐ năm 2000 được Quốc hội thông qua ngày 9/6/2000 và có
hiệu lực kể từ ngày 01/01/2001. Luật HN&GĐ năm 2000 là sự kế thừa và phát
triển các bộ luật trước đó. Về vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật, cơ bản Luật
HN&GĐ năm 2000 kế thừa các quy định của Luật HN&GĐ năm 1986.
Theo Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000, nam, nữ kết hôn phải tuân thủ các
điều kiện sau:
“1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được
ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
17


3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn”.
Vi phạm một trong các điều kiện nêu trên sẽ là căn cứ để Tòa án xử hủy
kết hôn trái pháp luật. Khi có hành vi vi phạm một trong các điều kiện nêu trên,
theo nguyên tắc, Tòa án sẽ hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Những người có thẩm quyền yêu cầu kết hôn bao gồm:
-

Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy

-

định về sự tự nguyện của hai bên;
Viện Kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định về độ tuổi


-

kết hôn và vi phạm vào các trường hợp cấm kết hôn;
Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định về độ tuổi
kết hôn và vi phạm vào các trường hợp cấm kết hôn:
+ Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn;
+ Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
+ Hội liên hiệp phụ nữ.

-

Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện Kiểm sát xem xét,
yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định, Tòa án xem xét và
quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan
đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Tòa án, cơ quan
đăng ký kết hôn xóa đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, có
những trường hợp ngoại lệ Tòa án không xử hủy dù có hành vi vi phạm điều
kiện kết hôn. Đó là các trường hợp:
18


Thứ nhất, tại thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai
bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian qua họ đã chung sống bình thường, đã có
con, có tài sản chung.
Thứ hai, trong trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn nếu sau khi
bị ép buộc, lừa dối hoặc cưỡng ép kết hôn mà người bị ép buộc, lừa dối hoặc bị

cưỡng ép đã biết, nhưng đã thông cảm, tự nguyện chung sống hòa thuận.
Thứ ba, trong trường hợp người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người
khác: đối với cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954, đã lấy
vợ, chồng mà lấy vợ, chồng ở miền Bắc.
Về hậu quả của việc hủy kết hôn trái pháp luật: Về quan hệ nhân thân, khi
việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như
vợ chồng. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn.Về
quan hệ tài sản, tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì
vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận
của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính
đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của
phụ nữ và con.
Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định nam, nữ kết hôn phải đáp ứng
các điều kiện kết hôn, nếu vi phạm một trong các điều kiện đó về nguyên tắc sẽ
bị xử hủy kết hôn trái pháp luật nếu có yêu cầu. Tuy nhiên, vẫn có những trường
hợp ngoại lệ trong việc xử hủy kết hôn trái pháp luật thể hiện sự mềm dẻo, linh
hoạt của Luật HN&GĐ năm 2000.
* Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong Luật HN&GĐ năm
2014
Luật HN&GĐ năm 2014 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 19 tháng 6 năm 2014, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2015. Luật HN&GĐ năm 2014 tiếp tục hoàn thiện và bổ sung thêm Luật
19


HN&GĐ năm 2000. Về vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật, Luật HN&GĐ năm
2014 cơ bản tiếp tục kế thừa tinh thần của Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên,
cũng có nhiều bổ sung, thay đổi mới mẻ. Những điểm mới cơ bản có thể liệt kê
như: về căn cứ hủy kết hôn trái pháp luật; về người có thẩm quyền yêu cầu hủy
kết hôn trái pháp luật; về đường lối xử lý việc kết hôn trái pháp luật…

1.3.

Ý NGHĨA CỦA CHẾ TÀI HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP

LUẬT

Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật dự kiến những biện pháp được
áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Chế tài hủy kết hôn trái pháp luật
là những biện pháp cưỡng chế của nhà nước đối với các chủ thể vi phạm điều
kiện kết hôn. Do đó, chế tài hủy kết hôn trái pháp luật có ý nghĩa sâu sắc:
Thứ nhất, chế tài hủy kết hôn đã góp phần vào việc xử lý, ngăn chặn các
hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn mà pháp luật quy định. Qua đó giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật của những người kết hôn nói riêng và của mọi công
dân nói chung. Đối tượng điều chỉnh của Luật HN&GĐ là các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cụ thể là quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản phát sinh giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con; giữa những
người thân thích ruột thịt khác. Để bảo vệ những quan hệ đó, Luật HN&GĐ đã
dự liệu nhiều chế tài, trong đó có chế tài hủy kết hôn trái pháp luật. Quy định chế
tài hủy kết hôn tạo cơ sở pháp lý để có thể truy cứu trách nhiệm của các cá nhân,
tổ chức vi phạm điều kiện kết hôn mà pháp luật quy định.Từ đó, phát hiện, xử lý
và ngăn chặn các hành vi vi phạm.
Thứ hai, chế tài hủy kết hôn trái pháp luật góp phần tích cực trong việc
xây dựng chế độ hôn nhân lành mạnh, tiến bộ, đảm bảo cá nhân được thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Bởi lẽ, mục đích của quy định chế tài hủy kết hôn
trái pháp luật là bảo vệ việc thực hiện các điều kiện kết hôn của các bên. Quy
định điều kiện kết hôn nhằm xây dựng chế độ hôn nhân hạnh phúc, bền vững;
20


đảm bảo cho cá nhân có được sự phát triển cần thiết về thể chất, trí tuệ từ đó tạo

điều kiện cho họ thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình. Quy
định các trường hợp cấm kêt hôn nhằm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình
tiến bộ; kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình
Việt Nam; hạn chế các hủ tục lạc hậu trong kết hôn; hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của nền kinh tế thị trường;…Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp
dụng trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
điều kiện kết hôn; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa về hôn nhân và gia đình.
Quy định hủy kết hôn trái pháp luật là nhằm bảo vệ các mục đích đó.
Thứ ba, chế tài hủy kết hôn trái pháp luật cũng tạo ra hành lang pháp lý
góp phần thúc đẩy và đảm bảo sự an toàn của các quan hệ tài sản và giao dịch
giữa vợ và chồng bị hủy kết hôn trái pháp luật.
Kết luận chương
Như vậy, hủy kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài mà Nhà nước áp
dụng đối với các trường hợp đã đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết
hôn, làm cho việc kết hôn đó không còn giá trị pháp lý. Qua mỗi thời kỳ lịch sử,
vấn đề điều chỉnh hủy việc kết hôn trái pháp luật ít nhiều có sự khác nhau. Tuy
nhiên, hủy việc kết hôn trái pháp luật ở các giai đoạn lịch sử đều thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị, gắn liền với từng nhiệm vụ cơ bản của Luật HN&GĐ
nhằm đáp ứng tình hình cụ thể của đất nước. Hủy việc kết hôn trái pháp luật có
nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hủy việc kết hôn trái pháp luật góp phần vào việc xử lý,
ngăn chặn các hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn; góp phần tích cực trong
việc xây dựng chế độ hôn nhân lành mạnh, tiến bộ.
Chương 2
NỘI DUNG CỤ THỂ VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
21


2.1. NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN YÊU CẦU XỬ HỦY VIỆC KẾT HÔN
TRÁI PHÁP LUẬT


2.1.1. Cá nhân- người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp
luật
2.1.1.1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn
Khoản 1 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:”Người bị cưỡng ép
kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều
này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này”.
Do đó, người bị cưỡng ép kết hôn, người bị lừa dối kết hôn có quyền tự
mình hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật yêu cầu Tòa án
hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện của hai bên.
Tự nguyện khi kết hôn được hiểu là việc kết hôn là việc kết hôn do hai bên
nam nữ kết hôn quyết định, không bên nào ép buộc bên nào, không ai được
cưỡng ép hoặc cản trở. Trong thực tế, có nhiều trường hợp một bên vợ hoặc
chồng ép buộc bên vợ hoặc chồng phải đồng ý kết hôn. Hành vi ép buộc có thể là
đe doạ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất,…Giả thiết bên bị
ép buộc tự mình hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này
yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm tính tự
nguyện của hai bên nam nữ thì có thể bị Tòa án từ chối do không có căn cứ pháp
luật. Sự thiếu xót này có thể hạn chế quyền yêu cầu của người bị ép buộc khi kết
hôn do vi phạm tính tự nguyện.
Như vậy, quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy
định cụ thể người bị cưỡng ép kết hôn, người bị lừa dối kết hôn có quyền yêu
cầu hủy kết hôn trái pháp luật do vi phạm tính tự nguyện. Đây là quy định mang
tính thiết thực và tính nhân văn sâu sắc nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị
22


cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn. Bởi người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối

kết hôn là những người có quyền và lợi ích bị xâm hại trực tiếp. Tuy nhiên, điều
luật đã liệt kê thiếu một chủ thể có thể yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật là
người bị ép buộc. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vấn đề này, do
đó, cần sớm bổ sung các văn bản hướng dẫn cụ thể Luật HN&GĐ nói chung và
vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật nói riêng.
2.1.1.2. Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người
khác
Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 thì
“vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác”, theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết
hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản
1 Điều 8 của Luật này
Do đó, vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người
khác chỉ có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật khi việc kết hôn đó vi phạm
các điều kiện về độ tuổi kết hôn, về năng lực hành vi dân sự và vi phạm các
trường hợp cấm kết hôn.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là:
“Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Hơn
nữa,“bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được” nên “ hôn nhân dựa trên
cơ sở tình yêu là hôn nhân một vợ, một chồng”. Tình yêu là cơ sở xác lập quan
hệ hôn nhân đã quyết định tính chất một vợ, một chồng của hôn nhân. Ngược lại,
chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đảm bảo tình yêu giữa vợ chồng tồn tại bền
vững. Đó là yếu tố quan trọng tác động đến quan hệ hôn nhân, quyết định hạnh
phúc vợ chồng và là cơ sở để hôn nhân tồn tại bền vững. Hiện tượng một người
đã có vợ hoặc chồng mà kết hôn với người khác đi ngược lại với bản chất của
tình yêu và là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm.
23


Như vậy, vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người

khác sẽ bị xâm hại về quyền lợi khi vợ, chồng mình kết hôn với người khác. Do
đó, pháp luật quy định họ có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật khi có các
hành vi vi phạm điều kiện kết hôn. Đây là quy định mang tính thiết thực nhằm
đảm bảo quyền, lợi ích của người vợ, chồng mà có vợ hoặc chồng kết hôn với
người khác; đồng thời góp phần giúp cho nguyên tắc chế độ hôn nhân một vợ,
một chồng được đảm bảo.
2.1.1.3. Cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật
khác của người kết hôn trái pháp luật
Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 thì
“cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của
người kết hôn trái pháp luật”theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm
quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này
Cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của
người kết hôn trái pháp luật có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật khi có
các hành vi vi phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi kết hôn; về điều kiện năng lực
hành vi dân sự và vi phạm các trường hợp cấm kết hôn.
Quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật mở rộng đối với các chủ thể trên
là hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ, cha, mẹ, con hoặc người đại diện theo pháp luật đối
với người kết hôn trái pháp luật có mối quan hệ huyết thống hoặc liên quan mật
thiết với nhau.Việc hủy kết hôn trái pháp luật nhằm mục đích đảm bảo lợi ích
hợp pháp của bên kết hôn- con cái hay cha mẹ mình hoặc người được đại diện
theo pháp luật mà họ đại diện.
2.2.2. Cơ quan, tổ chức-người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật

24


Cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật khi có

các hành vi vi phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi kết hôn; về năng lực hành vi
dân sự của hai bên kết hôn; về vi phạm các trường hợp cấm kết hôn. Theo quy
định tại điểm b, c, d Khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 cơ quan, tổ chức
có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật bao gồm:
-

Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình
Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
Hội liên hiệp phụ nữ.

Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Viện kiểm sát; Uỷ ban bảo vệ
và chăm sóc trẻ em và Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái
pháp luật [16, Điều 15]. So với Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm
2014 có nhiều thay đổi về cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái
pháp luật.
Thứ nhất, sau khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành, nhiệm vụ và
quyền hạn kiểm sát lập hồ sơ và tham gia các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm
đối với các vụ án tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình của ngành Kiểm
sát nhân dân đã thu hẹp lại: hầu hết các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm trong
lĩnh vực này, Luật không quy định Viện Kiểm sát tham gia.
Cụ thể, theo quy định quy định tại Khoản 1 Điều 21 BLTTDS năm 2004
sửa đổi bổ sung năm 2011 thì: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự
kịp thời, đúng pháp luật”. Hơn nữa, Khoản 1 Điều 162 Bộ luật TTDS quy định
về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác, lợi
ích cộng đồng và lợi ích của Nhà nước cũng không có viện kiểm sát. Theo hướng
dẫn tại mục 1 phần III Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT- VKSNDTCTANDTC ngày 1/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao đã giải thích rõ Điều
25



×