Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo tinh thần hiến pháp năm 2013 qua thực tiễn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 103 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN C ANH

Tổ chức và hoạt động của TòA áN NHÂN DÂN
THEO Tinh thần hiến pháp NăM 2013
Qua thực tiễn tỉnh vĩnh phúc

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN C ANH

Tổ chức và hoạt động của TòA áN NHÂN DÂN
THEO Tinh thần hiến pháp NăM 2013
Qua thực tiễn tỉnh vĩnh phúc
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp - Lut Hnh chớnh
Mó s: 60 38 01 02

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS BI XUN C

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

TRẦN ĐỨC ANH


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH CẢI
CÁCH TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG TRƯỚC HIẾN PHÁP 2013....... 10
1.1.

Vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân .......... 10

1.1.1.


Vị trí của Tòa án nhân dân trong hệ thống cơ quan nhà nước ......... 10

1.1.2.

Vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân .......................... 13

1.2.

Quá trình cải cách tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân
trước Hiến pháp 2013 .................................................................... 23

1.2.1.

Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002 .................. 23

1.2.2.

Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013 .................. 27

Chương 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀN ÁN NHÂN
DÂN THEO TINH THẦN HIẾN PHÁP 2013 THỰC TIỄN
TỪ TỈNH VĨNH PHÚC ................................................................. 31
2.1.

Nhận thức và thể hiện rõ tính chất, vị trí, vai trò của Tòa
án nhân dân theo các quy định của Hiến pháp năm 2013 .......... 31

2.1.1.


Nhận thức về quyền tư pháp ............................................................ 31

2.1.2.

Cơ quan thực hiện quyền tư pháp .................................................... 35

2.2.

Thiết lập và kiện toàn tổ chức của Tòa án nhân dân theo
các quy định của Hiến pháp 2013 ................................................. 40

2.3.

Xác định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
theo các quy định của Hiến pháp năm 2013 ................................ 45


2.4.

Đổi mới phương thức hoạt động của Tòa án nhân dân theo
các quy định của Hiến pháp năm 2013 ......................................... 46

2.5.

Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân qua thực tiễn
tỉnh Vĩnh Phúc ................................................................................ 47

Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC TRIỂN KHAI THỰC
HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO
TINH THẦN HIẾN PHÁP 2013 ................................................... 52

3.1.

Giải pháp nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 2013 ..................................... 52

3.1.1.

Xây dựng hệ thống quan điểm lý luận đầy đủ về quyền tư pháp,
xác định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền Tư pháp ..................... 52

3.1.2.

Quán triệt thực hiện những điểm mới về vị trí, vai trò quan
trọng của Tòa án nhân dân ............................................................... 54

3.2.

Các giải pháp nhằm thực hiện tốt quy định về tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của Tòa án theo
tinh thần Hiến pháp 2013 ............................................................... 54

3.2.1.

Đảm bảo việc xây dựng hệ thống tòa án các cấp ............................ 54

3.2.2.

Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần của
hiến pháp 2013 ................................................................................. 57


3.2.3.

Nâng cao tính độc lập của Tòa án trong mối quan hệ với các cơ
quan khác trong hệ thống các cơ quan tư pháp ............................... 58

3.2.4.

Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ Thẩm phán, thực hiện tốt
quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán .................................... 60

3.2.5.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với
cán bộ công chức ngành Tòa án ...................................................... 62

3.2.6.

Việc vận dung án lệ trong công tác xét xử của Tòa án ................... 64

3.3.

Khắc phục những bất cập hạn chế mới bộc lộ trong quá
trình tổ chức thực hiện theo tinh thần Hiến pháp 2013 .............. 68


3.3.1.

Vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp giữa Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự ............. 68


3.3.2.

Cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp ở Việt Nam............................. 76

3.3.3.

Chức năng giám sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân tại
phiên tòa............................................................................................ 86

3.3.4.

Vấn đề tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp lãnh thổ hiện nay ........... 87

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 93


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự


BMNN:

Bộ máy nhà nước

CQTP:

Cơ quan tư pháp

GSTP:

Giám sát tư pháp

HĐND:

Hội đồng nhân dân

HĐTP:

Hoạt động tư pháp

QLNN:

Quản lý nhà nước

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:


Tòa án nhân dân tối cao

UBTVQH:

Ủy ban thường vụ quốc hội

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng được thể hiện trong
nhiều văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội dung
về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có đổi mới
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, nghị quyết nêu rõ: Xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan
tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND.
Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính lãnh thổ, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức
ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có
nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa

thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; tòa
án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của
từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao
theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành
về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.

1


Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án
quân sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự...
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [3, tr.5].
Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam cũng nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương,
đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công
tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm
Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp [13, tr.126].
Như vậy, cả Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đều xác định
tòa án nhân dân phải tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp. Do đó, tòa án nhân dân phải chủ động chuẩn bị tất cả các

điều kiện để thực hiện thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt động phù hợp
với tiến trình cải cách tư pháp. Đến đây hàng loạt các vấn đề về lý luận và
thực tiễn được đặt ra khi đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân đòi
hỏi phải được quan tâm nghiên cứu.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 - qua thực tiễn tỉnh
Vĩnh Phúc" để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành luật hiến pháp và hành
chính. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài
viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án nhân
dân. Có thể phân loại thành hai nhóm như sau:
- Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nước,
cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp
Việt Nam có liên quan đến tòa án nhân dân như: Đề tài khoa học cấp Nhà
nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân". Luận án tiến
sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới tổ chức và hoạt
động tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay " của tác giả Lê
Thành Dương năm 2002. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003. Luận án tiến sĩ luật
học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách
hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005. Sách tham khảo:"Một số

vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước" của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung,
Nxb Giao thông vận tải năm 2002; "Hệ thống tư pháp và cái cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay" của tập thể các tác giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội năm 2002; "Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam
hiện nay" của TS Ngô Huy Cương, Nxb Tư pháp năm 2005; "Xây dựng Nhà
nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng" của Luật sư Nguyễn Văn Thảo,
Nxb Tư pháp năm 2006.
Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về
lịch sử ngành tòa án nhân dân.

3


- Nhóm thứ hai, là các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức
và hoạt động của tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí: "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" của TSKH
Lê Cảm, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2002; “Những vấn đề chủ yếu
của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm
2006; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp" của tác giả Nguyễn Mạnh
Cường, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002;"Cải cách tư pháp và
vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng, tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 10...
Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên
cứu chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, hoặc có công trình nghiên
cứu về vấn đề này nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật
được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, do đó nội
dung không còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân mới chính thức được đặt vấn đề khi Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành vào giữa năm 2005 và mới được ghi

nhận trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam vào đầu năm 2006. Vì vậy, đến nay chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này được chính
thức công bố.
Do vậy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
TAND trong giai đoạn hiện nay theo hướng có hệ thống hơn, toàn diện hơn
làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi mới đáp ứng yêu cầu trong
tình hình hiện nay.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ luật hiến pháp hành
chính làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa
án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, nhằm xây dựng hệ thống tòa án
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động
xét xử của tòa án.
Nhiệm vụ của luận văn:
Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực
Nhà nước, quyền tư pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án
nhân dân trong bộ máy Nhà nước, các quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
+ Làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay.
+ Đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là lĩnh vực tổ chức và hoạt động
của TAND trên cơ sở luật nước ta qua các giai đoạn và chủ yếu là giai đoạn

hiện nay. Luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu của cải cách tư
pháp, nên đối tượng là những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở Việt Nam
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND ở tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc cùng với những yếu tố kinh tế - xã hội, chính trị, pháp lý ảnh hưởng đến
tổ chức và hoạt động của TA.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu là nghiên cứu thực trạng về tổ chức và
hoạt động của TA theo luật hiện hành và thực tiễn của nó hiện nay về mặt tổ

5


chức và hoạt động những gì hợp lý, những gì chưa hợp lý, nguyên nhân của
thực trạng; Trong một chừng mực nhất định, luận văn cũng đề cập đến vị trí
vai trò của TA thông qua việc tổ chức và hoạt động của nó trong các giai đoạn
lịch sử, cũng như mối quan hệ của nó đối với các cơ quan trong bộ máy nhà
nước, nhất là các cơ quan tư pháp khác.
Luận văn chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân,
không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án quân sự.
5. Khái quát về địa điểm nghiên cứu
Tỉnh Vĩnh Phúc thuộc đồng bằng Bắc Bộ, là vùng đồng bằng có trung
du và miền núi. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Nam
giáp tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp thủ đô Hà Nội.
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 1.370,73 km2. Vĩnh Phúc có một thị xã,
6 huyện với 150 xã, phường, thị trấn, trong đó có 1 huyện, 39 xã miền núi.
Ngày 9/12/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2003/NĐ - CP về
việc thành lập thị xã Phúc Yên và huyện Tam Đảo. Như vậy, hiện nay Vĩnh
Phúc có 2 thị xã và 7 huyện.
Nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế

trọng điểm Bắc Bộ với các tỉnh trung du miền núi phía Bắc và xa hơn là với
Trung Quốc, Vĩnh Phúc chịu sự tác động rất lớn của quá trình phát triển vùng,
có nhiều thuận lợi trong giao lưu trao đổi hàng hoá và phát triển các loại hình
dịch vụ.Vĩnh Phúc nằm trên trục quốc lộ 2 và tuyến đường sắt Hà Nội – Lào
Cai, liền kề với sân bay quốc tế Nội Bài, nằm ở điểm đầu trục giao thông
đường sắt và đường bộ Đông – Tây từ trung tâm miền Bắc thông ra cảng Hải
Phòng và cảng nước sâu Cái Lân (qua đường quốc lộ 5 và trục đường 18 đường cao tốc cho 6 làn xe). Ở vị trí này rất tiện lợi về giao thông toả đi khắp
mọi miền đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để Vĩnh Phúc phát triển kinh tế,
như phát triển các khu công nghiệp và ngành công nghiệp xuất khẩu. Vĩnh
Phúc có đường vận tải thông qua các cảng biển và sân bay thuận lợi.

6


Lĩnh vực kinh tế lợi thế: ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
và khai thác là ngành có nhiều lợi thế của tỉnh về vùng nguyên liệu và nhu cầu
tiên dùng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Vĩnh Phúc còn có khu nghỉ mát Tam
Đảo với độ cao trên 900 m so với mực nước biển, bao bọc bởi rừng nguyên
sinh có nhiều động thực vật quý hiếm; những hồ, đầm lớn như Đại Lải, Đầm
Vạc – nơi nào cũng có 500 – 600 ha mặt nước, có rừng, có ruộng bao quanh.
Đây là những địa điểm nghỉ cuối tuần lý tưởng. Ngoài ra, còn có những di
tích lịch sử, văn hoá như chùa Tây Thiên, tháp Bình Sơn, và hàng trăm di tích
được Nhà nước xếp hạng; những làng nghề nổi tiếng thực sự có sức hấp dẫn
du khách, và đây cũng chính là một trong những lợi thế của Vĩnh Phúc.
Thiên nhiên ưu đãi cho Vĩnh Phúc nhiều cảnh quan và danh thắng kỳ
thú như danh thắng Tây Thiên, khu nghỉ mát Tam Đảo, … là nơi để phát triển
các loại hình du lịch như tham quan, nghỉ mát,… Ngoài ra còn có trên 500 di
tích lịch sử, văn hoá với 170 di tích được xếp hạng, trong đó 67 di tích được
xếp hạng cấp quốc gia.Vĩnh Phúc còn có nhiều hố nước ở những địa thế đẹp,
là điểm du lịch nghỉ dưỡng hấp dẫn hơn nhiều so với các hồ khác ở Bắc Bộ.

Điều kiện môi trường và sinh thái của Vĩnh Phúc cơ bản còn tốt, vẫn giữ được
yếu tố mà thiên nhiên ưu đãi.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thể hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật, về đổi mới
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp,
những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.các học thuyết chính trị về
nhà nước pháp quyền trên thế giới. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở
nghiên cứu Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, Pháp lệnh về Thẩm phán và các
văn bản pháp luật khác qui định về tổ chức và hoạt động của TAND.

7


Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng là các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, đồng
thời cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh, phương pháp lý thuyết hệ
thống, phương pháp thống kê …
6. Tính mới và đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vị trí vai
trò, chức năng của TA làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về các quan điểm
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về việc xác định vai trò "trọng yếu" của
TA trong bộ máy nhà nước. Từ đó đưa ra các khái niệm, những luận cứ xác
đáng tiếp tục góp phần làm thay đổi nhận thức về TA một cách đúng đắn hơn,
khoa học hơn (vì lâu nay nhìn TA như các ngành, các bộ khác trong bộ máy
nhà nước) đã làm cho TA chậm phát triển theo yêu cầu.
Luận văn trình bày và đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và cán bộ,

về thực trạng hoạt động của TAND nói chung và TAND tỉnh Vĩnh Phúc nói
riêng trong những năm qua một cách đầy đủ trên cơ sở tổng hợp các số liệu
qua nhiều nguồn xác thực, phân tích được những mặt mạnh, mặt yếu của
TAND cùng với những nguyên nhân của nó, làm cơ sở thực tiễn cho việc cải
cách tổ chức và hoạt động của TAND.
Dựa trên sự tổng hợp các quan điểm của Đảng và Nhà nước, luận văn
đã hệ thống một cách đầy đủ các nguyên tắc bảo đảm cho quá trình đổi mới
TAND bao gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù xuất phát từ
tính chất cũng như mục đích hoạt động của TAND.
Luận văn cũng đã đưa ra được những yêu cầu và những giải pháp thiết
thực nhằm góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND đáp ứng yêu
cầu của công cuộc đổi mới và cải cách tư pháp hiện nay.

8


7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng
như thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa
học, những người làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho việc
nghiên cứu, giảng dạy.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm chương.
Chương 1: Tòa án nhân dân ở Việt Nam và quá trình cải cách tổ chức,
hoạt động trước Hiến pháp 2013.
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh thần
Hiến pháp 2013 qua thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc.

Chương 3: Giải pháp bảo đảm việc triển khai thực hiện các quy định về
Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 2013.

9


Chương 1
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH
CẢI CÁCH TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG TRƯỚC HIẾN PHÁP 2013
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
1.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân trong hệ thống cơ quan nhà nước
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì Toà án có vị trí đặc biệt so
với các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp khác nói riêng,
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, toà án xét xử nhân danh nhà nước, căn cứ vào pháp luật của
Nhà nước để đưa ra các phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước
đối với từng vụ việc cụ thể. Thái độ đó được thể hiện bằng những quyết định
giải quyết hợp pháp, hợp lý và áp dụng những chế tài thích hợp mà toà án áp
dụng cho từng trường hợp cụ thể phù hợp với hành vi có lỗi và trái pháp luật
trong mỗi bản án, quyết định của toà án. Như vậy, hoạt động xét xử phản ánh
trực tiếp và sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước.
Hai là, bằng hoạt động xét xử, Toà án thực hiện chức năng kiểm tra
hành vi pháp lý của các cơ quan Nhà nước, quyền công dân, quyền con người.
Xa hơn là Toà án bảo vệ cho trật tự xã hội ổn định, an toàn và có môi trường
phát triển lành mạnh, bền vững.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khi
mà vai trò pháp luật, sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng
cao thì vai trò của Toà án lại càng được khẳng định. Bởi lẽ Toà án chính là cơ
quan thực thi quyền tư pháp đặc biệt là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân
thủ pháp luật của bộ máy nhà nước. Toà án thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám

sát hoạt động của bộ máy nhà nước là một trong những nguyên lý cơ bản của
nhà nước pháp quyền, là điều kiện tiên quyết đảm bảo mục tiêu và các giá trị

10


của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta được thực thi trong
thực tiễn đời sống xã hội.
Ở nước ta, việc xác định Toà án có là cơ quan tổ chức và thực hiện
quyền tư pháp với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử là một
trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách tư pháp đã
được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020. Tuy nhiên,
việc luật hoá quan niệm này vào pháp luật vẫn chưa được thực hiện triệt để.
Trong pháp luật Việt Nam, vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước có những
đặc điểm sau:
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật hiện
hành có liên quan đến tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước thì địa vị
pháp lý của toà án Việt Nam chịu sự tác động của nhóm quan hệ cơ bản sau:
Thứ nhất, quan hệ giữa Toà án với các cành quyền lực khác.
Mối quan hệ giữa Tòa án với Quốc hội
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định “quyền lực Nhà nước thống nhất và
thuộc về nhân dân” và nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất” [1, tr.3]. Thì Toà án ở nước ta có sự phụ thuộc khá nhiều vào Quốc
hội. Tiến sĩ Tô Ngọc Hoà khẳng định: bản chất của mối quan hệ này là cấp
trên và cấp dưới - trong đó Quốc hội là cấp trên và Tòa án là cấp dưới. Điều
này thể hiện rõ ở những điểm sau:
Quốc hội có quyền ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan
đến tổ chức hoạt động của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. Quốc hội
có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của toà án trái với Hiến Pháp, luật pháp

hay Nghị quyết của mình.
Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức chánh án TANDTC. Quốc hội có
quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với vị trí này. Chánh án TANDTC phải báo

11


cáo hàng năm trước Quốc hội; phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội nếu
có yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động
hằng năm của Toà án.
Mối quan hệ giữa Tòa án với Chủ tịch nước
Hiến pháp xác định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Việt
Nam. Trong mối quan hệ với Toà án, Chủ tịch nước có quyền giám sát, kiểm
tra chất lượng hoạt động của Toà án thông qua báo cáo của chánh án
TANDTC. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND
Tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thẩm phán tòa án khác
Mối quan hệ giữa Tòa án với Chính phủ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa toà án và
Chính phủ được xem là mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời
cũng là mối quan hệ mang tính rường cột trong hệ thống quyền lực nhà nước.
Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, do thực trạng toà án phải
áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ trong quá trình
xét xử dẫn đến toà án có sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ.
Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
Để bảo đảm sự thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương (Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện), toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính
và chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án
toà án nhân dân các cấp địa phương phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác

trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân
cùng cấp.
Thứ hai, quan hệ giữa toà án với các cơ quan khác trong hệ thống cơ
quan tư pháp.

12


Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính đúng đắn các hành
vi pháp lý của cơ quan điều tra, phán xử hành vi truy tố của Viện kiểm sát có
đúng quy định pháp luật hay không và đưa ra phán quyết để cơ quan thi hành
án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối quan hệ bên trong này, xét xử
là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện tập trung nhất bản chất của
quyền tư pháp.
Mặc khác, pháp luật trao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền
giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên
toà. Chính quy định này đã có ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tư pháp
của toà án trong hệ thống cơ quan tư pháp.
Như vậy, trong pháp luật nước ta, toà án có vị trí độc lập tương đối trong
bộ máy Nhà nước. Qua phân tích cho thấy rằng: sự phụ thuộc của toà án vào hệ
thống cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân) là tương
đối lớn. Tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp
chưa được bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát nhân dân thông qua
quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính những đặc điểm này về vị
trí của toà án trong bộ máy Nhà nước đã ảnh hưởng đến hoạt động của toà án,
đặc biệt là yêu cầu có tính nguyên tắc hiến định của hoạt động tài phán - toà án
phải độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử.
1.1.2. Vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết
tranh chấp trong đời sống xã hội

Kiểm tra, kiểm soát xã hội là một trong những vai trò, chức năng cơ
bản của Nhà nước. Nhà nước thực hiện hoạt động này bằng chuẩn mực pháp
luật thông qua các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc phân công
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đã trao cho cơ quan lập pháp thực
hiện giám sát tối cao đối với việc thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp tổ

13


chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội
một cách thường xuyên. Khi có những hành vi, tranh chấp có nguy cơ đe doạ
làm sai lệch tính hợp lý, công bằng của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội thì
được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của toà án. Hoạt động kiểm tra,
kiểm soát xã hội của toà án có những đặc trưng cơ bản sau:
- Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh
chấp mà cá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng
những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.
- Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân
chủ và bình đẳng giữa các bên tại toà án.
- Có quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý trong các phán
quyết xử lý.
So với nhánh quyền lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và
các hình thức kiểm tra xã hội khác, hoạt động xét xử của toà án được thực
hiện theo quy trình tố tụng tư pháp chặt chẽ do luật định. Đây là một hình
thức kiểm soát xã hội công khai, dân chủ, chính xác, khách quan và bảo đảm
công bằng, bình đẳng xã hội. Chính vì bảo đảm được những giá trị dân chủ,
công bằng và bình đẳng xã hội trong hoạt động xét xử, toà án trở thành cơ
quan có vị trí tối cao và duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước khi xét xử
hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp do người dân yêu cầu

Nhà nước thực hiện.
Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử, bằng các quyết định, bản án
nghiêm minh, công bằng, toà án còn xác lập các chuẩn mực mới trong quan
hệ xã hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân trong hoạt động tư
pháp, tạo dựng niềm tin vào công lý, vào bộ máy Nhà nước, chế độ và quyền
lực nhà nước.

14


Vì vậy, để bảo đảm những giá trị của pháp luật được thực thi trong thực
tiễn, bảo vệ pháp luật không bị xâm hại, pháp luật đã trao cho toà án vị trí tối
cao có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện hoạt động xét xử hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội khi người dân,
Nhà nước có nhu cầu. Qua đó thể hiện thái độ của nhà nước đối với những
hành vi vi phạm pháp luật cụ thể.
Còn trong nhận thức của người dân, toà án không chỉ là một cơ quan
Nhà nước thông thường mà còn là biểu tượng của công lý, của lẽ phải. Khi
phải đối mặt với quan toà nơi công đường, người dân chờ đợi sự công minh,
sáng suốt: "Toà án là người đại diện của công lý và quan toà là cán cân công
lý" [24, tr.22]. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, bản thân pháp luật đã mang tính công lý và toà án bằng hoạt động xét xử
của mình thể hiện công lý, sự công minh, công bằng, không thiên lệch trong
từng vụ án, từng phán quyết của toà án đối với từng hành vi, sự kiện pháp lý.
Trong tinh thần đó có thể nói phán xét, phán quyết của toà án trực tiếp tác
động đến niềm tin, lý tưởng, khát vọng công lý, công bằng xã hội, đến thái độ,
cách nhìn của người dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cả chế độ
chính trị đang tồn tại.
Như vậy, từ bản chất dân chủ của hoạt động xét xử, vai trò đặc biệt của
hoạt động xét xử, sự nhìn nhận của người dân đối với toà án, toà án đã trở

thành cơ quan Nhà nước có vị trí đặc biệt trong xã hội. Toà án là cơ quan duy
nhất có quyền nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải
quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Thông qua đó thể
hiện thái độ và trách nhiệm của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm trong
vụ án, quyết định cụ thể, đồng thời bảo vệ pháp luật, công bằng, bình đẳng xã
hội, các quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người.

15


Bảo vệ công lý
Bảo vệ công lý là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là cơ
quan thực hiện của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc bảo
vệ công lý.
Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý chính là bảo vệ những giá
trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Pháp luật trong nhà nước
pháp quyền là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền luôn mang trong mình những nguyện vọng, quyền
và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó là hệ thống những
chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người phù hợp với trình độ văn minh
của xã hội, để nhân dân tự điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống sinh
hoạt, trong giao lưu dân sự cũng như trong mối quan hệ với cơ quan công
quyền, đồng thời thể hiện lợi ích và ý chí chung của toàn thể nhân dân lao
động, của toàn thể xã hội và cùng với các quy phạm xã hội khác là một trong
những phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội và điều hoà, phối hợp các lợi ích
xã hội khác nhau.
Ngoài ra, Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN, có ý nghĩa đặc
biệt to lớn đối với sự phát triển, mở rộng, củng cố và phát huy nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, tính tích cực về chính trị, tính sáng tạo và quyền làm chủ của
nhân dân. Ngược lại, việc triển khai và mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời

sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và trật tự pháp luật, làm phong phú
thêm các quyền tự do của công dân và bảo đảm thực hiện những quyền đó.
Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại tách rời nhau.
Dân chủ về chính trị và pháp luật chân chính thể hiện bản chất sâu xa của chế
độ xã hội chủ nghĩa - tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Những
hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật trong xã hội pháp quyền bị coi là
những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình đẳng xã hội, dân chủ XHCN.

16


Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật không còn đơn thuần là
phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành hoạt động quan
trọng nhất, cao nhất và có tính cuối cùng để nhà nước và nhân dân bảo vệ các
giá trị cao đẹp của nhà nước pháp quyền, bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội,
quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN.
Vai trò bảo vệ công lý của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Toà án áp dụng pháp luật: Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là
hình thức áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua
hoạt động xét xử, toà án đưa các hành vi tranh chấp pháp lý liên quan đến
những con người cụ thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng
tỏ mối tương quan giữa cái cá biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái
khuôn chung là quy phạm pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý,
tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh chấp, từ đó đi đến một phán
quyết có tính bắt buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi ích liên
quan [24, tr.21]. Bằng việc ra các bản án, quyết định nhân danh nhà nước và
bắt buộc thi hành, các giá trị pháp luật bị xâm hại, lệch lạc sẽ được khôi phục
lại, công lý được duy trì, sự công bằng, lẽ phải của pháp luật được bảo vệ. Từ
tính chất đặc biệt của việc áp dụng pháp luật theo phương thức tài phán công,
toà án trở thành thiết chế đóng vai trò đặc biệt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ

pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật trước những nguy cơ bị những cá nhân, tổ
chức nhất định vi phạm, bảo đảm cho những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ không bị thiệt hại.
Toà án tuân thủ pháp luật: Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của
nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
nói riêng là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật. Toà
án là một bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước nên quyền hạn, nhiệm vụ

17


và chức năng của toà án được xác định trong Hiến pháp và các văn bản pháp
luật. Vì thế, toà án tuân thủ Hiến pháp, pháp luật đặc biệt là tuân thủ các
nguyên tắc có tính chất nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước được vận dụng trong lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối thượng
của Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động của nhà nước và đời sống xã hội
công dân; các quan hệ xã hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật;
trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân; bảo đảm quyền con người
trong quá trình xét xử; quyền lực nhà nước thống nhất và có sự phân công
phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp; tôn trọng và tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế mà nhà nước đã ký
kết hoặc tham gia…. là những biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật
của toà án. Những nguyên tắc này là những nội dung cơ bản của pháp luật
nước ta. Vì thế, toà án tuân thủ các nguyên tắc trên không chỉ có ý nghĩa bảo
đảm hoạt động của toà án bảo đảm đúng pháp luật, không vi phạm pháp luật
mà còn là một yêu cầu của nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm hoạt động xét
xử của toà án dân chủ, công bằng, bình đảng, bảo vệ quyền công dân, các
quyền cơ bản của con người và cao nhất là bảo đảm bản chất quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.

Giám sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước: Trong nhà nước
dân chủ, quyền lực nhà nước là quyền lực của dân, chính quyền không chỉ
phải lấy dân làm gốc, mà những công bộc được dân giao phó phải biết dựa
vào dân, phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đảm bảo quan trọng nhất để chính
quyền làm tốt trách nhiệm là việc các cử tri kiểm soát trực tiếp chính quyền
của mình thông qua việc quyết định lá phiếu trong các cuộc bầu cử các cơ
quan quyền lực dân cử. Hình thức thứ hai để người dân có thể giám sát hoạt
động của bộ máy nhà nước là thông qua chính hoạt động các cơ quan nhà
nước có nhiệm vụ trực tiếp kiểm tra, giám sát mức độ tuân thủ pháp luật của
cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện công vụ.

18


×