Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bai dich TRI LIEU THUC TE Trong Tâm Lý hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.29 KB, 18 trang )

BÀI DỊCH
LÝ THUYẾT TRỊ LIỆU THỰC TẾ
Nguồn:
Gerald Cory, Theory and Practice of Counseling and Psychotherapy, Eighth Edition
Chapter 11: Reality Therapy

…………..
Phần dịch:
GIỚI THIỆU
Trị liệu thực tế tin rằng vấn đề cơ bản của hầu hết khách hàng là như nhau: Họ đang
không hài lòng trong mối quan hệ hiện tại hoặc thiếu thốn những gì có thể được gọi là một mối
quan hệ. Nhiều vấn đề của các khách hàng gặp phải vì nguyên nhân họ không thể kết nối, gần
gũi với những người khác, hoặc họ không thỏa mãn và thành công với ít nhất một người quan
trọng trong cuộc sống của họ. Các bác sĩ chuyên khoa hướng khách hàng tới một mối quan hệ
mà họ cảm thấy hài lòng và dạy họ cách hành xử hiệu quả hơn. Càng nhiều khách hàng có khả
năng kết nối với mọi người, càng nhiều cơ hội để họ trải nghiệm hạnh phúc.
Một số ít khách hàng hiểu rằng vấn đề của họ là do cách hành xử mà họ chọn. Những gì
họ biết là họ cảm thấy rất đau đớn hoặc không vui vì họ được gửi tới gặp nhân viên tư vấn bởi
một ai đó có thẩm quyền và thấy không hài lòng với hành xử của họ - thường là quan chức tòa
án, người quản lý trường học, người bạn đời hoặc cha mẹ. Trị liệu thực tế nhận ra rằng khách
hàng lựa chọn hành vi của họ như là một cách để đối phó với những thất vọng gây ra bởi việc
không hài lòng về mối quan hệ hiện tại.Tất cả những lừa chọn hành vi từ rối loạn thần kinh đến
trầm cảm nhẹ - được miêu tả cụ thể DSM – IV – TR (APA, 2000)
Glasser cho rằng khách hàng không nên bị dán nhãn với một chẩn đoán, trừ khi nó cần
thiết cho mục đích bảo hiểm. Từ quan điểm của Glasser, mũi mô tả hành vi con người chọn để
đối phó với nỗi đau và sự thất vọng, đó là đặc hữu (endemic) của việc không hài lòng trong các
mối quan hệ hiện tại. Do đó, dán nhãn hành vi không hiệu quả như bệnh tâm thần là không chính
xác. Ông tin rằng bệnh tâm thần là bệnh như bệnh Alzheimer, bệnh động kinh, chấn thương đầu
và não - điều kiện liên quan đến tổn thương não hữu hình. Bởi vì những người đang phải chịu
một sự bất thường của não, họ cần được điều trị chủ yếu bởi thần kinh học.
Trị liệu thực tế được dựa trên lý thuyết lựa chọn vì nó được giải thích trong các cuốn sách


gần đây nhất của Glasser (1998, 2001, 2003). (Trong chương này, các cuộc thảo luận về ý tưởng
của GLasser liên quan đến ba cuốn sách nói trên, trừ khi có quy định khác.) Những lý thuyết
được lựa chọn giải thích lý do tại sao và làm thế nào chúng ta hoạt động, và điều trị thực tế cung
cấp một hệ thống để giúp các cá nhân kiểm soát hiệu quả hơn cuộc sống của họ. Điều trị chủ yếu
là dạy khách hàng để có những lựa chọn hiệu quả hơn khi họ đối phó với những người mà họ cần
trong cuộc sống của họ. Glasser cho rằng nó là điều cần thiết cho các bác sĩ chuyên khoa để thiết
lập một mối quan hệ hài lòng với khách hàng. Một khi mối quan hệ này được phát triển, các kỹ
năng của các nhà trị liệu trở nên tối quan trọng.

LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 4


Trị liệu thực tế đã được sử dụng trong một loạt các trường hợp. Phương pháp được áp
dụng để tư vấn, công tác xã hội, giáo dục, can thiệp khủng hoảng, điều chỉnh và phục hồi chức
năng, quản lý tổ chức và phát triển cộng đồng. Trị liệu thực tế phổ biến trong các trường học, các
tổ chức cải huấn, bệnh viện đa khoa, bệnh viện tâm thần nhà nước, và các trung tâm lạm dụng
chất kích thích.Nhiều phòng khám quân sự sử dụng trị liệu thực tế như một trong những phương
pháp trị liệu ưa thích của họ để chữa trị cho những người lạm dụng rượu và ma túy.
Khái niệm – Cái nhìn về bản chất con người
Lý thuyết về lựa chọn - thừa nhận rằng chúng ta không được sinh ra như tấm bảng trống
chờ đợi để được thúc đẩy từ ảnh hưởng của thế giới xung quanh chúng ta. Thay vào đó, chúng ta
được sinh ra với năm mã hóa gen như: nhu cầu sống còn, tình yêu và sự thuộc về, quyền lực
hoặc thành tích, tự do hoặc độc lập, và hạnh phúc – điều đó điều khiển chúng ta suốt cuộc đời.
Mỗi người chúng ta có tất cả năm nhu cầu, nhưng chúng khác nhau về sức mạnh. Ví dụ, tất cả
chúng ta có một nhu cầu yêu thương và thuộc về, nhưng một số người trong chúng ta cần tình
yêu nhiều hơn những người khác. Lý thuyết về lựa chọn được dựa trên tiền đề vì chúng ta cũng
là một sinh vật trong xã hội tự nhiên, chúng ta cần cả nhận lại và cho đi tình yêu. Glasser (2001,
2005) cho rằng sự cần thiết để yêu và thuộc về là nhu cầu chính vì chúng ta cần người để đáp

ứng các nhu cầu khác. Nó cũng là nhu cầu khó khăn nhất để đáp ứng bởi vì chúng ta phải có một
người hợp tác để giúp chúng tôi đáp ứng nó.
Chức năng não bộ của chúng tôi như là một hệ thống điều khiển. Nó liên tục giám sát
cảm xúc của chúng ta để xác định chúng ta làm như thế nào trong nỗ lực để đáp ứng những nhu
cầu này. Bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy tồi tệ, nghĩa là một hoặc nhiều nhu cầu trên không đạt
được sự hài lòng.
Phần 2 – Lý thuyết và kỹ thuật của tư vấn
Lý thuyết về lựa chọn dạy chúng ta rằng chúng ta không thể đáp ứng nhu cầu của bản
thân một cách trực tiếp. Những gì chúng ta làm, bắt đầu ngay sau khi sinh và tiếp tục trong cuộc
sống, là để theo dõi chặt chẽ bất cứ điều gì chúng ta làm khiến mình cảm thấy tốt. Chúng ta lưu
trữ các thông tin bên trong tâm trí và xây dựng một tập tin mong muốn, gọi là thế giới chất
lượng (quality world) của chúng ta, đó là cốt lõi của cuộc sống. Nó là cá nhân Shangri-la - thế
giới mà chúng tôi muốn sống trong đó khi có thể. Đó hoàn toàn dựa trên những mong muốn và
nhu cầu của chúng ta, nhưng không giống như các nhu cầu chung chung, nó là rất cụ thể. Các thế
giới chất lượng bao gồm hình ảnh của người, các hoạt động, sự kiện, niềm tin, của cải, và các
tình huống đáp ứng được nhu cầu của chúng ta (Wubbolding, 2000).
Thế giới chất lượng của chúng ra như một cuốn album ảnh. Chúng ta phát triển một
album hình ảnh bên trong chứa đựng những mong muốn cụ thể cũng như cách chính xác để đáp
ứng những mong muốn đó. Chúng ta đang cố gắng để lựa chọn những hành xử theo một cách mà
cho chúng ta có thể kiểm soát hiệu quả nhất trong cuộc sống. Một số hình ảnh có thể bị mờ, và
vai trò của nhà trị liệu là giúp khách hàng làm rõ chúng. Hình ảnh tồn tại trong ưu tiên của hầu
hết mọi người, nhưng khách hàng có thể gặp khó khăn trong việc xác định các ưu tiên của họ.
Một phần của quá trình điều trị thực tế là hỗ trợ khách hàng trong việc ưu tiên nhu cầu của họ và
phát hiện ra những gì là quan trọng nhất đối với họ.
Con người là thành phần quan trọng nhất của thế giới chất lượng (quality world), và đó là
những người mà chúng ta muốn kết nối nhất. Nó chứa đựng những người mà chúng ta cảm thấy
gần gũi và thích ở cùng nhất. Những người tham gia điều trị thường không có ai trong thế giới
chất lượng của họ, thường xuyên hơn, một người nào đó trong thế giới chất lượng của họ không
thể liên kết một cách thỏa mãn. Đối với điều trị để có một cơ hội thành công, một nhà trị liệu
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10


Page 5


phải là người mà khách hàng sẽ xem xét đặt vào trong thế giới chất lượng của họ. Đi vào thế giới
chất lượng của khách hàng là nghệ thuật điều trị. Từ mối quan hệ này các bác sĩ chuyên khoa với
khách hàng bắt đầu học cách làm thế nào để có được gần gũi với những người mà họ cần.
Lý thuyết về sự lựa chọn của hành vi ứng xử
Lý thuyết về lựa chọn giải thích tất cả những gì chúng ta từng làm từ khi sinh ra cho đến
khi chết và với ngoại lệ hiếm hoi, tất cả mọi thứ chúng tôi làm là lựa chọn. Mỗi hành vi là sự cố
gắng tốt nhất của chúng ta để có được những gì chúng ta muốn nhằm đáp ứng nhu cầu của bản
thân. Tổng hành vi (Total behavior) dạy rằng tất cả các hành vi được tạo thành từ bốn thành phần
không thể tách rời nhưng khác biệt như hành động, suy nghĩ, cảm giác, và sinh lý học mà nhất
thiết phải đi cùng tất cả các hành động, suy nghĩ của chúng ta, và cảm xúc. Hành vi là có mục
đích bởi vì nó được thiết kế để thu hẹp khoảng cách giữa những gì chúng ta muốn và những gì
chúng ta nhận thức chúng ta đang nhận được. Hành vi cụ thể luôn được tạo ra từ sự khác biệt
này. Hành vi của chúng ta đến từ bên trong, và do đó chúng ta chọn số mệnh của mình.
Glasser nói rằng để nói về sự chán nản, đau đầu, tức giận, hay lo lắng nghĩa là thụ động
và thiếu trách nhiệm cá nhân, và nó là không chính xác. Điều đó sẽ chính xác hơn khi nghĩ
những hành động đó là một phần của tổng hành vi ( Total behavior) và sử dụng các hình thức
động từ như buồn bã, đau đầu, giận dữ và lo âu để mô tả chúng. Điều đó chính xác hơn về việc
con người đang buồn bã hay chọc giận bản thân hơn là chán nản hoặc giận dữ. Khi người ta chọn
đau khổ bằng cách phát triển một loạt các hành vi "paining", đó là bởi vì đây là những hành vi
tốt nhất mà họ có thể đưa ra vào thời điểm đó, và những hành vi này thường được cho họ những
gì họ muốn.
Khi một nhà trị liệu thực tế bắt đầu giảng dạy lý thuyết về sự lựa chọn, khách hàng sẽ
thường phản đối và nói, "Tôi đau khổ, đừng nói cho tôi biết là tôi đang chọn đau khổ như thế
này." Đau đớn cũng như chán nản, các bác sĩ chuyên khoa giải thích rằng con người không chọn
đau đớn và đau khổ trực tiếp; đúng hơn, nó là một phần unchosen (ko chọn) trong tổng hành vi
của họ. Các hành vi của con người là nỗ lực tốt nhất, hiệu quả nhất có thể để đáp ứng nhu cầu

bản thân.
Robert Wubbolding (thông tin cá nhân, June 22, 2007)) đã bổ sung thêm một ý tưởng
mới về thuyết lựa chọn. Ông tin rằng hành vi là một ngôn ngữ, và chúng ta gửi tin nhắn bằng
những gì chúng ta đang làm. Mục đích của hành vi là gây ảnh hưởng đến thế giới để có được
những gì chúng ta muốn. Trị liệu yêu cầu khách hàng những thông điệp họ gửi cho thế giới bằng
hành động của mình: "Bạn muốn gửi thông điệp gì cho người khác?" "Thông điệp gì những
người khác nhận được dù bạn có ý định gửi đi hay ko?" Bằng cách cân nhắc các tin nhắn mà
khách hàng gửi cho người khác, nhân viên tư vấn có thể giúp khách hàng gián tiếp đạt được một
đánh giá cao hơn trong các thông điệp mà họ vô tình gửi cho người khác.
Đặc điểm của trị liệu thực tế
Trị liệu thực tế đương đại tập trung một cách nhanh chóng trên các mối quan hệ không
thỏa mãn hoặc sự thiếu hụt của một mối quan hệ, mà thường là nguyên nhân của các vấn đề của
khách hàng. Khách hàng có thể phàn nàn về một vấn đề chẳng hạn như không thể duy trì công
việc, không làm tốt ở trường, hoặc không có một mối quan hệ có ý nghĩa.
Khi khách hàng phàn nàn về cách người khác đang làm cho họ đau đớn, các bác sĩ
chuyên khoa không có được tham gia vào việc tìm lỗi sai. Nhà trị liệu thực tế yêu cầu khách
hàng xem xét mức độ hiệu quả trongsự lựa chọn của họ, đặc biệt là những lựa chọn này ảnh
hưởng đến mối quan hệ của họ với những người quan trọng trong cuộc sống của họ. Lý thuyết
lựa chọn dạy rằng không có ý nghĩa gì khi nói về những gì khách hàng không thể kiểm soát;
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 6


trọng tâm là những gì khách hàng có thể kiểm soát trong mối quan hệ. Nguyên lý cơ bản của lý
thuyết lựa chọn, rất quan trọng để khách hàng hiểu là: "Người duy nhất bạn có thể kiểm soát
được là chính mình."
Trị liệu thực tế không lắng nghe quá lâu về việc phàn nàn, đổ lỗi, và chỉ trích, đó là
những hành vi không có hiệu quả nhất trong hành vi của chúng ta. Bởi vì thực tế trị liệu ít quan
tâm đến các tổng hành vi tự đánh bại, họ có xu hướng biến mất trong cuộc điều trị. Vậy trị liệu

thực tế tập trung vào điều gì? Dưới đây là một số đặc điểm cơ bản của điều trị thực tế.
NHẤN MẠNH VỀ LỰA CHỌN VÀ TRÁCH NHIỆM Nếu chúng ta chọn những gì
mình làm, chúng ta phải chiệu trách nhiệm cho điều mình chọn. Điều này không có nghĩa là
chúng ra nên bị đổ lỗi hay trừng phạt, trừ khi chúng ta phạm luật, nhưng nó không có nghĩa là
các bác sĩ chuyên khoa bỏ qua thực tế là khách hàng phải chịu trách nhiệm cho những gì họ làm.
Lý thuyết lựa chọn thay đổi trọng tâm của trách nhiệm trong sự lựa chọn và việc lựa chọn.
Trị liệu thực tế đối phó với những người "như thể" họ có sự lựa chọn. Trị liệu tập trung
vào những lĩnh vực mà khách hàng có sự lựa chọn, làm như vậy họ sẽ gần gũi hơn với những
người mà họ cần. Ví dụ, được tham gia vào các hoạt động có ý nghĩa, chẳng hạn như công việc,
là một cách tốt để có được sự tôn trọng của người khác, và công việc có thể giúp khách hàng đáp
ứng nhu cầu của họ đối với quyền lực. Rất khó khăn cho một người trưởng thành để cảm thấy tốt
về bản thân họ nếu họ không tham gia vào một số hình thức hoạt động có ý nghĩa. Khi khách
hàng bắt đầu cảm thấy tốt về bản thân, nó sẽ ít cần thiết cho họ để tiếp tục lựa chọn hành vi
không hiệu quả và tự hủy hoại bản thân.
TỪ CHỐI CHUYỂN NHƯỢNG Trị liệu thực tế phấn đấu để được là chính mình trong
công việc chuyên môn của mình. Bằng việc là chính mình,nhà trị liệu có thể sử dụng các mối
quan hệ để dạy các khách hàng như thế nào để liên hệ với những người khác trong cuộc sống của
họ. Glasser cho rằng việc chuyển nhượng là một cách mà cả bác sĩ chuyên khoa và khách hàng
tránh việc họ là chính mình và sở hữu những gì họ đang làm ngay bây giờ. Nó là không thực tế
cho trị liệu gia với ý tưởng rằng họ là ai nhưng bản thân. Giả sử khách hàng yêu cầu, "Tôi thấy
bạn là cha mẹ tôi và đây là lý do tại sao tôi đang hành xử theo cách tôi đang làm." Trong tình
huống như vậy một nhà trị liệu thực tế có khả năng sẽ nói rõ ràng và chắc chắn,"Tôi không phải
là cha mẹ của bạn, hoặc bất cứ ai nhưng là bản thân mình."
GIỮ VIỆC ĐIỀU TRỊ TRONG THỰC TẠI Một số khách hàng đến tư vấn thuyết phục
rằng các vấn đề của họ bắt đầu trong quá khứ và họ phải xem xét lại quá khứ nếu họ được giúp
đỡ. Glasser (2001) cho rằng chúng tôi là những sản phẩm của quá khứ của chính mình nhưng
cho rằng chúng ta không phải là nạn nhân trong quá khứ trừ khi chúng ta chọn như vậy. Tuy
nhiên, nhiều mô hình điều trị tiếp tục dạy rằng để hoạt động tốt trong hiện tại chúng ta phải hiểu
và xem xét lại quá khứ của mình. Glasser không đồng ý với quan điểm này và cho rằng bất cứ
điều gì sai lầm đã được thực hiện trong quá khứ là không thích hợp với hiện tại. Chúng tôi chỉ có

thể đáp ứng nhu cầu của chúng ta trong hiện tại.
Các nhà trị liệu thực tế không hoàn toàn bác bỏ quá khứ. Nếu khách hàng muốn nói
chuyện về những thành công trong quá khứ hay các mối quan hệ tốt đẹp trong quá khứ, các bác
sĩ chuyên khoa sẽ lắng nghe, bởi vì những điều đó có thể được lặp lại trong hiện tại. Trị liệu thực
tế sẽ dành vừa đủ thời gian nói về những thất bại quá khứ để bảo đảm khách hàng rằng họ không
chối bỏ chúng. Càng sớm càng tốt, nhà trị liệu nói với khách hàng: "Những gì đã xảy ra là kết
thúc; nó không thể thay đổi. Càng dành nhiều thời nhìn lại, chúng ta càng tránh né nhìn về phía
trước. "Mặc dù quá khứ đã đưa chúng ta đến hiện tại, nó không phải điều quyết định tương lai
của chúng tôi (Wubbolding, 2007b).
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 7


TRÁNH TẬP TRUNG VÀO TRIỆU CHỨNG Trong liệu pháp truyền thống một
lượng lớn thời gian được dành tập trung vào các triệu chứng bằng cách hỏi khách hàng họ cảm
thấy thế nào và lý do tại sao họ đang bị ám ảnh. Tập trung vào quá khứ "bảo vệ" khách hàng
khỏi việc đối mặt với thực tế của mối quan hệ không thoả mãn hiện tại, và tập trung vào các triệu
chứng làm điều tương tự. Glasser (2003) cho rằng những người có triệu chứng tin rằng nếu họ có
thể xem đó chỉ là triệu chứng bệnh thì họ sẽ tìm được hạnh phúc. Cho dù người đó đang buồn
hay đau đớn, họ có xu hướng nghĩ rằng những gì họ đang trải qua đang xảy ra với họ. Họ không
muốn chấp nhận thực tế rằng sự đau khổ của họ là do tổng hành vi họ đang lựa chọn. Triệu
chứng của họ có thể được xem như là cách cơ thể cảnh báo họ rằng hành vi họ đang lựa chọn
không đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ. Các nhà trị liệu thực tế dành ít thời gian nhất có thể về
các triệu chứng, vì họ sẽ kéo dài cho đến khi họ thấy cần thiết để đối phó với một mối quan hệ
không hài lòng hoặc thất vọng của nhu cầu cơ bản.
Theo Glasser, nếu khách hàng tin rằng các bác sĩ chuyên khoa muốn nghe về các triệu
chứng của họ hoặc dành thời gian nói về quá khứ, họ sẽ sẵn sàng để nghe theo. Tham gia vào
cuộc hành trình dài vào quá khứ hoặc khám phá các triệu chứng dẫn đến điều trị kéo dài. Glasser
(2005) cho rằng khách hàng có xu hướng tránh nói về mối quan hệ không hạnh phúc hiện tại của

mình bằng cách tập trung vào quá khứ hoặc trên các triệu chứng của họ. Ông cho rằng gần như
tất cả các triệu chứng được gây ra bởi sự việc ở hiện tại.
Bằng cách tập trung vào vấn đề ở hiện tại, đặc biệt là mối quan tâm cá nhân, điều trị
thường có thể được rút ngắn đáng kể.
THỬ THÁCH CÁC QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG CỦA BỆNH TÂM THẦN
Lý thuyết lựa chọn bác bỏ quan điểm truyền thống rằng những người có triệu chứng vật
lý và tâm lý có vấn đề là bị bệnh tâm thần. Glasser (2003) đã cảnh báo mọi người thận trọng về
tâm lý, nó có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe thể chất và tinh thần. Ông chỉ trích việc thành lập
tâm thần học truyền thống dựa nhiều vào DSM-IV-TR cho việc chẩn đoán và điều trị. Glasser
(2003) thách thức các quan điểm truyền thống ngoại trừ cái nhìn về bệnh tâm thần và việc điều
trị bằng cách sử dụng thuốc. Ông khẳng định rằng các loại thuốc tâm thần thường có tác dụng
phụ tiêu cực cả về thể chất và tâm lý.
Mục tiêu chính của trị liệu thực tế là giúp khách hàng có được kết nối hoặc tái kết nối với
những người mà họ đã chọn đê đưa vào thế giới chất lượng của họ. ngoài việc thực hiện nhu cầu
được yêu thương và thuộc về, mục tiêu cơ bản của trị liệu thực tế là giúp thân chủ tìm ra những
cách tốt hơn hoàn thành những nhu cầu của họ, bao gồm quyền lực và thành tích, tự do hay đọc
lập, và vui vẻ. Các thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người nhằm tập trung lập kế hoạch điều trị
và thiết lập mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Wubbolding (2007a) viết: “Làm việc trong ranh giới
đạo đức và sự chấp nhận xã hội, bạn sẽ giúp thân chủ đặt được mục tiêu thực tế trong cải thiện
sức khỏe, tang cường các mối quan hệ, đạt được một cảm giác kiểm soát bên trong hay quyền
lực, trở thành tự chủ hơn, và tận hưởng cuộc sống”
Trong nhiều trường hợp, TC đến với sự tự nguyện điều trị, và những TC đó dễ dàng nhất
để giúp đỡ. Tuy nhiên, mục tiêu đòi hỏi làm việc với số lượng ngày càng nhiều khách hàng
không tự nguyện, người có thể chủ động chống lại nhà điều trị và quá trình điều trị. Những cá
nhân này thường xuyên tham gia các hành vi bạo lực, nghiện ngập, và các loại khác của hành vi
chống đối xã hội. Nó là cần thiết để nhân viên tư vấn làm bất cứ điều gì họ có thể để có được kết
nối với các khách hàng không tự nguyện. Nếu nhà tư vấn không thể thực hiện một kết nối, đó là
không có khả năng cung cấp sự giúp đỡ đáng kể. Nếu nhà tư vấn có thể tạo nên một kết nối, mục
tiêu dẫn dắt TC như thế nào để đáp ứng nhu cầu của họ có thể dần dần bắt đầu.
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10


Page 8


Chức năng và vai trò của nhà trị liệu
Trị liệu có thể coi như một quá trình tư vấn, trong đó, nhà trị liệu là giáo viên và TC là
học trò. Trị liệu thực tế dạy TC làm thế nào để tham gia vào việc tự đánh giá, được thực hiện
bằng cách đưa ra câu hỏi “những hành vi của bạn có cho bạn nhận được những gì bạn muốn và
cần?” vai trò của trị liệu thực tế không phải để đánh giá TC nhưng để thử thách họ kiểm tra và
đánh giá hành vi của họ, sau đó lập kế hoạch để thay đổi. kết quả là những mối quan hệ tốt hơn,
tăng niềm hạnh phúc, và một cảm giác kiểm soát (từ bên trong) cuộc sống của họ. (Wubbolding,
2007).
Đó là công việc của các nhà trị liệu để truyền đạt ý tưởng rằng không có vấn đề nào là tồi
tệ, chúng là hy vọng. nếu nhà trị liệu có thể thấm nhuần ý nghĩa này của hy vọng, TC cảm thấy
rằng họ không còn cô đơn và thay đổi là khả thi. Nhà trị liệu là người ủng hộ, đứng về phía TC.
Cả hai tạo ra cách giải quyết các vấn đề.
Thân chủ trong trị liệu
TC không được kỳ vọng quay lại quá khứ hay thiên về nói về các triệu chứng. cũng
không dành nhiều thời gian nói về những cảm xúc từ hành động và suy nghĩ, mà TC kiểm soát
trực tiếp.
TC rất có thể tìm được nhà trị liệu nhẹ nhàng, nhưng chắc chắn có sự đương đầu. nhà trị
liệu thực tế thường hỏi TC những câu hỏi như: “có phải bạn đang lựa chọn mang bạn đến gần
hơn với người bạn muốn thân thiết?” “có phải những gì bạn làm để đưa bạn gần gữi hơn với một
người mới nếu hiện tại bạn không kết nối với bất cứ ai?” những câu hỏi này là một phần của quá
trình tự đánh giá bản thân, là nền tảng của trị liệu thực tế.
TC có thể mong đợi khẩn cấp trong trị liệu. thời gian là quan trọng, vì mỗi phiên có thể là
lần cuối. TC nên nói về bản thân họ, “tôi có thể bắt đầu áp dụng những gì chúng ta nói hôm nay
vào cuộc sống của tôi. Tôi đã sẵn sang mang những kinh nghiệm hiện tại của tôi để giải quyết
vấn đề của tôi, và sự điều trị sẽ không cho tôi tách rời thực tế.
Mối quan hệ giữa nhà trị liệu và TC

Trị liệu thực tế nhấn mạnh sự hiểu biết và mối quan hệ hỗ trợ, hay liên minh trị liệu, là
nền tảng cho những kết quả có hiệu quả (Wubbolding & Brickell, 2005). Mặc dù mối quan hệ trị
liệu là tối quan trọng, nó không tự kết thúc, và nó không tự động chữa bệnh hay chữa lành
(Wubbolding et al., 2004).
Để có sự tham gia (mối tương quan) giữa nhà trị liệu và thân chủ, nhà trị liệu phải có
những phẩm chất cá nhân nhất định, bao gồm sự ấm áp, chân thành, thấu hiểu, chấp nhận, quan
tâm, tôn trọng TC, sự cởi mở và sự sẵn sàng để được thử thách bởi người khác. Xác định những
cách riêng cho nhà tham vấn (counsellor) để tạo không khí dẫn dắt sự tham gia với TC. Một vài
cách đòi hỏi sử dụng hành vi tham gia, lắng nghe TC, không phán xét, làm bất ngờ (doing the
unexpected), hài hước hợp lý, là chính mình như một nhà tham vấn, tham gia vào thuận lợi tự
tiết lộ (facilitative self-disclosure), lắng nghe sự ẩn dụ trong sự thể hiện của TC, lắng nghe các
chủ đề, tóm tắt và tập trung, và trở thành học viên có đạo đức (ethical practitioner). Cơ sở để can
thiệp điều trị hiệu quả dựa trên sự công bằng, vững chắc, thân thiện, môi trường tin tưởng. Khi
đã có sự tham gia, nhà tham vấn hỗ trợ TC trong việc đạt được sự hiểu biết sâu sắc hơn về hậu
quả của những hành vi hiện tại của họ.
Ứng dụng: kỹ thuật trị liệu và thủ tục
Thực hành trị liệu thực tế
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 9


thực hành trị liệu thực tế bao gồm hai thành phần chính: (1) tạo ra môi trường tư vấn và
(2) thực hiện thủ tục cụ thể dẫn đến thay đổi hành vi. Nghệ thuật của tư vấn là đan xen các thành
phần này với nhau để dẫn dắt TC đánh giá cuộc sống của họ và quyết định thay đổi theo hướng
hiệu quả hơn.
Làm thế nào để pha trộn các thành phần trong quá trình tham vấn? chu kỳ tham vấn bắt
đầu bằng việc tạo mối quan hệ với TC. Quá trình tiến hành qua sự tìm hiểu điều TC muốn, nhu
cầu, và nhận thức. TC tìm hiểu được tất cả hành vi của họ và đánh giá được việc họ có nhận
được những gì họ muốn. nếu TC quyết định thử hành vi mới, họ lập kế hoạch để thay đổi, họ tự

cam kết với kế hoạch đó. Chu kỳ tham vấn bao gồm theo dõi TC thực hiện thế nào và hỗ trợ
thêm khi cần thiết.
Điều quan trọng là cần lưu ý rằng mặc dù các khái niệm có vẻ đơn giản, để đưa chúng
vào thực tế cần có kỹ năng và sự sang tạo đáng kể. mặc dù các nguyên tắc như nhau khi được sử
dụng bởi các nhà trị liệu thực tế, cách thức họ áp dụng khác nhau tùy thuộc phong cách nhà TV
và các đặc điểm cá nhân. Những nguyên tắc này được áp dụng một cách tiến bộ, nhưng chúng
không nên được hiểu rời rạc và cứng nhắc. mặc dù các bước được mô tả đơn giản, jargon-free
language, nhưng chúng là thách thức để áp dụng. tham vấn không phải áp dụng như nhau cho
mỗi TC. Tuỳ thuộc bối cảnh thực tế, TVV điều chỉnh tham vấn cho từng TC.
Robert Wubbolding là người mở rộng việc thực hành trị liệu thực tế (WDEP system).
MÔI TRƯỜNG TƯ VẤN
Trị liệu thực tế dựa trên giả định môi trường hỗ trợ và thách thức cho TC để bắt đầu thay
đổi cuộc sống. mối quan hệ giữa TVV và TC là nền tảng cho trị liệu hiệu quả; nếu không có mối
quan hệ tốt, trị liệu khó thành công. TVV hy vọng tạo ra một liên minh trị liệu không có tranh
cãi, tấn công, cáo buộc, hạ thấp phẩm giá, chỉ huy, chỉ trích, tìm lỗi, ép buộc, bào chữa, giữ mối
hận thù, truyền nỗi sợ hãi, dễ từ bỏ. rất nhanh chóng, TC sẽ đánh giá sự tận tình, chấp nhận,
không ép buộc sự lựa chọn. đó là sự đương đầu nhưng không chỉ trích, không đổ lỗi, không phàn
nàn, môi trường quan tâm, an toàn để TC tạo lập được những mối quan hệ thành công. TC sẽ
cảm thấy tự do để sáng tạo và bắt đầu thử những hành vi mới.
PHƯƠNG PHÁP ĐỂ THAY ĐỔI
-

Con người có động lực để thay đổi

+ Họ nhận ra hành vi hiện tại của họ không mang lại những gì họ muốn
+ Họ tin họ có thể chọn những hành vi khác để gần tới mục đích của họ hơn.
Bắt đầu bằng việc hỏi TC: “Bạn muốn gì từ quá trình trị liệu?”
Nhà trị liệu loại bỏ sự bí ẩn và không chắc chắn trong điều trị.
Cũng hỏi về sự lựa chọn của TC trong các mối quan hệ của họ. trong hầu hết các trường
hợp, phần lớn là không hài lòng, và TC thường không tin rằng họ có bất kỳ sự lựa chọn nào để

duy trì mối quan hệ. Khi bắt đầu, TC có thể phủ nhận điều này là vấn đề. ví dụ, TC nói “Tôi chán
nản, đó là vấn đề của tôi. Sao anh lại nói về các mối quan hệ của tôi?” TC thường không muốn
nói về vấn đề thực sự, là mối quan hệ không vừa lòng.
Trong buổi đầu, TVV xác định nhu cầu của TC. TVV nhìn ra chìa khoá của mối quan hệ
không tốt hiện tại, thường là vợ, con, cha mẹ, hay cấp trên. TVV có thể hỏi “BẠn có thể kiểm
soát được hành vi của ai?”. Câu hỏi này có thể hỏi tiếp ở những lần trị liệu sau để TC xem xét
hành vi của mình. Trọng tâm là khuyến khích TC tập trung vào những gì họ có thể kiểm soát.
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 10


Khi TC bắt đầu nhận ra rằng họ chỉ kiểm soát được hành vi của mình, tức là trị liệu có
hiệu quả. Phần còn lại là tập trung vào TC làm thế nào để có lựa chọn tốt hơn. Có nhiều lựa chọn
TC có thể nhìn ra, trị liệu khám phá ra những lựa chọn khả thi. TC có thể bị mắc kẹt trong đau
khổ, đổ lỗi, quá khứ, nhưng họ có thể lựa chọn để thay đổi, ngay cả khi người kia trong mối quan
hệ không thay đổi. Biết rằng họ không cần sự thương hại, không phải nạn nhân, và có một loạt
lựa chọn mở ra với họ.
Trị liệu thực tế khám phá nguyên lý của lý thuyết lựa chọn với TC, giúp TC xác định nhu
cầu cơ bản, khám phá thế giới chất lượng của họ, những lựa chọn của họ hiện tại là triệu chứng
(gây nên vấn đề). TC thực hiện sự thay đổi, đó là lựa chọn của họ. Với sự giúp đỡ của TVV tốt
hơn là TC tự làm một mình. Kết quả TC có được và duy trì các mối quan hệ thành công.
Hệ thống WDEP
Hệ thống WDEP có thể được sử dụng để giúp khách hàng khám phá những mong muốn
của họ, những điều có thể họ có thể làm, cơ hội cho tự đánh giá và phương án thiết kế để cải
thiện
W = wants and need
D = direction and doing
E = self evaluation
P = planning

Một số câu hỏi giúp TC xác định được họ muốn gì:
-

Nếu bạn được trở thành người bạn muốn, bạn muốn là kiểu người nào?

-

Nếu bạn là người bạn muốn là, bạn sẽ làm gì?

-

Bạn có thực sự muốn thay đổi cuộc sống của bạn?

-

Thứ gì bạn muốn mà dường như bạn không thể nhận được từ cuộc sống?

-

Bạn nghĩ điều gì ngăn cản bạn thay đổi?

Dòng này của bảng câu hỏi đặt ra cách thức áp dụng các nguyên tắc trong điều trị thực
tế. Nó là một nghệ thuật cho nhân viên tư vấn để biết những gì cần hỏi, làm thế nào để hỏi chúng
và hỏi khi nào.
Hướng dẫn và thực hiện: phương pháp trị liệu thực tế nhấn mạnh đến hành vi hiện tại và
có liên quan tới những sự kiện trong quá khứ, chỉ đến mức độ mà nó tác động đến thân chủ đang
hành xử bây giờ như thế nào. Sự tập trung vào hiện tại được đặc trưng bởi những câu hỏi thường
được hỏi bởi nhà trị liệu thực tế: “Anh đang làm gì?” Mặc dù những vấn đề có thể được bắt
nguồn từ trong quá khứ nhưng thân chủ cần học cách làm thế nào để giải quyết với những điều
đó trong hiện tại bằng cách học những cách thức tốt hơn để nhận được những gì họ muốn. Quá

khứ có thể được thảo luận nếu làm như vậy sẽ giúp thân chủ lập kế hoạch cho ngày mai tốt hơn.
Thách thức của nhà trị liệu là giúp thân chủ thực hiện nhiều lựa chọn hài lòng.
Tư vấn sớm là cần thiết để thảo luận với thân chủ những định hướng tổng thể cuộc sống
của họ, bao gồm những nơi họ đang đi và những nơi mà hành vi của họ đang có được điều đó.
Thăm dò này là sơ bộ để đánh giá tiếp theo về việc nó là một hướng mong muốn hay không. Nhà
trị liệu nên giữ một hình ảnh trung thực trước thân chủ và hỏi “Bạn muốn kiểm tra cái gì cho
chính mình bây giờ và trong tương lai?” Để rõ ràng hơn cho thân chủ thường mất một khoảng
thời gian để thân chủ phản hồi điều này, để họ có thể bày tỏ quan điểm của họ.
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 11


Liệu pháp thực tế tập trung vào việc đạt được nhận thức và thay đổi tất cả hành vi hiện
tại. Để thực hiện điều này, nhà trị liệu tập trung vào câu hỏi như thế này: “Bây giờ bạn đang làm
gì?” “Bạn đã làm gì trong tuần vừa qua?” “ Bạn muốn làm khác điều gì trong tuần vừa qua?”
“Bạn đã ngừng làm những việc gì bạn nói rằng mình muốn làm?” “ Bạn sẽ làm gì vào ngày
mai?”
Lắng nghe thân chủ nói về những cảm xúc có thể được biểu lộ ra ngoài, nhưng chỉ khi nó
liên quan đến những gì họ đang làm. Khi đèn khẩn cấp trên bảng điều khiển xe hơi sáng lên
người lái xe được cảnh báo rằng có cái gì đó sai và họ cần hành động ngay lập tức để khắc phục
vấn đề. Theo cách tương tự, khi thân chủ nói về cảm xúc có vấn đề, hầu hết nhà trị liệu thực sự
khẳng định và thừa nhận những cảm xúc này. Thay vì tập trung chủ yếu vào những cảm xúc này,
nhà trị liệu thực sự nên khuyến khích thân chủ phải hành động bằng cách thay đổi những gì họ
đang làm và suy nghĩ. Nó thay đổi dễ dàng hơn những gì chúng ta đang làm và suy nghĩ hơn là
thay đổi cảm xúc của chúng ta. Theo Glasser (1992), những gì chúng ta đang làm thì dễ thấy và
không thể phủ nhận, nó đáp ứng như là trọng tâm thích hợp trong điều trị. Từ góc độ lý thuyết
lựa chọn, các cuộc thảo luận tập trung vào cảm xúc mà không liên quan 1 cách mạnh mẽ đến
chúng, những gì mọi người đang làm và nghĩ là phản tác dụng.
Đánh giá: Cốt lõi của việc điều trị thực tế như chúng ta đã thấy là yêu cầu thân chủ thực

hiện việc tự đánh giá như sau: “Liệu hành vi hiện tại của bạn có một cơ hội hợp lý để nhận được
những gì bạn muốn và nó sẽ đưa bạn theo hướng bạn muốn đi?” Cụ thể đánh giá bao gồm hướng
hành vi kiểm tra thân chủ, hành động cụ thể, mong muốn, nhận thức, định hướng mới và kế
hoạch (Wubbolding, 2007b). Theo Wubbolding (2007a, p. 200) thân chủ thường đưa ra một vấn
đề với một mối liên hệ quan trọng, đó là nguồn gốc của sự không hài lòng của họ. Tham vấn
viên có thể giúp thân chủ đánh giá hành vi của họ bằng những câu hỏi này: “Hành vi hiện tại của
bạn có đưa bạn đến gần những người quan trọng với bạn hơn không hay nó đang đi xa hơn? Qua
câu hỏi khéo léo tham vấn viên giúp thân chủ đánh giá hành vi hiện tại của họ và định hướng this
is taking them. Wubbolding (1998, 2000; Wubbolding et al., 1998) đề xuất những câu hỏi như
thế này:


Bạn đang làm gì để giúp ích hoặc làm tổn thương chính mình?



Bây giời bạn đang làm những việc bạn muốn làm là gì?



Hành vi bạn đang làm là gì?



Có sự phù hợp có lợi cho sức khỏe hay không? giữa những gì bạn đang làm và bạn
tin tưởng?



Bạn đang làm việc gì trái quy định?




Những gì bạn muốn thực tế và có thể đạt được?



Liệu nó có giúp bạn nhìn theo cách đó?



Bạn đã cam kết như thế nào để quá trình điều trị và để thay đổi cuộc sống của bạn?



Sau khi cẩn thận kiểm tra những gì bạn muốn, nó có xuất hiện trong sự thích thú của
bạn và trong sự thích thú của người khác tốt nhất không?

Yêu cầu thân chủ đánh giá từng phần của tổng số hành vi của họ là nhiệm vụ chính
trong trị liệu thực tế. Nó là nhiệm vụ chính của tham vấn viên để thân chủ đánh giá chất
lượng hành động của họ và giúp họ thực hiện những lựa chọn hiệu quả. Cá nhân sẽ không
thay đổi cho đến khi lần đầu tiên họ quyết định rằng một sự thay đổi sẽ có lợi hơn. Nếu
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 12


không có một sự tự đánh giá trung thực, nó không chắc chắn rằng thân chủ sẽ thay đổi. Nhà
trị liệu thực sự là không ngừng nỗ lực để giúp thân chủ thực hiện sự tự đánh giá rõ ràng của
mỗi hành vi. Khi nhà trị liệu hỏi một thân chủ trầm cảm nếu hành vi này là có lợi trong thời

gian dài thì họ giới thiệu những ý tưởng của sự lựa chọn cho thân chủ. Quá trình đánh giá
việc làm, suy nghĩ, cảm xúc, và các thành phần sinh lý của tổng thể hành vi là trong phạm vi
trách nhiệm của thân chủ.
Nhà trị liệu thực sự có thể được directive với thân chủ nhất định ở thời kỳ đầu của
điều trị. Điều này được thực hiện để giúp khách hàng nhận ra rằng một vài hành vi không
hiệu quả. Khi làm việc với khách hàng người mà đang ở trong khủng hoảng, ví dụ: thỉnh
thoảng nó cần thiết để đề nghị thẳng thắng những gì sẽ làm và không làm. Những thân chủ
khác, chẳng hạn những người nghiện rượu và con cái của những người nghiện rượu cần định
hướng sớm trong quá trình điều trị, vì thường họ không có những hành vi suy nghĩ trong hệ
thống kiểm soát của họ. Những thân chủ này có thể có những ảo giác và đồng thời không ý
thức được những gì họ muốn hay mong muốn của họ có thực hay là không. Khi họ grow và
tiếp tục tương tác với tham vấn viên, họ học cách đánh giá với sự hỗ trợ ít hơn từ tham vấn
viên (Wubbolding & Brickell, 2005).
Kế hoạch và hành động: Phần lớn các công việc quan trọng của quá trình tư vấn bao
gồm hỗ trợ thân chủ xác định những cách thức cụ thể để thực hiện mong muốn và nhu cầu
của họ. Một khi thân chủ xác định được những gì họ muốn thay đổi, họ thường sẵn sàng
khám phá các hành vi khác và và xây dựng một kế hoạch hành động. Quá trình tạo ra và
thực hiện các kế hoạch cho phép con người bắt đầu đạt được sự kiểm soát hiệu quả cuộc sống
của họ. Nếu kế hoạch này không thực hiện, vì lí do gì đó các tham vấn viên và thân chủ cùng
làm việc với nhau để đưa ra 1 kế hoạch khác. Kế hoạch cung cấp cho thân chủ một điểm khởi
đầu, một chỗ dựa về cuộc sống, nhưng kế hoạch có thể được sữa đổi khi cần thiết.
Trong suốt giai đoạn lập kế hoạch này, các tham vấn viên liên tục thúc giục thân chủ
phải sẵn sàng chấp nhận kết quả cho sự lựa chọn vầ hành động cho chính mình.
Wubbolding (1998, 1991, 1996, 2000, 2007a, 2007b, 2008b) thảo luận vai trò trung
tâm của kế hoạch và cam kết. Đỉnh điểm của chu kỳ tư vấn thuộc về một kế hoạch hành
động. Ông sử dụng SAMIC3 để nắm bắt được bản chất của một kế hoạch tốt: đơn giản, có
thể đạt được, đo lường được, ngay lập tức, được kiểm soát bởi người lập kế hoạch, được cam
kết, và liên tục thực hiện. Wubbolding cho rằng các thân chủ đạt được kiểm soát hiệu quả
hơn trong cuộc sống của họ với những kế hoạch mà có các đặc điểm sau:



Kế hoạch này nằm trong giới hạn của động lực và khả năng của thân chủ. Tham
vấn viên khéo léo hỗ trợ thân chủ xác định các kế hoạch liên quan đến việc
thưởng phạt vừa đủ tốt hơn. Thân chủ có thể được hỏi, “ Kế hoạch gì bạn có thể
làm bây giờ mà sẽ dẫn đến một cuộc sống mãn nguyện hơn?”



Kế hoạch tốt là đơn giản và dễ hiểu. Mặc dù nó cần phải được cụ thể, rõ ràng, và
đo lường được, những kế hoạch cần phải linh hoạt và cởi mở để thân chủ đạt được
một sự hiểu biết sâu sắc hơn về các hành vi họ muốn thay đổi.



Kế hoạch bao gồm 1 khóa học về hành động tích cực và nó được nêu trong điều
kiện những gì thân chủ sẵn sàng làm. Ngay cả kế hoạch nhỏ có thể hỗ trợ thân chủ
thực hiện các bước quan trọng hướng tới sự thay đổi mong muốn của họ.



Tham vấn viên khuyến khích thân chủ phát triển các kế hoạch mà họ có thể thực
hiện độc lập với những gì người khác làm. Những kế hoạch phụ thuộc vào hướng

LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 13


dẫn của người khác khiến thân chủ cảm thấy rằng họ không đang được lái tàu
riêng của họ but are at the mercy of the ocean.



Kế hoạch hiệu quả là lặp đi lặp lại và lý tưởng, được thực hiện hằng ngày.



Kế hoạch được thực hiện càng sớm càng tốt. Tham vấn viên có thể hỏi những câu
hỏi “Bạn sẵn sàng làm gì ngay hôm nay để bắt đầu thay đổi cuộc sống của bạn?”



Kế hoạch liên quan đến những hoạt động xử lý trung tâm. Ví dụ, thân chủ có thể
lên kế hoạch làm những việc sau đây: xin việc, viết lá thư cho bạn, tham gia 1 lớp
yoga, thay thế loại đồ ăn không tốt bằng thực phẩm bổ dưỡng, dành 2 giờ 1 tuần
để làm việc tình nguyện hoặc đi nghỉ mát những nơi mà họ muốn.



Trước khi thân chủ thực hiện kế hoạch của họ, đó là một ý tưởng tốt cho họ để
đánh giá nó với nhà trị liệu của họ để xác định xem nó có thực sự và có thể đạt
được hay không và liệu nó có liên quan đến những gì họ cần và muốn hay không.
Sau khi kế hoạch được thực hiện trong cuộc sống thật sự, điều đó sẽ hữu ích để
đánh giá nó 1 lần nữa và thực hiện bất kỳ sửa đổi nào có thể cần thiết.



Để giúp thân chủ tự cam kết với kế hoạch của chính mình, điều này sẽ hữu ích
cho họ khi cam kết được viết thành văn bản.

Sự quyết tâm và kế hoạch sẽ như không trừ khi có một cam kết để thực hiện chúng.

Nó sẽ giúp thân chủ xác định làm thế nào để đưa kế hoạch của họ ra bên ngoài thế giới hạn
chế của điều trị và vào thế giới hằng ngày. Trị liệu hiệu quả có thể là chất xúc tác dẫn đến tự
định hướng, sống có trách nhiệm.
Yêu cầu thân chủ xác định những gì họ mong muốn, tự thực hiện đánh giá và theo
đuổi đến cùng các kế hoạch hành động bao gồm việc hỗ trợ họ trong việc xác định một cách
mẽ như thế nào, họ sẵn sàng làm việc để đạt được những thay đổi mà họ mong muốn. Cam
kết không phải là một vấn đề hoặc được cả hoặc mất hết, nó hiện hành trong mức độ nào đó.
Wubbolding (2007a) cho rằng điều đó quan trọng cho một tham vấn viên bày tỏ mối
quan tâm về mức độ cam kết của thân chủ, hoặc mức độ họ sẳn sàng làm việc để thay đổi.
Những cái này kết nối một cách tiềm ẩn đến thân chủ và những thứ này họ có khả năng chịu
trách nhiệm về cuộc sống của họ. Điều cần thiết là những khách hàng miễn cưỡng đó thực
hiện một cam kết được hỗ trợ để bày tỏ và khám phá nỗi sợ hãi về thất bại của họ. Khách
hàng được giúp đỡ bởi một nhà trị liệu người mà không từ dễ dàng từ bỏ niềm tin vào khả
năng của họ để thực hiện chọn lựa tốt hơn, thậm chí ngay cả khi họ không luôn thành công
trong việc hoàn thành kế hoạch của họ.
Áp dụng với nhóm tư vấn:
Hệ thống WDEP có thể được áp dụng để giúp đỡ mọi người đáp ứng nhu cầu cơ bản
trong một nhóm tốt. Đây là một cách tiếp cận hợp tác trong đó nhóm tham vấn viên và những
thành viên tham gia cùng nhau xác định mục tiêu và lên kế hoạch hành động (Wubbolding &
Brickell, 2005). Lúc nhóm bắt đầu, các thành viên có thể được yêu cầu có một cái nhìn trung
thực về những gì họ làm và làm rõ hành vi của họ có nhận được những điều mà họ nói và họ
muốn hay không. Khi các thành viên trong nhóm hiện giờ có một bức tranh rõ ràng hơn về
những gì họ có trong cuộc sống của họ và những gì họ mong muốn là khác thì họ có thể sử
dụng nhóm như là một nơi để nghiên cứu một khóa học khác của hành vi.
Mô hình này tự vay chính nó để các thành viên thực hiện các bài tập về nhà giữa các
cuộc họp nhóm. Tuy nhiên, nó là những thành viên không phải là người chỉ dẫn, những
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 14



người mà đánh giá hành vi của mình và quyết định họ muốn thay đổi hay không. Các thành
viên còn dẫn đầu trong việc quyết định loại nhiệm vụ bài tập về nhà là gì, họ sẽ thiết lập cho
chính mình như là cách để đạt được mục tiêu của mình. Nhiều trưởng nhóm đối mặt với sự
phản bác bởi vì họ đề xuất và lên kế hoạch cho các thành viên nên làm như thế nào để cuộc
sống của họ tốt nhất. Để có sự tín nhiệm của họ, các nhà trị liệu tiếp tục thách thức các thành
viên để họ tự đánh giá chính mình, họ có làm gì để là chính mình, để có những thứ họ muốn
hay không. Nếu những thành viên thừa nhận rằng những gì họ làm thì không mang lại kết
quả, sức chống chịu của họ có nhiều khả năng giảm đi thì họ có xu hướng cởi mở hơn để thử
các hành vi khác nhau.
Một khi các thành viên thực hiện một số tay đổi, nhà trị liệu cung cấp biểu đồ trị liệu
cho họ để lên kế hoạch hành động và đánh giá mức độ thành công của họ. Từ phản hồi của
các thành viên trưởng nhóm có thể hỗ trợ các cá nhân thiết kế các kế hoạch thực tế và có thể
đạt được. Dành nhiều thời gian trong các buổi họp nhóm để phát triển và triển khai kế hoạch.
Nếu mọi người không thực hiện một kế hoạch thì nên thảo luận với họ về những điều mà họ
đã dừng. Có lẽ họ đặt mục tiêu của họ quá cao hoặc có lẽ đó là một sự khác biệt giữa những
gì họ nói và họ muốn thay đổi, các bước mà họ sẵn sàng thực hiện để thay đổi.
Tôi thích sự nhấn mạnh của trị liệu thực tế là sự thay đổi sẽ không đến bởi sự hiểu
biết từ một cá nhân; hay đúng hơn các thành viên phải làm một cái gì đó khác, một khi họ
xác định rằng hành vi của họ không tác động đến chính mình. Tôi hoài nghi về giá trị của
giải tỏa cảm xúc như một phương tiện điều trị trừ khi đó là sự giải tỏa của cảm xúc bị dồn
nén là cách cuối cùng để vào một số khung nhận thức và được bám sát với một kế hoạch
hành động. Trong những nhóm mà tôi tạo điều kiện, những thành viên trong nhóm được
thách thức để nhìn vào sự vô ích của việc chờ đợi sự thay đổi từ những người khác. Tôi yêu
cầu những thành viên giả định rằng những người quan trọng trong cuộc đời của họ có thể sẽ
không bao giờ thay đổi, nghĩa là họ phải giữ lập trường tích cực trong việc hình thành vận
mệnh của chính họ. Tôi đánh giá cao tầm quan trọng của trị liệu thực tế trong việc dạy cho
thân chủ rằng chỉ có 1 cuộc sống duy nhất mà họ có thể kiểm soát đó là cuộc sống của chính
họ và tập trung giúp những thành viên trong nhóm thay đổi những hành vi và suy nghĩ
khuôn mẫu.

Thực tế, họ có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi của người khác khi họ tự thay đổi chính
họ.
Cho một cuộc thảo luận chi tiết hơn của họ thuyết trị liệu thực tế theo nhóm, see
Corey (2008, chap 15)
Trị liệu thực tế từ góc nhìn đa văn hóa
Ưu điểm từ góc nhìn đa văn hóa
Những nguyên lí cơ bản của trị liệu thực tế liên quan nhiều đến lĩnh vực tham vấn dựa
trên nền tảng đa văn hóa. Trong trị liệu đa văn hóa người tham vấn cần tôn trọng khác biệt giữa
góc nhìn của bản thân và khách hàng. Người tham vấn thể hiện sự tôn trọng đối với những giá trị
văn hóa của khách hàng và giúp họ nhận ra cách dung hòa những biểu hiện của bản thân và
những người xung quanh. Một khi khách hàng đã trải qua buổi đánh giá họ sẽ xây dựng một kế
hoạch trị liệu thực tế phù hợp với giá trị văn hóa của họ. Xa hơn nữa đấy là việc thể hiện sự tôn
trọng giúp nhà tham vấn tránh việc áp đặt khách hàng nên thay đổi biểu hiện nào. Thông qua
những kỹ năng đặt câu hỏi của nhà tham vấn, khách hàng từ những nền văn hóa khác nhau có thể
xác định mức độ hòa nhập xã hội của họ. Liệu có thể cho họ sự cân bằng giữa những giá trị văn
hóa của bản thân và hòa nhập với giá trị văn hóa xã hội?. Một lần nữa nhà tham vấn không giúp
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 15


xác định sự cân bằng này cho khách hàng mà khuyến khích họ tự tìm câu trả lời cho riêng mình.
Với việc tập trung vào suy nghĩ và hành động giúp cho khách hàng ít tỏ ra kháng cự với việc
tham vấn.
Glasser (1998) cho rằng trị liệu thực tế và lý thuyết lựa chọn điều có thể áp dụng cho cá
nhân và nhóm đổi với bất kì ai, bất kì vấn đề tâm lý và nền văn hóa nào. Chúng ta là thành viên
của cùng một giống loài cùng cấu trúc gen do đó những mối quan hệ là vấn đề trong mọi nền văn
hóa. Wubbolding 2007a, phân tích rằng trị liệu thực tế dựa trên những nguyên tắc chung nên có
thể áp dụng cho tất cả mọi người. Tất cả chúng ta điều có những nhu cầu bên trong, đưa ra sự lựa
chọn, chúng ta điều tìm cách gây ảnh hưởng đến thế giới xung quanh chúng ta. Wubbolding cho

rằng để đưa nguyên lí lựa chọn vào thực tế cần có sự sáng tạo và nhạy cảm với văn hóa cá nhân,
linh động trong việc áp dụng những quá trình của trị liệu thực tế.
Dựa trên kết luận rằng trị liệu thực tế cần phải được điều chỉnh để phù hợp với nhiều nền
văn hóa hơn là chỉ ở văn hóa bắc mỹ. Wubbolding (2000) và đồng nghiệp1998 2004 đã mở rộng
trị liệu thực tế áp dụng cho những trường hợp đa văn hóa. Kinh nghiệm của Wubbolding mở
những buổi hội thảo về trị liệu thực tế ở Nhật, Hàn, Ấn, Kuwait, Úc, Slovenia…và những quốc
gia ở châu âu đã giúp ông ấy nhận ra sự khó khăn trong việc tổng hợp những nền văn hóa khác
nhau. Ông ấy chỉ ra sự khác biệt cơ bản về ngôn ngữ giữa Nhật và phương tây
Người bắc Mỹ sẵn sàng nói ra những gì mình nghĩ và quyết đoán trong khi nền văn hóa
nhật bản những ngôn ngữ quyết đoán là không phù hợp giữa trẻ nhỏ và người lớn, giữa nhân
viên và cấp trên, phương pháp giao tiếp trở nên ít trực diện hơn. Để hỏi một khách hàng nhật
muốn gì có thể dẫn đến việc họ xem điều đó là một sự xúc phạm và gây khó khăn cho họ. Bởi vì
những sự khác biệt này, nên có những điều chỉnh là cần thiết để làm cho việc ứng dụng trị liệu
thực tế dễ dàng hơn với khách hàng nhật


Những nhà trị liệu thực tế có khuynh hướng hỏi trực diện cần phải nhẹ nhàng hơn,
với những câu hỏi gián tiếp và nhẹ nhàng phù hợp hơn. Việc hỏi những câu hỏi cá
nhân liên quan đến biểu hiện này có phù hợp với nhu cầu khách hàng không sẽ dẫn
đến sai lầm. Việc đặt câu hỏi chỉ nên được thực hiện sau khi được cân nhắc kỹ lưỡng.



Không có bất kì từ ngữ nào chính xác cho plan hay accountability tuy nhiên cả hai
điều là vấn đề mấu chốt trong trị liệu thực tế.



Trong việc yêu cầu khách hàng đặt ra kế hoạch thực hiện nó các nhà tham vấn
phương tây sẽ không dừng lại ở câu trả lời “ tôi sẽ cố gắng”. Thay vào đó họ có

khuynh hướng thúc đẩy một cam kết để chắc chắn hoàn thành kế hoạch. Trong văn
hóa Nhật, tuy nhiên nhà tham vấn dễ dàng chấp nhận câu trả lời tôi sẽ cố gắng như
một lời cam kết chắc chắn.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong việc điều chỉnh trị liệu thực tế cho những khách
hàng không phải phương tây, mặc dù phương pháp này cho rằng tất cả mọi người có nhu cầu
cơ bản như nhau ( sinh tồn, yêu và thuộc về, quyền lực, tự do, vui vẻ), cách mà những nhu
cầu này thể hiện ra ngoài phần lớn phụ thuộc vào nền tảng văn hóa. Những nhà trị liệu thực
tế không thể làm việc theo một khuôn mẫu với tất cả khách hàng. Trong việc tham vấn với
những khách hàng từ nhiều nền văn hóa khác nhau nhà tham vấn phải đáp ứng một loạt
những biểu hiện chấp nhận được để đáp ứng nhu cầu này. Đối với những lý thuyết và kỹ
thuật kèm theo sự linh hoạt là yếu tố quan trọng cần thiết nhất.
Ưu điểm của trị liệu thực tế là cung cấp cho khách hàng công cụ mà đưa ra sự thay
đổi mà họ muốn. Điều này đặc biệt đúng trong quá trình lên kế hoạch, là trung tâm của quá
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 16


trình trị liệu thực tế. Sự tập trung nằm ở những bước tích cực được thực hiện không phải
những thứ không thể kiểm soát được. Khách hàng xác định những vấn đề gây cho họ sự khó
khăn, và những vấn đề này trở thành mục tiêu cho sự thay đổi. Sự đặc trưng và tính định
hướng đem lại một kế hoạch hiệu quả chắc chắn là ưu điểm khi làm việc với những nhóm
khách hàng có giá trị khác nhau.
Trị liệu thực tế cần phải được sử dụng một cách nghệ thuật và ứng dụng khác nhau
với các khách hàng khác nhau. Nhiều nguyên lí và ý tưởng của nó có thể được sử dụng độc
lập theo cách phù hợp phong cách nhà tham vấn, đây là cách cơ bản để kết hợp những ý
tưởng trên đây với những phương hướng điều trị khác nhau.
Các nhà trị liệu thực tế thực hành theo đúng những khái niệm quan trọng của lý thuyết về
sự lựa chọn để xác định động lực hành vi của Stan, cung cấp một hướng đi cho anh ta hướng tới,

và hướng dẫn cho cho anh biết rằng có sự lựa chọn thay thế tốt hơn để đạt được những gì mình
muốn. Trong thực tế, Stan đã không nhận được những gì anh ta cần, một mối quan hệ thỏa mãn.
Stan đã rơi vào vai trò nạn nhân, đổ lỗi cho người khác, và dằn vặt với quá khứ thay vì
tiến lên. Ban đầu, anh muốn giãi bày với nhà trị liệu về những khía cạnh tiêu cực của cuộc đời
mình, bằng cách nhấn mạnh những triệu chứng chính như: trầm cảm, lo âu, mất ngủ, và các triệu
chứng thần kinh khác. Nhà trị liệu lắng nghe, nhưng cô cũng thách thức Stan, đặc biệt là khi anh
tập trung mô tả sự đau khổ và các triệu chứng của mình. Mặc dù nhà trị liệu cảm thông với
những chịu đựng và khó khăn mà Stan tiếp tục phải đối mặt, nhà trị liệu hy vọng anh có thể nhận
ra rằng nếu anh quyết định thay đổi, anh có nhiều lựa chọn để hành động khác đi. Cô tư vấn dựa
trên tiền đề rằng liệu pháp này sẽ cung cấp cơ hội để Stan khám phá những gì anh có thể tự xây
dựng nên: thành công, hiệu quả, mục tiêu, và hy vọng cho tương lai.
Sau khi thiết lập mối quan hệ với Stan, nhà trị liệu có thể giúp anh nhận ra anh không
phải là một nạn nhân của quá khứ, trừ phi chính anh lựa chọn như vậy, và việc anh ôm ấp quá
khứ đau khổ trong thời gian qua là đã quá đủ. Theo tiến trình trị liệu, Stan nhận ra rằng mặc dù
hầu hết các vấn đề của mình thực sự bắt đầu từ thời thơ ấu, anh không thể làm gì vào lúc này để
thay đổi thời ấu thơ đó nữa. Cuối cùng, Stan nhận ra rằng tất cả các triệu chứng và sự tránh né đã
ngăn cản anh đạt được những gì anh mong muốn nhất. Anh cũng nhận ra mình có khả năng kiểm
soát những gì mình có thể làm cho bản thân.
Nhà trị liệu khuyến khích Stan mô tả cuộc sống của mình khi không còn bị các triệu
chứng quấy rầy. Cô muốn biết anh sẽ làm gì khi những nhu cầu của anh như nhu cầu thuộc về,
đạt được thành tựu, nhu cầu quyền lực, tự do, và hạnh phúc được đáp ứng. Cô giải thích với anh
rằng anh đã có một hình ảnh về cuộc sống lý tưởng, điều anh thiếu là những hành vi hiệu quả để
đáp ứng nhu cầu của mình. Nhà trị liệu giải thích với anh về tất cả các nhu cầu tâm lý cơ bản của
mình và cách thức mà phương pháp điều trị này có thể giúp anh đáp ứng những nhu cầu đó một
cách hiệu quả. Cô cũng giải thích rằng hành vi của Stan được tạo thành từ cách hành động, suy
nghĩ, cảm xúc, và cả sinh lý. Mặc dù anh nói anh ghét cảm giác lo lắng mọi lúc, Stan biết rằng
hầu hết những gì anh đang làm và suy nghĩ trực tiếp dẫn đến những cảm xúc và phản ứng sinh lý
không mong muốn đó. Khi anh phàn nàn về cảm giác chán nản mọi lúc mọi nơi, cảm giác lo lắng
vào ban đêm hay bị các cơn hoảng loạn tấn công, nhà trị liệu thuyết phục anh rằng cô quan tâm
hơn đến những gì anh đang làm và suy nghĩ vì đây là những yếu tố anh có thể trực tiếp thay đổi.

Nhà trị liệu giúp Stan hiểu rằng nỗi buồn khổ hay thất vọng là do anh lựa chọn có nó.
Mặc dù Stan có thể nghĩ anh không thể kiểm soát cảm xúc của mình, bằng các giác quan, bằng
suy nghĩ, nhà trị liệu muốn anh hiểu rằng anh có toàn quyền hành động khác đi, từ đó có thể thay
đổi những trải nghiệm buồn của mình. Nhà trị liệu thường xuyên hỏi câu hỏi này: "Liệu những gì
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 17


bạn chọn làm có giúp bạn đạt được những gì bạn muốn?" Cô giúp Stan bắt đầu nhận ra rằng anh
vẫn có thể kiểm soát cảm xúc của mình. Bài tập nhận thức này phát huy hiệu quả, đặc biệt sau
khi anh lựa chọn hành động khác đi những gì anh đã làm trong quá khứ. Vào lúc đó, Stan nhận
ra chính lựa chọn mới của mình đã giúp cảm xúc của mình trở nên tích cực hơn và khiến anh
thấy, thực ra mình có khả năng thay đổi.
Stan nói với nhà trị liệu về những hình dung tương lai, một vài hình ảnh trong số đó là trở
thành một nhà trị liệu trong tương lai, hành xử tự tin hơn trong giao tiếp với người khác, nhìn
nhận mình như là một người có giá trị, và tận hưởng cuộc sống. Thông qua việc điều trị anh tự
đánh giá thấy hầu hết những việc anh đang làm khiến anh không tiến gần đến những hình dung
đó hay nói cách khác, ngăn cản anh đặt được những gì anh muốn. Sau khi Stan quyết tâm sống
khác đi, phần lớn thời gian của phiên trị liệu được dành để xây dựng kế hoạch và thảo luận cách
thức thực hiện. Nhà trị liệu cùng anh tập trung bàn thảo về các bước cụ thể mà anh có thể thực
hiện ngay.
Và khi Stan hiện thực hóa những kế hoạch đó, anh bắt đầu trải nghiệm thành công. Nếu
có lúc anh lùi bước, nhà trị liệu vẫn không từ bỏ mà nhưng giúp anh tập trung trở lại. Họ cùng
nhau lập nên kế hoạch mới khiến họ cảm thấy tự tin hơn. Nhà trị liệu không từ bỏ Stan ngay cả
khi anh không đạt được tiến bộ lớn. Sự hỗ trợ của nhà trị liệu là nguồn cảm hứng thực sự cho
Stan tiếp tục con đường của mình.
Nhà trị liệu giới thiệu cho Stan lý thuyết về sự lựa chọn, và nếu Stan sẵn sàng đọc thêm
tài liệu, cô gợi ý anh nên đọc và suy nghĩ về những ý tưởng trong cuốn Counseling With Choice
Theory: The New Reality Therapy (Glasser, 2001) và cuốn A Set of Directions for Putting and

Keeping Yourself Together (Wubbolding & Brickell, 2001). Những gì Stan đọc và chiêm
nghiệm được sẽ được anh mang vào các phiên trị liệu và từ đó, có thể giúp anh đạt được một số
mục tiêu của mình. Sự kết hợp giữa việc làm việc với một nhà trị liệu thực tế, việc đọc sách,
cũng như sự sẵn lòng áp dụng những điều đã học vào hành vi thực tế đã giúp anh thay thế những
lựa chọn không hiệu quả trước đây bằng những lựa chọn tích cực hơn cho cuộc sống của mình.
Từ đó, Stan chấp nhận mình là người duy nhất có thể kiểm soát số phận của chính mình.
Bài tập: Bạn hãy đóng vai nhà trị liệu thực tế của Stan. Sử dụng các câu hỏi sau để giúp
bạn suy nghĩ về cách bạn sẽ tư vấn Stan, bằng cách sử dụng liệu pháp thực tế:
• Nếu Stan phàn nàn về cảm giác chán nản mọi lúc mọi nơi và muốn bạn "giải quyết"
cảm giác đó, bạn sẽ tiến hành như thế nào?
• Nếu Stan nói với bạn rằng tâm trạng hiện tại của anh rất tồi tệ và anh muốn bạn làm
việc với bác sĩ để kê cho anh một loại thuốc chống trầm cảm, bạn sẽ nói gì hay làm gì?
• Một số nhu cầu cơ bản mà không được đáp ứng của Stan là gì? Bạn có thể nghĩ đến
những kế hoạch hành động nào để giúp Stan nhận được những gì mình muốn?
• Bạn có dự định kiểm tra về chứng nghiện rượu với Stan hay không? Tại sao có hoặc
không? Nếu bạn xác định rằng anh bị nghiện rượu, bạn có khuyến khích anh tham dự chương
trình giúp đỡ người nghiện rượu như chương trình Alcoholic’s Anonymous song song với việc
điều trị của bạn hay không? Tại sao có hoặc không?
• Những biện pháp can thiệp nào bạn sẽ làm để giúp Stan khám phá mẫu hành vi của
mình?
Điều quan trọng là nhà trị liệu cần hiểu rằng không ai muốn là nạn nhân của phân biệt
chủng tộc. Nếu nhà trị liệu không chấp nhận được những hạn chế môi trường nhất định, khách
hàng có thể sẽ cảm thấy bị hiểu lầm. Một số nhà trị liệu thực tế có thể mắc sai lầm là quá nhanh
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 18


chóng hay quá mạnh mẽ nhấn mạnh rằng khách hàng có khả năng chịu trách nhiệm về cuộc sống
của họ.

Về điểm này, Wubbolding (2008b) có nêu ra, do áp bức và phân biệt đối xử, một số
người có ít sự lựa chọn sẵn có cho họ, tuy nhiên, mặt khác, họ vẫn có sự lựa chọn. Wubbolding
cho rằng liệu pháp thực tế là giúp khách hàng tập trung vào những sự lựa chọn mà họ có. Mặc dù
tập trung vào sự lựa chọn sẵn có là hữu ích, tôi tin rằng khách hàng cần phải chia sẻ thêm với
nhà trị liệu về việc những lựa chọn đó bị hạn chế bởi điều kiện môi trường như thế nào. Nhà trị
liệu sẽ xem xét để cả hai bên cùng thực hiện các bước, dù nhỏ, để hướng đến việc thay đổi xã
hội, ví dụ như trị liệu nữ quyền (xem Chương 12). Một bất cập nữa của phương pháp trị liệu này
là một số khách hàng cảm thấy rất miễn cưỡng khi trực tiếp nói ra những gì họ cần. Giá trị và
chuẩn mực văn hóa của họ có thể ngăn cản họ đòi hỏi cho những gì họ muốn. Trong thực tế, họ
có thể đã được xã hội hóa để suy nghĩ nhiều hơn về những gì là tốt cho xã hội hơn là tốt cho
chính cá nhân họ. Khi làm việc với những người có những quan điểm sống này, nhân viên tư vấn
phải phần nào "làm mềm" tính thực tế trong điều trị. Nếu điều trị thực tế được sử dụng một cách
hiệu quả với khách hàng từ các nền văn hóa khác nhau, các cách thức thực hiện phải được thay
đổi để thích nghi với những kinh nghiệm sống và giá trị sống của các thành viên từ các nền văn
hóa khác nhau (Wubbolding, 2000; Wubbolding et al., 2004).
Tóm lược và đánh giá
Nhà trị liệu thực tế có chức năng như một giáo viên, người hướng dẫn, và một hình mẫu,
đối chất với thân chủ nhằm giúp họ đánh giá những điều mình làm, hành vi của mình có thỏa
mãn được những nhu cầu cơ bản mà không gây hại cho bản thân hoặc người khác không. Trọng
tâm của trị liệu thực tế là học cách đưa ra những lựa chọn tốt, hiệu quả hơn và tăng khả năng
kiểm soát. Con người cần làm chủ cuộc sống của mình hơn là làm nạn nhân của những tình
huống vượt ngoài khả năng kiểm soát của họ. Những người thực hành thuyết trị liệu thực tế tập
trung vào những điều mà thân chủ có khả năng và sẵn sàng làm trong thời điểm hiện tại nhằm
thay đổi hành vi của mình. Họ dạy thân chủ cách làm thế nào để tạo những mối quan hệ có ý
nghĩa với người khác. Nhà trị liệu liên tục yêu cầu thân chủ lượng giá hiệu quả của những điều
họ chọn để làm nhằm xác định xem có lựa chọn nào tốt hơn không.
Việc thực hành thuyết trị liệu thực tế là sự kết hợp của hai thành tố, đó là làm việc trong
môi trường tham vấn và những phương pháp đặc biệt để dẫn dắt sự thay đổi trong hành vi. Quá
trình trị liệu cho phép thân chủ chuyển dịch theo hướng có được những điều họ muốn. Mục tiêu
của trị liệu thực tế là thay đổi hành vi, có khả năng ra quyết định tốt hơn, cải thiện những mối

quan hệ có ý nghĩa, nâng cao chất lượng sống, tăng hiệu quả trong việc thỏa mãn những nhu cầu
của tâm lý.
Đóng góp của trị liệu thực tế
Những thuận lợi của trị liệu thực tế là sự tập trung ngắn hạn và việc mà trị liệu thực tế
giải quyết những vấn đề về hành vi có ý thức.
Sự thấu hiểu và nhận biết thì không đủ; sự tự lượng giá của thân chủ, một kế hoạch hành
động, và một sự cam kết để theo suốt tiến trình là cốt lõi của quá trình trị liệu.
Tôi thích sự tập trung vào việc khích lệ các thân chủ tự lượng giá, để quyết định liệu
những gì mà họ đang làm có hiệu quả hay không, và để họ tự cam kết với chính mình làm những
gì cần thiết để tạo ra sự thay đổi.
Nền tảng có sẵn của lý thuyết lựa chọn là điểm mạnh chính của phương pháp này. Con
người không bị xem như là buồn phiền tuyệt vọng và không tự đứng lên được. Thay vào đó, con
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 19


người được xem như có thể làm tốt nhất họ có thể, hoặc đưa ra lựa chọn mà họ hy vọng sẽ mang
lại kết quả thõa mãn như cầu của họ.
Tham vấn thường thất bại bởi vì tham vấn viên đưa ra những việc phải làm cho thân chủ.
Trị liệu thực tế giúp thân chủ thực hiện bảng tóm tắt kỹ lưỡng những gì thân chủ làm. Nếu thân
chủ quyết định rằng hành vi hiện tại của họ không hiệu quả, thì sau đó thân chủ mới càng có thể
xem xét đến một tập hành vi mới khác.
Một ví dụ về việc khái niệm này áp dụng thực tế như thế nào là làm việc với người có
thói nghiện. Trị liệu thực tế được sử dụng hiệu quả trong những chương trình điều trị nghiện và
phục hồi đã hơn 30 năm qua. Trong nhiều tình huống với nhóm người này, sẽ không phù hợp để
đi theo liệu pháp dài hạn, để đào sâu vào động lực vô thức và tìm hiểu sâu về quá khứ của thân
chủ.
Trị liệu thực tế tập trung vào việc tạo ra sự thay đổi ở hiện tại và là một cách tiếp cận
ngắn hạn hiệu quả.

Những giới hạn và phê bình của trị liệu thực tế.
Một trong những hạn chế chính của trị liệu thực tế là nó không nhấn mạnh nhiều đến vai
trò của các khía cạnh của quá trình tư vấn: vai trò của cái nhìn sâu sắc, vô thức, sức mạnh của
quá khứ và ảnh hưởng của kinh nghiệm đau thương trong thời thơ ấu, các giá trị điều trị của
những giấc mơ, và thay đổi các địa điểm. Bởi vì điều trị thực tế hầu như chỉ tập trung vào ý thức,
nó không đưa vào các yếu tố như xung đột áp và sức mạnh của vô thức trong việc ảnh hưởng
chúng ta nghĩ như thế nào, cảm nhận, cư xử, và chọn lựa.
Làm việc với những giấc mơ không phải là một phần của trị liệu thực tế. Theo Glasser
(2001), nó không phải là trị liệu hữu ích để khám phá những giấc mơ. Đối với ông, dành thời
gian để thảo luận những giấc mơ có thể là một cách sử dụng để tránh nói về hành vi của một
người và nó lãng phí thời gian. Từ quan điểm của tôi, giấc mơ là những công cụ mạnh mẽ trong
việc giúp mọi người nhận ra những xung đột nội tâm của họ. Tôi tin rằng có sự phong phú trong
giấc mơ, mà có thể là một thông điệp viết tắt của cuộc đấu tranh nội tâm của thân chủ, mong
muốn, hy vọng, và cách nhìn của tương lai. Hỏi để hồi tưởng cùng các thân chủ, báo cáo, chia sẻ
và sống lại những giấc mơ của họ ở đây và bây giờ những lần trị liệu có thể giúp họ mở khóa và
có thể mở ra con đường cho các thân chủ để có một cái nhìn nhận khác nhau của hành vi.
Tương tự như vậy, có một thời gian tôi khó chấp nhận quan điểm của Glasser như là một
khái niệm sai lầm, tôi thấy thân chủ có thể nhận thấy những người quan trọng trong cuộc sống
của họ có ảnh hưởng hiện tại về cách họ cảm nhận và phản ứng lại với những người khác. Để
loại trừ một nghiên cứu và thay đổi mà bóp méo nhận thức chính xác của những người khác
dường như giới hạn trong quan điểm của tôi.
Glasser (2003) cho rằng DSM-IV-TR đã chính xác trong việc miêu tả các triệu chứng,
tuy nhiên ông phản đối việc nhóm các triệu chứng đó lại và gọi đó là các rối loạn tâm thần. Tôi
đã chia sẻ nhiều phê bình từ Glasser về cách mà DSM-IV-TR đôi khi được sử dụng, và tôi cũng
có vấn đề với việc dán nhãn cho con người. Như các bạn còn nhớ, Glasser (2001,2003) đã đấu
tranh cho rằng trầm cảm mãn tính và loạn thần nặng những hành vi lựa chọn. Ngoài những bệnh
lý đặc biệt về não bộ, Glasser cho các bệnh tâm thần là hậu quả của những bất mãn cá nhân về
các mối quan hệ hiện tại hay sự không hạnh phúc nói chung. Tôi có vấn đề với việc xem tất cả
các rối loạn tâm lý là các hành vi chọn lựa. Những người bị ảnh hưởng bởi trầm cảm mãn tính và
tâm thần phân liệt đang phải vật lộn để đối đầu với một căn bệnh thực sự. Trong trị liệu thực tế,

những người này sẽ có được thêm những chỉ dẫn nếu họ chấp nhận rằng đầu tiên, họ đang lựa
chọn tình trạng của mình như hiện tại.
LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 20


Tôi tin là trị liệu thực tế phù hợp với những người đảm đương vai trò của chuyên gia
trong việc quyết định cho người khác cuộc sống của họ nên như thế nào và và thiết lập hành vi
một cách có trách nhiệm. Wubbolding (2008b) thừa nhận trị liệu thực tế có ích trong việc giải
quyết vấn đề và tạo ấn tượng về nhà trị liệu đối với thân chủ. Wubbolding nói thêm rằng vai trò
của nhà trị liệu không phải là đánh giá hành vi của thân chủ. Thông thường, khách hàng cần phải
tham dự vào quá trình tự đánh giá để xác định hành vi hiện tại tốt đến đâu và họ muốn thay đổi
gì. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng nhà tham vấn đang kiểm tra và có xu hướng phán xét hành vi của
thân chủ, thay vào đó, điều nhà tham vấn làm là làm tất cả mọi điều có thể để giúp thân chủ đưa
ra đánh giá của bản thân về hành vi của mình
Cuối cùng, trị liệu thực tế sử dụng những ngôn ngữ cụ thể và khái niệm đơn giản. Nó có
thể bị nhầm lẫn rằng trị liệu thực tế là điều dễ đạt được, và không đòi hỏi một khả nào. Bởi vì trị
liệu thực tế thì dễ hiểu, nên trông nó có vẻ dễ áp dụng. Tuy nhiên, để hiệu quả trong việc áp dụng
trị liệu thực tế đòi hỏi luyện tập, giám sát và tiếp tục học hỏi (Wubbolding, 2007b)

LT & KT THAM VẤN 2-VB2.K03-NHÓM 10

Page 21



×