Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TTHCM về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng đạo đức, lối sống cho sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.71 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam, được Người kế thừa và phát triển, kết hợp với những tinh hoa văn hoá,
đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được
trong quá trình hoạt động cách mạng của mình. Tư tưởng đạo đức đó kết hợp với
đạo đức tiên tiến nhất của thời đại là đạo đức cộng sản trong Hồ Chí Minh, từ đó
Người đã xây dựng nên những giá trị đạo đức mới, đó là đạo đức cách mạng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng. Trong
suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề
đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng.
Người cho rằng người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức trong sáng của Người có
một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, là nhân tố có ý nghĩa to
lớn trong công cuộc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, đặc
biệt chú ý là những quan điểm của Người về đạo đức thanh niên và giáo dục đạo
đức cho thanh niên, Người luôn coi việc đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối
với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Điều này được Người căn dặn
trong Di chúc: “…Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết.” Việc nghiên cứu các quan điểm của Hồ Chí Minh về
đạo đức thanh niên và vận dụng các quan điểm đó vào việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho thế hệ thanh niên, cụ thể là sinh viên, là một yêu cầu quan trọng trong
việc đào tạo, bồi dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp cách mạng
hiện nay.
NỘI DUNG



CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG
Khái niệm đạo đức cách mạng
Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ và
khái niệm “đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa khái niệm đó, phân tích nội
dung và bản chất của "đạo đức cách mạng".
Trước hết, để phân tích khái niệm "đạo đức cách mạng" trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, ta đi phân tích hai khái niệm: “đạo đức” và “cách mạng”. "Đạo đức" là hiện
tượng xã hội phản ánh mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của
con người. "Đạo đức" là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội
trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội. "Cách mạng" là sự
thay đổi căn bản, sự nhảy vọt về chất trong quá trình phát triển của tự nhiên, xã hội
hoặc nhận thức. Khái niệm "cách mạng" được sử dụng trong lĩnh vực xã hội, đặc
trưng cho sự biến đổi sâu sắc, triệt để không cải lương nửa vời, làm thay đổi tận
gốc rễ chế độ xã hội, đưa giai cấp tiên tiến lên nắm chính quyền.
Như vậy, "đạo đức cách mạng" là sự phát triển cao của đạo đức truyền thống
Việt nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục vụ cho cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. "Đạo đức cách mạng" là
đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân.

Vai trò của đạo đức cách mạng đối với cách mạng nước ta
- Đạo đức cách mạng vừa là gốc, vừa là nền tảng, vừa là mục tiêu, động lực của
người cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đạo đức cách mạng. Bắt nguồn từ chức
năng điều chỉnh sự suy nghĩ và hành vi của con người, đạo đức cách mạng tạo ra
động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của con

người. Từ đó, Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng.
Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. “Vì muốn giải


phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì?”. Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu
dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”. Do đó, đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi
công việc và là phẩm chất mỗi người.
- Đạo đức cách mạng góp phần phần to lớn vào việc quyết định sự thành bại
của cách mạng
Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong
mối quan hệ giữa đạo đức với tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, nó quyết
định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc, nhờ
đó mà đạo đức góp phần to lớn vào việc quyết định sự thành bại của cách mạng
nước ta. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho
con người, trước hết là cho cán bộ đảng viên. Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng trong sạch
vững mạnh, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật sự trung thành
của nhân dân”
1.1. Trung với nước, hiếu với dân
"Trung" và "hiếu" là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông. "Trung" là khái niệm đạo đức - chính trị, xuất

hiện trong các tác phẩm kinh điển của Nho giáo và thường được dùng để chỉ hành
động hết lòng với vua, mà theo đó, khái niệm "trung quân" (trung với vua) xuất
hiện. Khi quyền lợi của ông vua ấy thống nhất với quyền lợi của dân tộc thì "trung"
đó cũng đồng thời là trung với nước. Trong mối quan hệ quân - thần (vua - tôi),
Khổng Tử đã nhận thấy ở đó mỗi bên đều phải có trách nhiệm với nhau, đều phải có
cách đối xử cần thiết, và cách đối xử của bên này là điều kiện để bên kia có cách đối
xử tương ứng. Khổng Tử nói : "Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung" (Nhà vua
sai khiến bề tôi thì dùng lễ, bề tôi phụng sự nhà vua thì giữ đạo trung). "Hiếu" trong
quan niệm của Nho giáo có nội dung khá phong phú. Trước hết, đó là con cái phải
phụng dưỡng bố mẹ khi già và tế tự họ khi mất. Khổng Tử nói : "Sống thì phải
phụng dưỡng thân thể, chết thì an táng theo lễ"
Phẩm chất đạo đức "Trung với nước, hiếu với dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh
không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà


còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó; cải biến, đổi mới thang bậc giá
trị cũ thành chuẩn mực giá trị đạo đức mới - đạo đức cách mạng ở phạm vi rộng
lớn hơn.
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là của
dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ nhà nước phải là “đầy tớ trung thành
của dân”, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Mối quan hệ nước - dân, dân nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất
về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho
cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết
lòng. Bác Hồ từng chỉ rõ: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân... Trong xã
hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân." Bác dạy:
muốn "trung với nước, hiếu với dân" thì phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân,
lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm,

thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ
trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
“Trung với nước, hiếu với dân” theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể
hiện trong mọi công việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể
của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời
kỳ cách mạng khác nhau, nhưng yêu cầu về trung, hiếu luôn nhất quán và là tiêu chí
chung cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân học tập và rèn luyện. Ðó là,
lòng yêu nước thương nòi, tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc; là bổn
phận và trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, với sự nghiệp của Ðảng và
dân tộc, với sự hưng vong của đất nước; là ý chí và nghị lực vươn lên vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng;
là sự tin yêu, kính trọng nhân dân. Vì vậy, trong suốt quá trình xây dựng Ðảng, lãnh
đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao tinh thần trung, hiếu
ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng, và đòi
hỏi họ phải luôn ghi sâu trong lòng những chữ "trung với nước, hiếu với dân".

1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính; Ông cho
rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do "thiên phú". Tuy nhiên, khi vận
dụng những khái niệm này của đạo đức cũ, Hồ Chí Minh lại cho rằng cần, kiệm,


-

-

-

liêm, chính không phải là do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, cho nên
người đã khẳng định: đạo đức cách mạng không phải tự trên trời sa xuống mà do

sự rèn luyện bền bỉ mà nên. Người cũng chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu
ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân
theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho
cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho dân.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con
người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người
giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
Cần là lao động cần cù siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai; là làm việc một cách
thông minh, sáng tạo, hiệu quả, có kế hoạch, khoa học với tinh thần tự lực cánh
sinh. Theo Bác, con người có đức cần thì dù việc gì khó khăn đến mấy, cũng làm
được, đúng như câu tục ngữ: “Kiến tha lâu cũng đầy tổ, nước chảy mãi đá cũng
mòn”. Bác lưu ý: kẻ địch của chữ cần là lười biếng. Bác cho rằng nếu có một người,
một địa phương, hoặc một nghành mà lười biếng thì khác nào một chuyến xe đang
chạy mà có một bánh trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả một chuyến
xe. Vì vậy người lười biếng là có tội với đồng bào, với tổ quốc.
Kiệm là tiết kiệm (tiết kiệm công sức, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm của cải...) của
dân, của nước; phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái nhỏ, không phô trương hình thức,
“không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau
như hai con người. Cần mà không có kiệm thì như gió vào nhà trống, như nước đổ
vào thùng không đáy, làm chừng nào xào chừng đấy, rốt cuộc không hoàn lại
không. Kiệm mà không có cần thì không tăng thêm, không phát triển thêm được.
Bác giải thích: tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không đáng tiêu xài thì một hạt
gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng khi có việc cần làm lợi cho dân, cho
nước thì bao nhiêu của, tốn bao nhiêu công cũng vui lòng, như thế mới là kiệm.
Liêm là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không tham
địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc
mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà quang minh
chính đại không bao giờ hủ hóa. Bác đã nhắc lại một số ý kiến của các bậc hiền triết
ngày trước: Khổng Tử nói “ Người mà không liêm thì không bằng súc vật”, Mạnh Tử
cho rằng” Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy” Do vậy, Bác yêu cầu mỗi người, nhất

là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện tốt chữ liêm và chữ kiệm. Chữ liêm và chữ kiệm
phải đi đôi với nhau như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm thì mới liêm
được, bởi xa xỉ ắt sinh tham lam, không giữ được liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược lại
với chữ liêm là tham ô, là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít
mà khai nhều, lợi dụng của chung của nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương
mình. Tham ô là trộm cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn liêm thật sự thì phải
chống tham ô.


-

Chính nghĩa là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Nói về chính bác viết “Một người
phải cần, kiệm, liêm nhưng phải chính mới là người hoàn toàn. Trên quả đất có
muôn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng: người thiện và
người ác. Trong xã hội tuy có trăm công nghìn việc, song những công việc ấy có thể
chia thành hai thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà
là người ác.”
Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có
cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải
chính mới là người hoàn toàn.

-

Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm những việc ích
quốc, lợi dân, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, không màng địa vị, không màng công
danh, vinh hoa phú quý, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” (tiên thiên hạ chi
ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Thực hiện chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nêu cao đạo đức cách
mạng, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là lối sông ích kỷ, chỉ biết đến
mình, thu vén cho riêng mình, chỉ thấy công lao của mình mà quên mất công lao

của người khác. Nó là giặc nội xâm còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí
Minh viết: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
1.3. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền
thống tình nghĩa của dân tộc, kết hợp với truyền thống nhân văn của nhân loại, chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là một trong
những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan
hệ giữa cá nhân với cá nhân trong các quan hệ xã hội, thể hiện rõ sự nhất quán tư
tưởng “trung với nước, hiếu với dân” với yêu thương con người. Đó là cốt lỗi trong
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người
mà chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm và
hạnh phúc cho con người.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm gần gũi thân thương, vừa
sâu sắc, vừa bao la rộng lớn. Đó là tình yêu thương con người lao động, cần lao,
cùng khổ, người bị bóc lột, đàn áp. Yêu thương con người còn thể hiện đối với
những người có sai lầm, khuyết điểm nhưng đã nhận ra khuyết điểm và sửa chữa


nó, kể cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với kẻ thù bị thương,
bị bắt và quy hàng… Bác Hồ kết luận: “Chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi, đó
chính là tình hữu ái vô sản”.
Hơn nữa, yêu thương con người còn thể hiện lòng tin của con người với con
người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc nhưng với người thì khoan dung, độ
lượng, rộng rãi, là tình yêu thương với bạn bè, đồng chí, anh em,... Yêu thương con
người phải biết dấn thân để đấu tranh giải phóng con người, phát huy sức mạnh

của con người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu: “Ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”.
Yêu thương con người là phải có thái độ tôn trọng con người, nâng con người
lên, giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Đó là một tư tưởng quý giá
mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Học tập chủ nghĩa Mác- Lê Nin để yêu thương
nhau hơn. Người viết: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu
chủ nghĩa Mác- Lênin được”.
1.4. Có tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào mối
quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc gia, dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng: chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn
đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, hẹp
hòi, kỳ thị dân tộc…
Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh trước là tình đoàn kết quốc tế
giữa những người vô sản toàn thế giới, “bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em”
vì một mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, là
đoàn kết với các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hồ
Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp
tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, tạo ra một
kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn
hóa hòa bình cho nhân loại.


CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỔ CHÍ MINH VÀO VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG CỦA SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức, lối sống trong sáng, lành
mạnh đối với sinh viên
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng
đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò vô cùng
quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là
“người chủ tương lai của nước nhà”, là cái cầu nối giữa các thế hệ - “người tiếp sức
cách mạng cho thê hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách thế hệ thanh
niên tương lai”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Một năm khởi đầu từ
mùa xuân. Một đời người khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội".
Nếu không có thế hệ trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của mỗi quốc gia,
dân tộc, cũng như không có sự phát triển của nhân loại.
Việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên là đòi hỏi khách quan của thời đại.
Sinh viên hiện nay đang sống, học tập và rèn luyện trong bối cảnh nước ta đang tiến
hành công cuộc đổi mới và đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và toàn
cầu hóa. Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định:
“Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hằng ngày của mỗi cá
nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức
mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, sinh viên có nhiều cơ hội để thực hiện ước mơ, khát
vọng của mình, đồng thời cũng đứng trước những thách thức mới. Xây dựng lối
sống văn minh, hiện đại, thấm nhuần sâu sắc đạo đức truyền thống dân tộc sẽ góp
phần tạo nên bản lĩnh của sinh viên, giúp họ vượt qua những khó khăn, thực hiện lý
tưởng cao đẹp của tuổi trẻ, phấn đấu rèn luyện, học tập vì ngày mai lập thân, lập
nghiệp, vì hạnh phúc của bản thân, vì tiền đồ của đất nước.
Sinh viên là những con người được đào tạo bài bản để đóng góp cho đất nước,
là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao trong

tương lai của đất nước. Tuy nhiên, có tài mà không có đức thì chỉ là người vô dụng.
Chính vì thế, việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ luôn là nhiệm
vụ quan trọng và cấp bách của toàn xã hội, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải


có những con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những người có đạo đức xã hội
chủ nghĩa”.
2.2. Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên hiện nay
Với sự toàn cầu hóa cùng với nền khoa học, công nghệ phát triển cao như hiện
nay, học sinh, sinh viên Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội học hỏi, tiếp thu kiến
thức, các giá trị văn hóa, nghệ thuật đặc sắc trên thế giới. Toàn cầu hóa có tác động
rất lớn đến mỗi quốc gia, dân tộc, nó có những mặt tích cực góp phần vào sự phát
triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, tuy nhiên toàn cầu hóa cũng có những điểm
tiêu cực ảnh hưởng đến lối sống của con người.
Giới trẻ Việt Nam ngày nay, trong đó có cả học sinh, sinh viên, đều là những con
người được sinh ra trong thời kỳ đổi mới của đất nước, là đối tượng nhạy cảm nhất
trước những biến đổi vô cùng nhanh chóng của đất nước ta và thế giới. Sự thay đổi
của đời sống vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến đạo đức sinh
viên hiện nay.
2.2.1. Những ảnh hưởng tích cực
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
một nền đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng,
là nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức
vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người,
song nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu
mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn sinh
viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh;
khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân,
lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức,
dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân

tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Thứ nhất, sinh viên là những con người năng động và sáng tạo.
Trong luôn có các ý tưởng độc đáo và thú vị; và biết tận dụng cơ hội để biến các
ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo ra cơ
hội. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh, sáng chế; và không ít trong
số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích
trong thực tiễn. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp học
sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào
thầy cô, họ tự mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn… Sự
năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động


xã hội như y tế, thiện nguyện của Đoàn trường, Đoàn cơ sở địa phương phát động
như: mùa hè xanh, góp sách, ủng hộ các em vùng cao, vùng điều kiện khó khăn, hiến
máu nhân đạo… Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh
viên Việt Nam thời đại mới.
Thứ hai, táo bạo và tự tin
Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà còn được thử nghiệm
trong thực tế. Hiện nay sinh viên nước ta tham gia khá nhiều vào các nghiên cứu
khoa học có kết quả và ứng dụng thực tiễn trong các hoạt động, đời sống hiên nay
như :
Sinh viên đại học nông lâm TP Hố Chí Minh chế tạo máy ấp trứng;
Hay sáng chế của bạn Đặng Thu Hiền (trường đại học kiến trúc TPHCM) sáng chế
ra chiếc xe lăn cho người khuyết tật không gắn động cơ
• Đồng thời tham gia vào các cuộc thi olympic về các môn khoa học, cuộc thi robocon,
cuộc thi olympic châu Á-Thái Bình Dương…




Sinh viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu thử thách. Thành công có, thất bại có.
Với họ, mỗi lần thất bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh nghiệm hơn. Tự tin
nhưng không kiêu, phần lớn sinh viên Việt Nam đều rất khiêm tốn. Táo bạo song
sinh viên không hề liều lĩnh. Nói rằng táo bạo, nghĩa là họ là người đầu tiên thực
hiện, xem xét vấn đề một cách thận trọng và nếu gặp rủi ro, thất bại thì họ sẵn sàng
chấp nhận, sẵn sàng nhận trách nhiệm, dám nhìn thẳng vào thất bại và vượt qua
nó. Tóm lại, táo bạo và tự tin cũng là điểm rất đáng quý trong lối sống của sinh viên
Việt Nam.
Thứ ba, phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập cũng góp
phần xây dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam
Không giống như sinh viên các thế hệ trước chỉ biết sống phụ thuộc vào gia
đình, sinh viên ngày nay đã biết thân tự lập thân. Không chỉ riêng việc học tập, mà
mọi vấn đề khác trong cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong sự chủ động.
Nếu như trong quá khứ, sinh viên còn chờ đợi tiền chu cấp của gia đình mỗi đầu
tháng thì ngày nay mọi chuyện dường như đã khác đi rất nhiều. Ngoài giờ học, họ
tìm việc làm kiếm thêm tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường
ngày khác. Nhiều người không chỉ lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ
những người bạn khác thiệt thòi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn
còn ngồi trong giảng đường đại học. Những con người ấy thật đáng khâm phục,
xứng đáng trở thành những gương mặt tiêu biểu đại diện cho sinh viên Việt Nam
thời đại mới.
Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, đó là truyền thống hiếu học. Sinh viên Việt Nam mọi thời đại luôn ham


học, ham hiểu biết. Họ khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức. Họ say mê
với những điều mới lạ. Có những người dù bị tật nguyền vẫn đi học như bao bạn bè
cùng trang lứa khác, họ không những tàn mà không phế mà còn trở thành những
sinh viên giỏi, làm được nhiều điều cho gia đình, đất nước. Có những người dù gia
đình gặp nhiều khó khăn, bất hạnh, khiến họ phải bôn ba kiếm sống không được

học hành đến nơi đến chốn vẫn mang trong mình khát vọng được tiếp thu tri thức
nhân loại. Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri thức của
sinh viên. Không thỏa mãn với những gì được dạy trong trường, họ tự mình học
thêm bên ngoài, qua sách báo, qua bạn bè khắp nơi.
Mỗi sinh viên mang trong mình những giá trị đạo đức tốt đẹp thì sẽ có lối sống
và nếp sống lành mạnh, một ý chí mạnh mẽ vượt lên mọi khó khăn, vì đạo đức chính
là động lực thúc đẩy các hành động anh hùng.
2.2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, do sự
bùng phát của lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi, bất chấp đạo lý đã dẫn đến
những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là: tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra
nghiêm trọng. Đó còn là tình trạng “một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số
cán bộ chủ chốt yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong,
gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”. Thêm vào đó là những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá
của thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”… đã
tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng đến tâm tư tình
cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức, khiến cho không ít người
chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của
dân tộc, có thái độ thờ ơ, bàng quan trước các sự kiện kinh tế, chính trị của đất
nước. Một số thanh niên mơ hồ về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Điều nguy hiểm hiện nay là đã xuất hiện một bộ phận thanh niên sinh viên tôn
thờ chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất, coi đồng tiền là trên
hết, xa hoa, lãng phí, lười lao động, và thiếu ý thức rèn luyện, không dám đấu tranh
với cái sai, thờ ơ vô cảm, vị kỷ... càng nhiều hơn. Một số sinh viên sống bê tha, không
chịu học tập, buông tha bản thân, dần dần đánh mất chính mình, sống chìm đắm
trong thế giới ảo, không chịu phấn đấu, tốn tiền cho những danh tiếng ảo. Một số
sinh viên do được sự nuông chiều của gia đình, quen đòi hỏi hưởng thụ, sống ích kỷ,

ỷ lại, ít quan tâm đến người khác. Số sinh viên này cũng dễ rơi vào tình trạng bị bạn
bè rủ rê đi theo con đường xấu, mắc phải các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, vi


phạm pháp luật, đua xe trái phép... Nhiều vụ án được khám phá trong thời gian gần
đây cho thấy tỷ lệ phạm tội trong thanh niên có chiều hướng gia tăng.
Khi đất nước mở cửa giao lưu với thế giới thì những luồng văn hóa, những giá
trị khác lạ, trong đó, có những văn hóa đi ngược với thuần phong, mỹ tục của dân
tộc cũng đã tràn vào và tác động không nhỏ đến lối sống của học sinh, sinh viên.
2.3. Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình
cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người
đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực,
cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với
mỗi sinh viên và mỗi người Việt Nam.
Đối với mỗi sinh viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để rèn luyện, phát triển mình,
xứng đáng là công dân tốt của dân tộc, đại diện cho thế hệ trẻ, góp phần xây dựng
đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.3.1. Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Nói đến đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết là nói đến tấm gương
trung với nước, hiếu với dân, trọn đời đấu tranh, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Ngay từ thuở thiếu thời, Người đã chọn cho mình con đường suốt đời phấn đấu
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trên
con đường cách mạng, Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, không quản gian nguy,
luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sáng suốt
vạch ra con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng và phát triển dân tộc Việt

Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rõ “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” và coi
đó là lý tưởng, lẽ sống, là học thuyết chính trị - đạo đức của mình, của dân tộc Việt
Nam. Từ đó, Người dấn thân vào thực tiễn đấu tranh cách mạng, mưu cầu tự do,
hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam và toàn thể nhân loại. Suốt đời hy sinh phấn đấu vì
nước, vì dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh “chỉ có một ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Chính mong muốn mãnh liệt ấy đã tạo cho
Người một ý chí, nghị lực phi thường “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục” và cho đến khi phải từ biệt thế


giới này, Người vẫn chỉ có một điều luyến tiếc là không được phục vụ nhân dân lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa. Trung với nước, hiếu với dân trong đạo đức Hồ Chí Minh
là tinh thần nhẫn nại, kiên trì, "thắng không kiêu, bại không nản", chẳng quản khó
khăn, gian khổ vì mục tiêu độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân trong giai đoạn hiện nay trước hết là trung thành
với con đường cách mạng mà Ðảng ta và Bác Hồ đã chọn, là trung thành với sự
nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; là sự thể hiện lương tâm và trách nhiệm của mỗi người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc.
Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, trong bối cảnh hội nhập và mở cửa, đất
nước đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn lao, phẩm chất đạo đức
"Trung với nước, hiếu với dân" của các thế hệ sinh viên thể hiện ở quyết tâm bảo vệ
nền độc lập chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng
đắn; phải biết kính trọng, thương yêu cha mẹ, đồng thời phải biết kết hợp nhuần
nhuyễn tình yêu thương cha mẹ với tình yêu thương con người, yêu mến, quý trọng
nhân dân. Sinh viên phải ra sức học tập nâng cao trình độ để cống hiến ngày càng

nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân; thể hiện ở ý chí, bản lĩnh biết vượt qua mọi khó
khăn, luôn xung phong gương mẫu trong mọi công việc, mọi nhiệm vụ, phải biết rèn
luyện, xây dựng cho mình những phẩm chất đạo đức cách mạng, phải "tích cực
xung phong cố làm tròn nhiệm vụ đầu tàu trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn
hóa, quốc phòng, thực hiện khẩu hiệu đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên
làm".
2.3.2. Học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường
Người thường dạy các cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, ít lòng ham muốn vật chất, đó là tư cách người cán bộ cách mạng và tự mình,
Người đã gương mẫu thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hành cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút
riêng tư. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên
không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là
vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh
lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đông bào cho tôi lui, thì tôi rất vui
lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh,


nước biết để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ
chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, dù là người phụ bếp đến
khi trở thành Chủ tịch nước - Hồ Chí Minh luôn nêu cao lối sống cần, kiệm, giản dị,
không màng danh vọng, không ham của cải, không ham sự xa hoa, không chuộng
những nghi thức sang trọng; làm Chủ tịch nước Bác nhận lấy cho mình được cái
quyền sống giản dị, bằng mức sống bình thường của người dân. Bác luôn dành sự
quan tâm đặc biệt tới đời sống của nhân dân. Bác nói: “Người ta ai cũng muốn ăn
ngon, mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân

dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon, mặc đẹp,
như vậy là không có đạo đức”. Sự tiết kiệm, giản dị, thanh liêm được thể hiện đậm
nét trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của Bác:
-

-

-

Về chi tiêu: Những năm hoạt động ở nước ngoài, Người đã tự thân lao động kiếm
tiền để hoạt động cách mạng, chi tiêu rất tiết kiệm. Cả trong kháng chiến, cả trong
hoà bình, Bác luôn cân nhắc kỹ càng việc không đáng tiêu thì một xu cũng không
tiêu.
Về bữa ăn: Bác ưa các món dân gian: dưa cà, mắm tép, cá kho. Khi đi công tác địa
phương, Bác dặn các đồng chí phục vụ chuẩn bị cơm nắm, thức ăn từ nhà hoặc
mang nồi đi nấu cho tiết kiệm, tránh các nơi đón tiếp linh đình, lãng phí.
Về trang phục: Bác thường xuyên mặc bộ kaki, đi dép lốp cao su, dùng túi vải, mũ
cát, kể cả khi đi công tác ngoài nước.
Về ở: Bác không chọn dinh thự cao cấp, đầy đủ tiện nghi sang trọng mà là mấy gian
nhà vốn là nơi ở của người thợ, một căn nhà sàn.
Bác sống giản dị đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Trước lúc đi xa Người
còn căn dặn: Khi Bác qua đời chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí
thì giờ và tiền bạc của nhân dân…
Ở Người luôn toát lên một cốt cách cao thượng, vĩ đại và sự khiêm tốn phi
thường; không sùng bái cá nhân. Người cho rằng: Quần chúng mới là người làm
nên lịch sử và lịch sử là lịch sử của chính họ chứ không phải của một cá nhân anh
hùng nào. Người luôn khẳng định: Sự nghiệp anh hùng cách mạng Việt Nam là của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; còn khuyết điểm thì Người nhận về mình và cho
rằng do mình “tài hèn đức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ những sự mong muốn
của đồng bào”.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sinh viên cần:
- Tích cực lao động, học tập với tinh thần siêng năng, sáng tạo, không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; biết tiết kiệm thì giờ và tiền của, không lãng phí,
xa hoa, luôn tôn trọng giữ gìn của công.
- Nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, ngại gian khổ, khó
khăn, mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tích kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, chỉ


lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể, suy bì, kiêu
căng.
- Quang minh chính đại, không tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành,
tham ô, hủ hóa; không ham người tâng bốc mình, không tự cao tự đại, luôn học tập
cầu tiến bộ, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới.
- Sống giản dị, không chạy theo “mốt”, không đua đòi, sống sao cho phù hợp với
hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh xã hội, không khoa trương, cầu kì.
- Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng,
bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không bao che, giấu giếm khuyết điểm,
thực hiện tốt phê bình và tự phê bình.
2.3.3. Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân
dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung
và nhân hậu với con người
Trong toàn bộ hoạt động của mình, ở bất cứ hoàn cảnh, cương vị nào, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn hết lòng thương yêu, quý trọng, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh
của nhân dân. Người khẳng định rằng: “Nước ta là nước dân chủ”, “...quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân”. Trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hoá thân vào
nhân dân, nên thấu hiểu cuộc sống, tâm nguyện của nhân dân và suốt đời phấn đấu,
hy sinh vì tự do, ấm no, hạnh phúc của dân. Chính vì thế, mọi việc làm, chủ trương,
chính sách mà Người đề ra, cũng như chỉ đạo các cấp tổ chức triển khai thực hiện,
đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân, luôn luôn dựa vào tài
trí, sức mạnh của dân.

Từ nhận thức sâu sắc rằng, nếu nước nhà được độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì nên Người luôn chú
trọng giáo dục cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có trách
nhiệm với dân, phấn đấu chăm lo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân. Người luôn dạy đội ngũ cán bộ phải là “người đầy tớ trung thành” của nhân
dân; luôn gần dân, hiểu tâm lý, yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân; thường xuyên
lắng nghe ý kiến của dân, không được lên mặt “quan cách mạng”, cậy quyền, cậy
thế, đè đầu, cưỡi cổ dân. Mặc dù ở cương vị rất cao, uy tín và sức hấp dẫn rất lớn,
được toàn dân suy tôn là “Cha già dân tộc”, nhưng chưa khi nào Người tự cho mình
đứng cao hơn nhân dân, mà luôn đồng cam, cộng khổ với nhân dân. Người cho
rằng, Chủ tịch nước là công việc của “người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trận”.
Bởi vậy, mặc dù bận trăm công, ngàn việc, nhưng mỗi khi nhận được thư, quà chúc
mừng của nhân dân, Người đều tự tay viết thư trả lời, cám ơn một cách thân tình,
chu đáo.
Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân
hậu, hết mực vì con người. Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp


với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại mà
đỉnh cao là nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phẩm
chất yêu thương con người là một trong những chuẩn mực đạo đức cách mạng cao
đẹp nhất. Yêu thương con người được thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại
đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người
nghèo khổ, bị áp bức bóc lột. Yêu thương con người là phải biết dám dấn thân để
đấu tranh giải phóng con người.
Với tình yêu thương bao la, Người dành tình yêu thương cho tất cả, chia sẻ với
mỗi người những nỗi đau. Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau
khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì
thành nỗi đau khổ của tôi”. Tình yêu thương con người và nhân dân của Chủ tịch Hồ
Chí Minh chính là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ, những người dân

mất nước, nô lệ lầm than. Người đau nỗi đau của một người từng trải và chứng
kiến nhiều mất mát đau thương, bao cảnh bất công, ngang trái… Người quan tâm
từ miếng ăn cho người nghèo đến sự thái bình cho dân tộc. Khi làm phụ bếp ở bên
Anh, Bác để riêng thức ăn còn thừa gói lại mang về cho những người nghèo khổ ăn
xin ngoài đường. Khi mùa hè đến, mồ hôi thấm áo, Người nghĩ đến những chiến sỹ
phòng không trên trận địa nóng bỏng...
Chủ tịch Hồ Chí Minh có lòng vị tha rất lớn. Theo Người, mỗi cá nhân cũng như
mỗi cộng đồng người đều có ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu, mặt được,
mặt chưa được… hết sức phong phú, như 5 ngón tay dài ngắn khác nhau, như mấy
mươi triệu người Việt Nam có người thế này, người thế khác. Nhưng tấm lòng
nhân ái của Người bao dung tất cả. Người nói rằng, tuy dài ngắn khác nhau nhưng
cả năm ngón tay đều hợp nhau lại nơi bàn tay, tuy người thế này, người thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều cùng là nòi giống Lạc Hồng, ai cũng có ít hay nhiều
lòng yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khoan dung, độ lượng với những người
lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, trở về với Tổ quốc. Đối với kẻ thù khi đã bị
thương, bị bắt, Người luôn dùng chính sách khoan hồng để giáo dục, giúp họ nhận
ra chân lý.
Yêu nước, thương dân là hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và đó cũng chính là tấm lòng mà Người để lại cho các thế hệ con cháu mai
sau trước lúc đi xa: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh thiếu niên và nhi đồng. Tôi cũng gởi
lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng
quốc tế”.
Để học tập được những phẩm chất ấy, sinh viên ngày nay cần:


- Nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng
ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Từ
đó, nâng cao lòng yêu nước, yêu dân tộc và niềm tin vào sức mạnh của dân tộc.
- Xác định đúng nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình từ đó phấn đấu học tập, phát

triển bản thân để đóng góp, cống hiến cho xã hội, cho tương lai của đất nước, cho
sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của nước nhà, tiến tới mục tiêu làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Có tinh thần dân tộc; xây dựng tinh thần cách mạng đúng đắn.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ
giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì
nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi,
vun vén cá nhân...
- Tự rèn luyện cho bản thân lòng vị tha, bao dung, biết tha thứ và giúp người
khác sửa chữa lỗi lầm; biết yêu thương con người, yêu mến, quý trọng nhân dân.
- Tham gia tích cực vào tuyên truyền và đóng góp sức người cũng như sức của
trong các hoạt động cộng đồng, nhân đạo, thiện nguyện để giúp đỡ những hoàn
cảnh khó khăn, lan tỏa tình yêu thương, gắn kết tinh thần dân tộc trong cộng đồng.
2.3.4. Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm
vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích của cuộc sống
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô
cùng gian khổ. Mới 11 tuổi, Hồ Chí Minh (khi đó lấy tên là Nguyễn Tất Thành) đã
phải chịu nỗi đau mất mát quá lớn, mất mẹ và em. Hoàn cảnh khó khăn cùng với
nỗi đau và sự mất mát đã tiếp thêm cho Người một ý chí và nghị lực để vượt qua
những thử thách, gian khổ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước sau này.
Những năm tháng của cuộc hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước là
những tháng năm đối mặt và vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách. Người đã
phải trải qua những tháng ngày lao động gian khổ với nhiều nghề vất vả khó khăn
để kiếm sống và nuôi chí lớn tìm con đường cứu nước. Lao động đối với Người là
phương tiện để sống, để đi, quan sát, học tập và tìm tòi chân lí. Người bắt đầu sự
nghiệp từ hai bàn tay trắng. Nhưng hai bàn tay của Người sẽ làm nên tất cả, bất
chấp mọi gian nguy và khổ cực ở phía trước. Không chỉ gặp khó khăn, thiếu thốn về
vật chất trong cuộc sống, mà trong cuộc hành trình suốt 30 năm bôn ba tìm đường
cứu nước, Hồ Chí Minh luôn bị kẻ thù rình rập, theo dõi, giám sát, hăm doạ và tìm
mọi thủ đoạn hãm hại: hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình... Song, tất cả

những khó khăn gian khổ đó không làm Người chùn bước, ngược lại, những thử


thách đó càng tiếp thêm nghị lực, ý chí và sức mạnh để cổ vũ cho Người vượt qua,
kiên định lập trường của mình là tìm con đường cứu nước cho nhân dân Việt Nam.
Ý chí và nghị lực của Người còn thể hiện ở việc học ngoại ngữ: Trong thời gian
hoạt động ở nước ngoài, mặc dù công việc bận rộn, gặp nhiều khó khăn gian khổ
nhưng Bác Hồ vẫn ham học và tìm tòi với một quyết tâm sắt đá. Ở đâu Người cũng
học và trước hết là học tiếng: Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…; tranh
thủ học mọi lúc, mọi nơi; học bạn bè cùng đi trên tàu, cô sen, học anh thợ nấu bếp,
thủy thủ trên tàu, học giáo sư người Anh… C.Mác đã từng nói: “Biết một ngoại ngữ
là một vũ khí đấu tranh trong cuộc sống”, Bác Hồ đã hiểu rất sâu sắc điều này. Việc
học tiếng nước ngoài của Bác không chỉ để phục vụ cho giao tiếp và sinh hoạt hàng
ngày. Quan trọng hơn, Bác học tiếng nước ngoài để làm phương tiện viết sách báo
tuyên truyền thức tỉnh tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, tố cáo âm mưu thâm độc
của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân trong nước và nhân dân các nước thuộc
địa. Động cơ đó luôn thúc đẩy Bác ra sức tự học để thông thạo tiếng nước ngoài và
dùng nó để phục vụ công tác tuyên truyền cách mạng.
Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý,
giữ vững quan điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Người
tự răn mình: “Muốn nên sự nghiệp lớn - Tinh thần càng phải cao”. một tờ báo nước
ngoài đã viết: "Đằng sau cái cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý chí thép. Dưới cái
bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng không có gì uy hiếp nổi".
Trong giai đoạn hiện nay, với nhiều cơ hội và thách thức mới, càng đòi hỏi sinh
viên phải có một ý chí và nghị lực tinh thần vững chãi, quyết tâm vượt qua mọi thử
thách. Muốn thế, sinh viên cần:
- Nâng cao ý thức rèn luyện tinh thần, rèn luyện bản thân tính kiên định, ý chí
kiên cường, có quyết tâm, không ngại khó khăn gian khổ, không nản trước các thế
lực ngăn cản mục tiêu, cố gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu.
- Tránh những suy nghĩ tiêu cực, luôn đặt bản thân trong thế chủ động, tìm cơ

hội trong khó khăn, biến những khó khăn, thử thách thành động lực thúc đẩy bản
thân trở nên tốt hơn.
- Duy trì tinh thần ham học hỏi, biết theo đuổi lý tưởng, sống có đam mê, hoài
bão và nhiệt huyết.
- Biết tự lập thân, làm việc độc lập, không dựa dẫm, yêu lao động vì “lao động là
vinh quang”.
- Xây dựng và rèn luyện cho bản thân những giá trị đạo đức tốt đẹp , vì đạo đức
chính là động lực thúc đẩy các hành động anh hùng.




×