Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Kiến thức, thái độ, hành vi về sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng ven biển nghiên cứu trường hợp tại hai xã thuộc huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 115 trang )

ĐỖ THỊ LÀNH

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỒ THỊ LÀNH

XÃ HỘI HỌC

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI
VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN CỦA PHỤ NỮ VÙNG VEN BIỂN

(Nghiên cứu trường hợp tại hai xã
thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

KHÓA VI- ĐỢT I /2015

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LÀNH

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI
VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN CỦA PHỤ NỮ VÙNG VEN BIỂN


(Nghiên cứu trường hợp tại hai xã thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số:

60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. Nguyễn Hữu Minh

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
-----------Trước hết, Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy cô Học viện Khoa học xã hội, đặc
biệt là những thầy, cô đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu tại trường.
Tôi xin được cảm ơn UBND tỉnh Nam Định, Sở Y tế tỉnh, Chi cục Dân sốKHHGĐ, Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện Nghĩa Hưng đã tạo mọi điều kiện để tôi có
thể theo học lớp Cao học trong suốt thời gian qua.
Xin cảm ơn Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện, Ban Dân số-KHHGĐ, Trạm y tế xã
Nam Điền và thị trấn Liễu Đề đã tạo điều kiện cho tôi điều tra, khảo sát để có dữ liệu viết
luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã giúp đỡ và luôn bên cạnh tôi suốt thời
gian qua để tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy - Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn
Hữu Minh đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù tôi đã cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả năng lực và sự nhiệt tình của

mình, song chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng
góp quý báu của Quý Thầy cô để luận văn của tôi hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn cho tất cả.
Học viên thực hiện

Đỗ Thị Lành


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Những kết quả và các số liệu trong luận văn chưa được ai công bố dưới bất kì hình
thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về sự cam đoan này./.
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2017
Tác giả

Đỗ Thị Lành


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..............................................23
1.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................................23
1.2. Khái quát về đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội tại địa bàn nghiên cứu ...........29
1.3. Thực trạng SKSS [23] ....................................................................................30
1.4. Một số đặc điểm về mẫu tại địa bàn nghiên cứu ............................................31
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI VỀ CÁC BIỆN
PHÁP TRÁNH THAI HIỆN ĐẠI VÀ BỆNH PHỤ KHOA ................................36
2.1. Kiến thức về các biện pháp tránh thai hiện đại và bệnh phụ khoa .................36
2. 2. Thái độ đối với các biện pháp tránh thai hiện đại và bệnh phụ khoa ............44
2.3. Hành vi áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại và phòng tránh bệnh phụ

khoa .......................................................................................................................47
CHƯƠNG 3: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ,
HÀNH VI VỀ SKSS CỦA PHỤ NỮ VEN BIỂN .................................................53
3.1. Các yếu tố thuộc về tôn giáo, phong tục tập quán về sinh sản .......................53
3.2. Môi trường sống .............................................................................................57
3.3. Tiếp cận dịch vụ y tế ......................................................................................60
3.4. Các yếu tố về đặc điểm cá nhân người phụ nữ: lứa tuổi và học vấn ..............68
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................73
3.1. Kết luận ..........................................................................................................73
3.2. Một số kiến nghị .............................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................79


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Thực trạng Dân số - SKSS của địa bàn nghiên cứu .................................30
Bảng 1.2. Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu .........................................31
Bảng 2.1. Kiến thức về các biện pháp tránh thai hiện đại .........................................36
Bảng 2.3. Nguồn biết BPTT ......................................................................................40
Bảng 2.4. Hiểu biết của phụ nữ về Bệnh phụ khoa ...................................................41
Bảng 2.5. Nguyên nhân gây BPK .............................................................................43
Bảng 2.6. Vấn đề ưu tiên trong cuộc sống (%) .........................................................44
Bảng 2.7. Mức độ sử dụng BPTT của những người đang sử dụng ..........................48
Bảng 2.8. Quyền quyết định trong sinh sản ..............................................................50
Bảng 3.1. Hiểu biết về BPTT theo tôn giáo (%) .......................................................53
Bảng 3.2. BPTT đang sử dụng theo tôn giáo (%) .....................................................54
Bảng 3.3. Tuổi kết hôn và tuổi có con lần đầu..........................................................56
Bảng 3.4. Tương quan giữa nghề nghiệp và BPK (%) .............................................58
Bảng 3.5. Đánh giá chất lượng nguồn nước (%).......................................................59
Bảng 3.6. Nguồn nước sử dụng để tắm và BPK mắc phải (%) .................................60
Bảng 3.7. Lựa chọn cơ sở y tế để khám bệnh phụ khoa ...........................................61

Bảng 3.8. Thuận lợi khi tiếp cận bệnh viện nhà nước ..............................................62
Bảng 3.9. Thuận lợi khi tiếp cận trạm y tế ................................................................63
Bảng 3.10. Khó khăn khi tiếp cận bệnh viện nhà nước ............................................63
Bảng 3.11. Khó khăn khi tiếp cận trạm y tế ..............................................................64
Bảng 3.12. Tiếp cận cơ sở y tế với việc biết về các BPTT .......................................65
Bảng 3.13. Đánh giá về hiệu quả truyền thông và cung cấp các BPTT, khám chữa
BPK ...........................................................................................................................67
Bảng 3.14. Hiểu biết về BPK theo tuổi và trình độ học vấn (%) ..............................68
Bảng 3.15. Quan niệm về con cái với việc áp dụng BPTT (%) ................................70


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BPK: Bệnh phụ khoa
BPTT: Biện pháp tránh thai
DS-KHHGĐ: Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
KCB: Khám chữa bệnh
KCBPK: Khám chữa bệnh phụ khoa
KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình
LTQĐTD: Lây truyền qua đường tình dục
SKSS: Sức khỏe sinh sản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức khỏe là vốn quý giá nhất của con người. Muốn có sự hài hòa giữa nhịp độ
tăng dân số và phát triển kinh tế thì chúng ta cần phải có một dân số ổn định, mỗi
người, mỗi gia đình đều có sức khỏe tốt, đặc biệt là sức khỏe sinh sản. Đảng và Nhà
nước ta đã đưa ra quan điểm cho rằng “Đầu tư cho sức khỏe nói chung và cho sức
khỏe sinh sản cũng là đầu tư cho phát triển”. [3]
Mặc dù cả nam và nữ cùng tham gia vào các hoạt động sinh sản; song việc

mang thai, sinh đẻ, nuôi con bằng sữa mẹ vẫn là đặc quyền của phụ nữ. Do vậy, đối
với phụ nữ, chăm sóc sức khỏe sinh sản là rất quan trọng.
Trên thế giới, vấn đề sức khỏe sinh sản đã và đang được các nước hết sức quan
tâm. Các nghiên cứu cho thấy, hàng năm trên thế giới ước có tới 600.000 phụ nữ
chết liên quan đến sinh sản, và trong số đó, 90% là ở các nước đang phát triển. 120
triệu phụ nữ trên thế giới không muốn mang thai nhưng không biết dùng các biện
pháp tránh thai; 70 triệu phụ nữ phá thai/năm, trong đó có 20 triệu ca phá thai được
thực hiện trong điều kiện không an toàn và chiếm 10% tổng số tử vong hàng năm
cùng với hàng triệu người bị tàn phế. Mỗi năm trên thế giới có đến 15 triệu trẻ em
gái vị thành niên (15-19 tuổi) đã mang thai; trên 300 triệu trường hợp mắc các bệnh
nhiễm trùng qua đường tình dục, trong đó có đến trên 40 triệu người nhiễm HIV,
đối tượng chủ yếu lại trong độ tuổi lao động (20 - 40 tuổi) dẫn đến nhiều hậu quả
nghiêm trọng. [24]
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác dân số là một bộ phận
quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện của đất nước, là một trong những
vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu, là một yếu tố cơ bản góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của từng người, từng gia đình, cả cộng đồng và toàn xã hội. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, với những cố gắng vượt bậc của Bộ Y tế, Tổng cục Dân
số-KHHGĐ, với sự ủng hộ giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức quốc tế, sự tham gia
của các địa phương, đơn vị, sự đồng tình của nhân dân, công tác Dân số - KHHGĐ

1


nói chung và sự chăm lo về sức khỏe sinh sản trong những năm qua đã đạt được
những thành tựu đáng kể.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do điều kiện kinh tế - xã hội còn
hạn chế, tình hình sức khỏe ở nước ta còn tồn tại nhiều vấn đề, có những vấn đề rất
gay gắt. Tại Việt Nam vẫn còn khoảng 30.000 trẻ dưới 5 tuổi, 22.000 trẻ dưới 1 tuổi
và 17.000 trẻ sơ sinh tử vong hàng năm. So với các nước trong khu vực, tỷ suất tử

vong trẻ em ở nước ta còn cao hơn so với một số nước như Trung Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Singapore…[32]
Tỷ suất tử vong mẹ ở khu vực nông thôn cao gấp ba lần khu vực thành thị,
tương tự tỷ suất tử vong trẻ em ở khu vực nông thôn cao gấp 2 lần so với thành thị.
Bên cạnh đó, mỗi năm Việt Nam có khoảng 800 bà mẹ chết do các nguyên nhân
liên quan đến thai sản.
Các chỉ số về phòng ngừa và điều trị vô sinh, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị
thành niên, giảm phá thai và phá thai an toàn, phòng chống nhiễm khuẩn đường
sinh sản, chăm sóc SKSS cho nhóm đặc thù như dân tộc thiểu số, người khuyết tật,
người có HIV, người di cư và một số dân tộc có nguy cơ suy thoái… còn thiếu số
liệu đánh giá và chưa được đầu tư thỏa đáng.
Hơn nữa, do nguồn kinh phí hoạt động “eo hẹp”, mạng lưới cung cấp dịch vụ
chăm sóc SKSS còn nhiều hạn chế cả về nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị và
năng lực cung cấp dịch vụ, đặc biệt là ở tuyến huyện và tuyến xã.
Tăng cường chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em cả nước nói chung, miền
núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa nói riêng đang là một vấn đề ưu tiên trong chiến lược
chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Những nỗ lực trong việc triển khai các chiến lược
quốc gia cũng như các chương trình y tế đã đem lại những cơ hội khả quan cho việc
chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ. Tuy nhiên, trong thực tế cơ hội được chăm sóc sức
khỏe không diễn ra đồng đều giữa các vùng: miền xuôi và miền núi, nông thôn và
thành thị, vùng sâu vùng xa và nơi trung tâm.
Năm 2010 dân số vùng ven biển khoảng 27 triệu người với 18 triệu lao động.
Dự báo, năm 2020, dân số vùng ven biển khoảng 30 triệu người với 19 triệu lao

2


động. Đây là lực lượng rất quan trọng đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế
biển đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng và thực hiện chủ trương dân sự hóa
trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Khoảng 20 triệu người dân ven biển và trên

các hải đảo có sinh kế trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào nguồn lợi từ biển. Tuy
nhiên, trình độ dân trí ở nhiều nơi còn thấp, cuộc sống của số đông cư dân, nhất là
vùng bãi ngang ven biển còn rất khó khăn và chịu nhiều rủi ro, đặc biệt vẫn còn
khoảng 157 xã bãi ngang ven biển đang trong tình trạng nghèo khó. [11]. Một bất
cập nữa đó là tỷ suất chết mẹ, tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn, tỷ lệ mắc các bệnh
viêm nhiễm đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục của phụ nữ vùng
ven biển còn cao. Số trẻ sinh ra bị dị tật, dị dạng và thiểu năng trí tuệ cũng ở mức
đáng lo ngại. Sở dĩ có hiện trạng đó là do đa số các phụ nữ chuẩn bị kết hôn hoặc
trước khi sinh phải sống trong môi trường biển, ngập mặn chưa được tư vấn, khám
để ngăn ngừa những yếu tố nguy cơ cao ảnh hưởng trực tiếp đến sự mang thai và
chất lượng bào thai. Trong khi đó, cơ sở vật chất, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình (SKSS/KHHGĐ) ở cấp xã còn thiếu
và yếu, chưa phù hợp với đặc điểm môi trường và khí hậu biển, không bền vững.
Một số xã ven biển, đảo chưa có trạm y tế, 19,7% trạm y tế xã chưa có bác sĩ. Trong
nhiều năm qua, dù nhiều cấp, ngành đã có những nỗ lực, cố gắng nhưng vấn đề
chăm sóc SKSS/KHHGĐ tại vùng ven biển vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên
nhân chủ yếu là do lao động nghề biển luôn phải tiếp xúc môi trường có độ ẩm cao,
thiếu nước ngọt và bị ô nhiễm. Bên cạnh đó, nghề biển có đặc thù nam giới là lao
động chính, phải thường xuyên làm ăn xa nhà dài ngày, dễ gặp rủi ro, vì vậy nhu
cầu sinh con, đặc biệt là sinh con trai rất phổ biến. Nhận thức của người dân vùng
biển, đảo về việc chăm sóc sự phát triển của bào thai và trẻ sơ sinh còn hạn chế. Các
kiến thức về sinh sản, phòng ngừa các yếu tố có nguy cơ cao ảnh hưởng đến chất
lượng giống nòi ở mức rất khiêm tốn. Đáng chú ý, phần lớn cán bộ y tế cấp cơ sở
còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực nên việc tổ chức cung cấp các dịch vụ
SKSS/KHHGĐ tại vùng ven biển chưa được thường xuyên và có chất lượng. Với sự
hình thành các khu kinh tế biển như hiện nay, việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của

3



người dân, nhất là lao động nhập cư được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
bà mẹ, trẻ em, SKSS/KHHGĐ theo nhận định là sẽ trở nên quá tải. [10]
Nam Định là một trong 28 tỉnh ven biển của cả nước, trong đó có 03 huyện
ven biển là Nghĩa Hưng, Hải Hậu và Giao Thủy. Đối với người dân vùng ven biển,
do đặc thù lao động nghề biển, người dân có tâm lý thích sinh đông con, nhất là con
trai để có người đi biển, có thêm nhân lực làm kinh tế gia đình... các xã ven biển
huyện Nghĩa Hưng cũng không ngoại lệ. Hơn nữa, kiến thức về sức khỏe sinh sản,
phòng tránh viêm nhiễm đường sinh sản, … của người dân còn hạn chế.
Đối với huyện Nghĩa Hưng, theo báo cáo tổng kết năm 2015, công tác Dân sốKHHGĐ của huyện (đặc biệt là ở các xã ven biển) vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn
chế như: kết quả thực hiện gói dịch vụ kế hoạch hoá gia đình đạt kết quả chưa cao,
số người áp dụng các biện pháp tránh thai mang tính chất bền vững còn thấp; tỉ lệ
phụ nữ mắc bệnh phụ khoa chiếm tỉ lệ cao, công tác truyền thông tuy đã huy động
tất cả các ban, ngành, đoàn thể vào cuộc nhưng việc chuyển đổi hành vi và nhận
thức của người dân còn thấp; dịch vụ KHHGĐ và đội ngũ cán bộ y tế xã, phường,
thị trấn tại một số địa phương còn yếu chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân;
một số cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa quán triệt chính sách Dân số - KHHGĐ đến
từng cán bộ; nhân dân cho rằng chính sách - quy chế Dân số - KHHGĐ có phần nào
đó được nới nhẹ hơn so với trước đây. [1]
Vậy những yếu tố nào ảnh hưởng đến SKSS của phụ nữ ven biển? Thực trạng
SKSS và kiến thức, thái độ, hành vi về SKSS của phụ nữ ven biển hiện nay như thế nào?
Đề tài “Kiến thức, thái độ, hành vi về sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng
ven biển - nghiên cứu trường hợp tại hai xã thuộc huyện Nghĩa Hưng - tỉnh Nam
Định” đi vào tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi về SKSS của phụ nữ vùng ven
biển, từ đó xem xét những ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán, môi trường sống cũng như khả năng tiếp cận dịch vụ y tế đến SKSS của họ.
Kết quả nghiên cứu hy vọng sẽ góp phần hỗ trợ cho công tác hoạch định các chính
sách, xây dựng các chương trình chăm sóc SKSS phù hợp với đặc điểm của phụ nữ

4



ven biển. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức cho người dân
về SKSS có hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của người dân.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản trên thế giới
Sau bốn lần hội nghị về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ở Roma (1954),
Belgrade (1965), Bucharest (1979), Mexico (1984), vấn đề dân số - kế hoạch hóa
gia đình ngày càng được nhìn nhận một cách thực tế hơn. Tuy nhiên, phải đến Hội
nghị Cairo (1994) thì vấn đề này mới được nhìn nhận một cách toàn diện.
Trong kế hoạch hành động sau Hội nghị Cairo của Quỹ dân số Liên hợp quốc
(UNFPA), sức khỏe sinh sản đã được xác định bao gồm sáu nội dung chính có liên
quan mật thiết với nhau, đó là sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an toàn, vô sinh, bệnh
nhiễm khuẩn và bệnh lây truyền qua đường tình dục, tình dục.
Hội nghị Phụ nữ thế giới lần thứ IV diễn ra ở Bắc Kinh (1995) đã khẳng định các
quyền chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục: sức khỏe sinh sản là vấn đề của
mọi người trên thế giới vì những lý do chính như: sự thiếu kiến thức về tình dục, các dịch
vụ hay thông tin về sức khỏe sinh sản không phù hợp hoặc kém chất lượng; sự phổ biến
của các hành vi tình dục có nguy cơ cao; các hành vi kì thị về mặt xã hội, và thái độ tiêu
cực đối với phụ nữ và trẻ em; và quyền lực ít ỏi của phụ nữ và trẻ em không bảo vệ được
họ trong việc quyết định đời sống tình dục và sinh sản (Chương trình hành động Hội
nghị Phụ nữ thế giới lần thứ IV, Bắc Kinh, Đoạn 9.5).
Vấn đề vai trò và trách nhiệm của nam giới trong sức khỏe sinh sản và quyền
sinh sản đều được đề cập trong Hội nghị Cairo và hội nghị Bắc Kinh. Nam giới có
vai trò quan trọng trong sức khỏe sinh sản và thực hiện nam nữ bình đẳng, do vậy
mọi chương trình và dịch vụ về sức khỏe sinh sản phải đặc biệt chú ý đến vai trò và
trách nhiệm của nam giới. Sức khỏe sinh sản sẽ không được cải thiện đáng kể nếu
như không có sự bình đẳng giữa nam và nữ. Sức khỏe sinh sản là một phần quan
trọng của sức khỏe nói chung, không những nó phản ánh sức khỏe trong thời thanh
niên và thời kỳ trưởng thành mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe sau thời kỳ sinh sản
của cả nam và nữ. Sức khỏe sinh sản cho mọi người không thể thực hiện ngày một


5


ngày hai. Vì vậy, việc xây dựng và thi hành các chính sách và chương trình sức khỏe
sinh sản đòi hỏi một sự tiếp cận và tham gia ngày càng rộng bao gồm cả sự đánh giá dựa
trên cộng đồng về những gì đã làm được và nhận dạng những khoảng cách và yếu kém
cũng như những phương pháp nhằm tăng cường các mối liên kết giữa các chương trình
để đáp ứng tốt hơn các mối quan tâm về sức khỏe sinh sản. [18, tr20].
Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tổ chức ở Cairo năm 1994 đã
đánh dấu một thay đổi quan trọng trong cách đề cập đến những vấn đề dân số của
cộng đồng quốc tế. Nó cũng dẫn đến một vài thay đổi trong cách mà các chính phủ
và cơ quan quốc tế thực hiện các chương trình.
2.2. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản ở Việt Nam
Sớm nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa dân số, phát triển
và cuộc chiến chống đói nghèo, Việt Nam đã tham gia chương trình dân số toàn cầu
từ năm 1960. Các văn bản đầu tiên về chính sách dân số đã nhấn mạnh đến việc
thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Chỉ thị số 99/CT-TTg ngày 16 tháng 10 năm 1963
của Thủ tướng chính phủ về công tác hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch đã đề cập:
“Đối tượng tuyên truyền, giáo dục là những cặp vợ chồng, những người sắp trở
thành vợ chồng. Đối tượng bao gồm nam, nữ thanh niên, những người trung niên và
các bậc bô lão, vì các cụ hay đòi sớm có con. Cần chú trọng cả thanh niên và nam
giới. Tuyên truyền giáo dục phải thích hợp với từng đối tượng”.
Đến ngày 22 tháng 12 năm 2000, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
147/2000/QĐ-TTg về chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010 với mục tiêu chuyển
hướng tiếp cận từ số lượng sang chất lượng, trọng tâm là giảm sinh và giải quyết
những vấn đề dân số rộng hơn như quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân
số, phân bố dân cư và sức khỏe sinh sản, bình đẳng giới.
Công tác dân số của Việt Nam trong thế kỷ XXI chuyển hướng nhằm giải
quyết các vấn đề dân số, trong đó có tăng cường chăm sóc sức khỏe sinh sản

(CSSKSS) là một trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu. Chính vì thế, đã có rất
nhiều chính sách dân số và chương trình CSSKSS được ban hành. Cụ thể mục tiêu
của chiến lược quốc gia về CSSKSS giai đoạn 2001-2010 là đảm bảo đến năm

6


2010, tình trạng sức khỏe ở Việt Nam sẽ được cải thiện đáng kể, khoảng cách giữa
các vùng, các đối tượng sẽ được thu hẹp bằng việc đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa
dạng về CSSKSS phù hợp với điều kiện địa phương và đặc biệt quan tâm đến
những vùng khó khăn.
Nhóm các giải pháp cụ thể được Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện
trong chiến lược quốc gia về CSSKSS giai đoạn 2001-2010, bao gồm: Thứ nhất,
truyền thông thay đổi hành vi nhằm tạo ra sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân
số, SKSS và KHHGĐ trên cơ sở cung cấp đầy đủ thông tin với hình thức phù hợp
từng khu vực, từng vùng và từng nhóm đối tượng. Thứ hai, chú trọng hình thức tư
vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (Quyết
định số 136/2000/QĐ-TTg ngày 28/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Chiến lược quốc gia về chăm sóc SKSS giai đoạn 2001-2010, trang 15).
Quyết định số 52/2009/QĐ-TTg ngày 09/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển giai đoạn
2009-2020 hướng đến đối tượng là những người làm việc và người dân sinh sống
trên đảo, ven biển, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch, khu kinh
tế thuộc khu vực đảo, ven biển và trên biển; ưu tiên các cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh đẻ, thanh niên, người dân sống, làm việc tại cửa sông và ven biển. Đề án đã
chú trọng đến việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch
hoá gia đình ở các vùng biển, đảo và ven biển; Nâng cao chất lượng dân số khi sinh
tại các vùng biển, đảo và ven biển; Hỗ trợ phòng, chống bệnh lây truyền qua đường
tình dục, phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn, phá thai an toàn; Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống thông tin quản lý...

Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt chiến lược dân số và SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020 trong đó đặc
biệt chú trọng đến việc giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số, sức khỏe sinh sản, tập
trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phát huy lợi
thế của cơ cấu “dân số vàng”, chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm soát
tỷ số giới tính khi sinh.

7


Trong Chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển ở
Cairo (1994) đã ghi nhận 13 thành tố của SKSS, căn cứ vào tình hình cụ thể của đất
nước, Việt Nam đã chọn 7 nội dung cơ bản về SKSS như sau:
1. Quyền sinh sản.
2. Kế hoạch hóa gia đình.
3. Các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình
dục và HIV/AIDS.
4. Sức khỏe sinh sản vị thành niên.
5. Nạo, hút thai.
6. Làm mẹ an toàn.
7. Bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Ở Việt Nam, có một số đề tài cũng đề cập đến vấn đề sức khỏe nói chung và
SKSS nói riêng. Chúng tôi liệt kê ra đây một số đề tài cũng như một số sách viết về
vấn đề này trong sự hiểu biết của chúng tôi.
Trong công trình “Gia đình nông thôn và vấn đề chăm sóc sức khỏe cộng
đồng” của tác giả Trịnh Hòa Bình thực hiện năm 1997 với phương pháp phỏng vấn
bằng bảng hỏi, quan sát, phỏng vấn sâu và phân tích tài liệu sẵn có, tác giả đã đề
cập đến vai trò của gia đình trong việc chăm sóc sức khỏe nông thôn, trước hết là ở
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, tác giả cũng mô tả hiện trạng sức khỏe và
chăm sóc sức khỏe của gia đình nông thôn trong thời kì đổi mới, sức khỏe của cư

dân nông thôn chịu tác động của nhiều yếu tố. Trước hết là tình trạng kinh tế lạc
hậu kéo dài, cộng thêm những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh đã gây tác
hại rất lớn đến sức khỏe của nhân dân. Thứ hai là xuất hiện sự phân hóa ngày càng
mạnh mẽ về đời sống kinh tế và các điều kiện xã hội cần cho cuộc sống con người,
trong khi một bộ phận dân cư vượt lên các điều kiện đời sống mọi mặt thì đa số
nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn, còn phải bươn chải để có được miếng cơm manh
áo hàng ngày. Thứ ba là sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường buộc con người
phải lao động với cường độ rất cao để đảm bào cuộc sống hàng ngày và có tích lũy;
người ta bị hút vào các hoạt động kiếm sống tới mức không tiếc sức lực, không chỉ

8


để tồn tại mà còn vì tham vọng làm giàu. Thứ tư, bản thân kinh tế thị trường không
bao hàm trong nó nội dung bảo trợ xã hội, mặc dù sự phát triển ổn định của xã hội
nói chung, của kinh tế thị trường nói riêng đều cần dựa trên một hệ thống an sinh xã
hội tốt. Cuối cùng là trong điều kiện một nước lạc hậu bắt đầu phát triển kinh tế thị
trường với quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa, thì sự ô nhiễm trên quy mô lớn là
yếu tố tác hại không lường hết, không chỉ với cư dân đô thị, mà còn lan tỏa đến cả
các vùng nông thôn.
Tác giả cũng chỉ rõ: “Đối tượng chịu tác hại trước hết của các điều kiện bất
lợi là phụ nữ và trẻ em”.
Từ việc tìm hiểu, phân tích vai trò của gia đình nông thôn trong vấn đề chăm
sóc sức khỏe và mô tả hiện trạng sức khỏe của cư dân nông thôn, tác giả đã đưa ra
một sô kết luận và kiến nghị:
- Hệ thống các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chi phí cho thuốc men chữa bệnh
nói chung còn quá đắt so với khả năng của người nông dân. Đảng, Nhà nước và cả
cộng đồng cũng như mỗi gia đình cần đặc biệt quan tâm, cùng có những phương
sách thích hợp để giải quyết.
- Gia đình Việt Nam, nhất là gia đình nông thôn có tiềm năng to lớn trong việc

tự giải quyết một phần việc chăm sóc sức khỏe của gia đình, giảm bớt một phần
gánh nặng của cộng đồng và Nhà nước. Trong mỗi gia đình, người phụ nữ đã giữ
một vị trí hết sức đặc biệt đối với chăm sóc sức khỏe cho mỗi thành viên. Đồng
thời, phải kể đến tình yêu thương gắn bó lẫn nhau giữa các thành viên, sự quan tâm
thường xuyên của cha mẹ đối với con cái, sự lo lắng về sức khỏe mỗi khi trái gió trở
trời… Vì vậy, khai thác tiềm năng to lớn của tình nghĩa gia đình trong việc chăm
sóc sức khỏe là một việc làm đầy ý nghĩa thiết thực cần được Đảng và Nhà nước
quán triệt, cần được cộng đồng quan tâm và cần được thực hiện thường xuyên ở
mỗi gia đình.
- Về mặt cộng đồng, tổ chức y tế cơ sở, các đoàn thể, các hội… cần tổ chức tốt
việc tuyên truyền thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân.

9


Với đề tài “Phụ nữ, sức khỏe và môi trường” - Trung tâm nghiên cứu giới,
gia đình và môi trường trong phát triển thực hiện năm 2000 với phương pháp chính
là sử dụng bảng câu hỏi cấu trúc, các nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu về điều kiện
và môi trường làm việc trong mối liên quan với sức khỏe lao động nữ, đặc biệt là
SKSS của phụ nữ cũng như tìm hiểu về hiểu biết, nhận thức của lao động nữ và
người sử dụng lao động về tác động tiêu cực của môi trường làm việc không đảm
bảo vệ sinh đối với sức khỏe tại bốn địa bàn là xã Ninh Nhất (Hoa Lư - Ninh Bình),
xã Phước Lộc (Nhà Bè - Thành phố Hồ Chí Minh), Công ty Dệt 8-3 (Hà Nội) và
Công ty nước giải khát quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu, người ta đã phát hiện ra rằng: Môi trường ở nông thôn bị ô
nhiễm nặng; Phụ nữ nông thôn mang thai và sinh đẻ nhiều; Phụ nữ nông thôn
thường lao động vất vả trong thời kì mang thai; Tình trạng nạo hút thai, sảy thai là
tình trạng phổ biến với phụ nữ nông thôn.
Từ những phát hiện qua nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những kiến
nghị để giải quyết vấn đề: Đó là việc xử lý nguồn nước bị ô nhiễm, tăng cường

nguồn nước ngọt cũng như tuyên truyền ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường, loại bỏ
những thói quen lạc hậu trong nhân dân. Đồng thời, tuyên truyền giáo dục thường
xuyên về vấn đề chăm sóc SKSS cũng như việc trạm y tế phải thiết lập một tổ,
nhóm chuyên môn để vừa làm công tác tuyên truyền, vừa khám, phát hiện bệnh
(đặc biệt là bệnh phụ khoa) cho chị em ngay tại địa bàn xóm, ấp.
Cuốn “Sức khỏe phụ nữ từ góc độ xã hội” của tác giả Nguyễn Thị Oanh viết
năm 2002, đã đưa ra những con số đáng báo động về tỉ lệ tử vong và thương tật liên
quan đến mang thai và sinh sản. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những nguyên nhân
bệnh tật và tử vong mang tính kinh tế - xã hội như: Phương tiện giao thông kém,
dịch vụ chăm sóc người mẹ không đảm bảo; các khía cạnh văn hóa - xã hội, tập tục
trói buộc người phụ nữ ở xã hội truyền thống và phong kiến; học vấn kém, sự bất
bình đẳng về giới, hủ tục, sự chấp nhận định mệnh của người phụ nữ…
Tác giả Đặng Nguyên Anh và Nguyễn Đức Vinh khi nghiên cứu về “Tiếp cận
tránh thai - yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của chương trình dân

10


số-kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam” đã cho thấy có sự chênh lệch khá rõ nét
giữa thành thị và nông thôn trong mức độ tiếp cận các biện pháp tránh thai. Khoảng
cách địa lý cũng ảnh hưởng mạnh đến việc sử dụng các biện pháp tránh thai hiện
đại. Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình chưa được đáp ứng…[15, tr263].
Đề tài “Chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ các hộ gia đình ven biển” (2011)
của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương khảo sát tại phường Cao Xanh - Thành phố Hạ Long
- Tỉnh Quảng Ninh đã chỉ ra rằng: Phụ nữ ven biển còn nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận các thông tin về SKSS, đồng thời còn nhiều hủ tục trong chăm sóc SKSS. Môi
trường sống có ảnh hưởng rất nhiều đến SKSS của phụ nữ ven biển…
Nghiên cứu “Một số yếu tố tác động của môi trường biển đến cơ cấu bệnh,
tật đặc thù vùng biển, đảo và ven biển Việt Nam” của Tổng cục Dân số - Kế hoạch
hóa gia đình (2010) cho thấy: Ở khu vực ven biển, tỉ lệ người mắc bệnh viêm nhiễm

đường sinh dục dưới rất cao do nghề nghiệp phải ngâm mình dưới nước. Nghiên
cứu cũng chỉ ra các yếu tố của môi trường biển ảnh hưởng tới cơ cấu bệnh tật đó là:
môi trường tự nhiên (nguồn nước sinh hoạt không đảm bảo), môi trường xã hội
(trình độ học vấn thấp, mức sống thấp, rác thải, nước thải ô nhiễm môi trường, điều
kiện làm việc phải ngâm mình dưới nước, thiếu phương tiện cấp cứu). [20]
Khảo sát về “Những yếu tố phong tục, tập quán và nghề nghiệp tác động
đến thái độ, hành vi sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản của người dân vùng
biển, đảo và ven biển Việt Nam” (2011), được triển khai trên 5 tỉnh: Quảng Ninh,
Thừa Thiên Huế, Bình Định, Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên Giang, đại diện cho ba
khu vực Bắc- Trung- Nam đã cho thấy: bên cạnh những tác động tích cực thì phong
tục tập quán và nghề nghiệp vẫn còn những tác động không tích cực đến hành vi
sinh sản, chăm sóc sức khỏe sinh sản của người dân vùng biển, đảo và ven biển.
Khảo sát cũng chỉ ra có sự khác biệt về mức độ tác động này giữa những người
trong độ tuổi sinh đẻ, vị thành niên và thanh niên. Những người trong độ tuổi sinh
đẻ thì hành vi sinh sản, chăm sóc sức khỏe sinh sản đều chịu tác động của các yếu
tố phong tục, tập quán và nghề nghiệp, còn đối với vị thành niên và thanh niên chưa
kết hôn chỉ chịu tác động nhiều từ yếu tố nghề nghiệp.

11


Cuộc khảo sát cũng cho thấy rằng: Nguyện vọng sinh con trai là yếu tố quan
trọng thúc đẩy việc tiếp tục sinh đẻ ngay cả khi đã có đủ số con mong muốn. Tâm lý
có con trai để "nối dõi tông đường", nhu cầu lao động cơ bắp đã đề cao vai trò con
trai và thích đông con. Điều này thể hiện rất rõ trong các gia đình làm nghề đánh bắt
hải sản và nông nghiệp. Sự tác động của các yếu tố vị trí địa lý, điều kiện kinh tế,
hưởng thụ các phúc lợi xã hội, môi trường sống, làm việc…góp phần làm tăng thêm
tác động không tích cực đến hành vi sinh sản, chăm sóc sức khỏe sinh sản của
người dân trong khu vực này. [15]
Đề tài “Thực trạng Chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo

Bạch Long Vĩ - Hải Phòng” tìm hiểu về thực trạng chăm sóc SKSS và các yếu tố
ảnh hưởng đến việc chăm sóc SKSS của phụ nữ huyện đảo đã chỉ ra rằng: Nhận
thức của phụ nữ huyện đảo về SKSS chưa được đầy đủ, thiếu kiến thức về nạo hút
thai và bệnh phụ khoa và các biện pháp tránh thai; công tác truyền thông vê SKSS
còn nhiều thiếu sót; nhu cầu về chăm sóc SKSS của phụ nữ huyện đảo rất cao
nhưng dịch vụ y tế còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu người dân. [30]
Tại “Báo cáo chung Tổng quan ngành Y tế năm 2015” (Bộ Y tế) đã chỉ ra
các yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Cụ thể là: các yếu tố nhân khẩu, các
yếu tố kinh tế - xã hội, các yếu tố môi trường tự nhiên (ô nhiễm môi trường, nước
sạch và công trình vệ sinh), các yếu tố hành vi lối sống, các yếu tố liên quan đến
tiếp cận dịch vụ y tế. [4, tr27-34]
Những nghiên cứu trên đã cung cấp cho chúng tôi hệ thống lý thuyết và những
cách tiếp cận đa chiều về SKSS, về vai trò quan trọng của SKSS đối với phụ nữ nói
riêng và cả hai giới nói chung.
Tóm lại, những nghiên cứu về SKSS phụ nữ mà chúng tôi tiếp cận được ở trên đã
xoay quanh những vấn đề mà chúng tôi quan tâm về SKSS: kiến thức, thái độ hành vi về
SKSS và những yếu tố tác động đến SKSS của phụ nữ. Các nghiên cứu đã cho thấy vấn
đề SKSS phụ nữ còn tồn tại nhiều vấn đề. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến SKSS phụ nữ
như môi trường sống, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế xã hội…

12


Trên cơ sở của những nghiên cứu đi trước, luận văn nghiên cứu về các biện
pháp tránh thai hiện đại và bệnh phụ khoa gắn với phụ nữ ven biển như là điểm
nhấn mới trong nghiên cứu về SKSS. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu kiến thức, thái
độ, hành vi về các biện pháp tránh thai hiện đại và bệnh phụ khoa - là hai nội dung
quan trọng đối với SKSS của phụ nữ ven biển. Đồng thời, chúng tôi cũng đi vào tìm
hiểu những yếu tố tác động đến kiến thức, thái độ, hành vi đối với các biện pháp tránh
thai hiện đại và bệnh phụ khoa của phụ nữ ven biển tại địa bàn nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi về sức khỏe sinh sản của phụ nữ tại địa
bàn, những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng ven biển; từ
đó đưa ra những khuyến nghị để địa phương điều chỉnh những chương trình hành
động trong CSSKSS cho phù hợp góp phần cải thiện sức khỏe sinh sản cho phụ nữ
vùng ven biển, nâng cao chất lượng dân số.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi đặt ra cho mình những nhiệm vụ
cụ thể sau đây:
Thu thập, phân tích các thông tin có sẵn về sức khỏe sinh sản, các yếu tố ảnh
hưởng đến SKSS.
Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu sức khỏe sinh sản.
Tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi của phụ nữ ven biển đối với các biện pháp
tránh thai hiện đại; bệnh phụ khoa.
Mô tả về điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống, phong tục tập quán trong
mối liên hệ với sức khỏe phụ nữ ven biển, đặc biệt là sức khỏe sinh sản của phụ nữ
tại địa bàn nghiên cứu.
Tìm hiểu những thuận lợi và trở ngại trong việc Tiếp cận dịch vụ y tế
của phụ nữ ven biển trong việc áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại;
khám chữa bệnh phụ khoa.
Đưa ra một số khuyến nghị góp phần cải thiện SKSS cho phụ nữ ven biển.

13


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi đi vào tìm hiểu thực trạng, những yếu tố ảnh hưởng
đến SKSS của phụ nữ ven biển. Đồng thời, tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi liên

quan đến SKSS của phụ nữ ven biển hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là SKSS của phụ nữ ven biển, nên
chúng tôi chọn những phụ nữ sinh sống và làm việc tại những xã ven biển trong độ
tuổi từ 15-49 tuổi. Đồng thời còn có các cơ quan như: Đội lưu động y tế - Dân số
huyện, Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện, Trạm y tế, Ban Dân số-KHHGĐ tại địa
bàn nghiên cứu.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Địa bàn nghiên cứu được chọn là huyện Nghĩa Hưng một trong ba huyện ven biển của tỉnh Nam Định.
- Phạm vi thời gian: Để nghiên cứu về SKSS của phụ nữ ven biển, chúng tôi
nghiên cứu, cập nhật các số liệu từ năm 2015 đến tháng 9 năm 2016 tại địa bàn
nghiên cứu.
4.4. Giới hạn của nghiên cứu
Luận văn này giới hạn vào một số nội dung quan trọng đối với vấn đề sức
khỏe sinh sản của phụ nữ vùng ven biển, đó là hai vấn đề: Các biện pháp tránh thai
hiện đại và bệnh phụ khoa.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để nghiên cứu, làm rõ thực trạng SKSS của phụ nữ ven biển, chúng tôi dựa
trên cách tiếp cận như sau:
* Cách tiếp cận SKSS dưới góc độ Giới
Ở đây, chúng ta cần phân biệt hai khái niệm Giới và Giới tính
- Giới tính: Là phạm trù chỉ về mặt sinh học, là sự khác biệt giữa hai người
nam và nữ. Giới tính không thay đổi theo thời gian.

14


- Giới: Là phạm trù chỉ về mặt xã hội, nó cũng nói đến sự khác biệt giữa nam
và nữ nhưng nó do xã hội, phong tục tập quán quy định. Giới thay đổi theo thời gian

và không gian. Nó do giáo dục mà có.
Từ xưa đến nay, người phụ nữ có vai trò quan trọng, họ có mặt trong công
cuộc dựng nước, giữ nước, trong lao động sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội.
Trong xã hội truyền thống, vai trò của người phụ nữ không được tôn trọng,
không được đối xử bình đẳng, không có cơ hội để phát triển khả năng của mình. Họ
là người chịu vất vả và thiệt thòi nhất.
Trong xã hội hiện đại, bước vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước, phụ nữ càng thể hiện vai trò của mình đối với sự phát triển của toàn xã
hội. Trình độ học vấn của phụ nữ được nâng lên, lực lượng lao động nữ tham
gia vào thị trường lao động ngày càng nhiều và số phụ nữ chiếm vị trí cao
trong xã hội cũng tăng lên đáng kể. Phụ nữ đã và đang giữ vai trò to lớn trong
các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - khoa học.
Cuộc sống công nghiệp đòi hỏi mọi cá nhân làm việc căng thẳng, lao động cật
lực để có hiệu suất công việc cao nhất. Thời gian dành cho gia đình và cá nhân ít đi,
phụ nữ phải gánh chịu một áp lực công việc lớn hơn nam giới do phải đảm nhiệm
cùng lúc nhiều vai trò gia đình và xã hội. Việc xây dựng gia đình hạnh phúc, hòa
thuận, bình đẳng, sinh đẻ có kế hoạch, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, bảo đảm sức
khỏe và nhu cầu sinh hoạt như ăn, mặc, ở, giải trí cho cả gia đình... được xem là vai
trò của cả vợ lẫn chồng nhưng trên thực tế vẫn là nhiệm vụ chủ yếu của người phụ nữ.
Điều đáng nói thêm là, tuy phụ nữ là người giữ vai trò quan trọng trong gia
đình và ngoài xã hội, là người luôn chịu trách nhiệm và quan tâm đến sức khỏe của
các thành viên trong gia đình, song chính bản thân người phụ nữ lại chưa được quan
tâm đúng mức về sức khỏe, đặc biệt là SKSS.
Khi đề cập đến vấn đề SKSS, cả nam và nữ đều là chủ thể của vấn đề. Tuy
nhiên, việc mang thai, sinh đẻ, nuôi con bằng sữa mẹ vẫn là đặc quyền của người
phụ nữ, nên chủ thể trọng tâm của SKSS vẫn là phụ nữ.

15



Ở nước ta, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo - tư tưởng “Tam tòng, tứ
đức” nên người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Người phụ nữ
thường thụ động trước những vấn đề về hôn nhân, quan hệ tình dục, vấn đề sinh
con, nuôi con và kế hoạch hóa gia đình.
Cách tiếp cận giới trong SKSS nghĩa là coi SKSS không phải là vấn đề của riêng
phụ nữ, mà nó còn là của cả nam giới nữa. Bởi vì, ai cũng có quyền có cuộc sống tình
dục an toàn, hài lòng, có khả năng sinh con và tự quyết định thời gian sinh con cũng
như số con của mình. Vì vậy, đòi hỏi người chồng phải có trách nhiệm trong việc chăm
sóc vợ khi mang thai, sinh con, nuôi con, cần hợp tác và ủng hộ người phụ nữ trong
việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và các quyết định về sinh sản.
* Cách tiếp cận SKSS dưới góc độ Dân số và Phát triển
Dân số là một cộng đồng người sống trên một lãnh thổ tại một thời điểm xác
định. Thuật ngữ dân số không chỉ hàm chứa số dân mà còn hàm chứa về mặt chất
lượng dân số như kết cấu, sự phân bố, trình độ học vấn.
Dân số - Quy mô dân số và chất lượng dân số là một vấn đề có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, việc
hoạch định chính sách dân số của từng nước qua từng thời kì phát triển sẽ tác động
trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, đến sự phát triển của quốc gia đó.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã nhận thức rõ tầm quan trọng phải điều
chỉnh quy mô dân số, bởi có như vậy mới nâng cao được chất lượng dân số, mới
phát huy được quyền cơ bản của con người - quyền sinh sản, đúng như tinh thần mà
Hội nghị quốc tế ở Cairo về Dân số và Phát triển đã nhấn mạnh: Thực hiện công
bằng giới, nâng cao quyền bình đẳng quyền năng của người phụ nữ, đảm bảo cho
phụ nữ có khả năng kiểm soát vấn đề sinh đẻ của mình, được tiếp cận rộng rãi các
dịch vụ CSSKSS, trong đó có kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe tình dục dựa trên cơ
sở sự bình đẳng nam, nữ...
Nếu sức khỏe của người dân được đảm bảo, nó sẽ tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao cho xã hội. Muốn vậy, chúng ta phải điều chỉnh quy mô dân số cho phù
hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc điều chỉnh quy mô dân số


16


gắn liền với quá trình sinh sản. Muốn có số dân hợp lý, chúng ta phải quan tâm đến
số con của mỗi gia đình. Vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm hiểu xem quan niệm của
người dân về số con họ muốn như thế nào, từ đó có những chương trình kế hoạch
hóa gia đình cho hợp lý.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp chọn mẫu
* Mẫu đối với nghiên cứu định lượng:
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống, một
phương pháp được sử dụng trong các nghiên cứu định lượng về cấu trúc gia đình.
Trong đó, chúng tôi chọn nghiên cứu 01 đơn vị là xã Nam Điền - 01 xã sát
biển của huyện. Để có sự so sánh những khác biệt về kiến thức, thái độ, hành vi về
SKSS của phụ nữ ven biển và phụ nữ không thuộc vùng ven biển, chúng tôi chọn
thêm thị trấn Liễu Đề - 01 đơn vị thuộc trung tâm huyện, cách biển 35km để so
sánh. Ngoài sự khác nhau về vị trí địa lý thì những tiêu chí chọn mẫu vẫn đảm bảo
sự giống nhau về khách thể nghiên cứu.
Tiêu chí chọn mẫu: phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) đã kết hôn và
sinh con, có hộ khẩu thường trú tại địa bàn nghiên cứu. Việc chọn mẫu dựa trên
danh sách phụ nữ 15-49 tuổi có chồng do cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ thị
trấn Liễu Đề và xã Nam Điền cung cấp.
Xác định cỡ mẫu: Do hạn chế về mặt thời gian, kinh phí thực hiện, nhân lực
hiện có nên chúng tôi chọn khảo sát 200 mẫu, trong đó mỗi xã/thị trấn là 100 mẫu.
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng ba phương pháp nghiên cứu cơ bản:
- Nghiên cứu tài liệu sẵn có
- Nghiên cứu định lượng
- Nghiên cứu định tính
Trong đó, chủ yếu là phương pháp nghiên cứu định lượng và sử dụng phương

pháp nghiên cứu định tính để bổ sung chuyên sâu cho một số vấn đề nghiên cứu mà

17


bằng phương pháp nghiên cứu định lượng khó thu thập được hết các khía cạnh của
vấn đề.
- Phương pháp chung: Phương pháp mô tả và so sánh.
- Nghiên cứu tài liệu sẵn có: Gồm những bài báo khoa học đăng trên các tạp
chí, sách; những đề tài nghiên cứu khoa học đã được thực hiện có liên quan đến đề
tài. Những báo cáo hàng năm của các cơ quan chuyên môn tại hai địa bàn nghiên
cứu cùng với những số liệu thống kê về dân số, kinh tế - xã hội tại các điểm nghiên
cứu… cũng được thu thập để có được những thông tin phong phú, hỗ trợ cho thông
tin từ phỏng vấn bảng hỏi.
- Nghiên cứu thực địa:
Nghiên cứu định lượng được sử dụng như là phương pháp thu thập thông
tin chủ yếu của nghiên cứu này. Bảng hỏi được soạn thảo cho hai xã/thị trấn
là như nhau. Bảng hỏi bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở, trong đó câu
hỏi đóng là chủ yếu.
Bằng việc sử dụng bảng hỏi, thông tin thu được bao gồm những đặc điểm về Kinh
tế - xã hội; những yếu tố về tiếp cận dịch vụ y tế, các yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán về SKSS; yếu tố môi trường sống và kiến thức, thái độ, hành vi về SKSS của phụ
nữ trên địa bàn khảo sát. Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi được áp dụng phỏng vấn
từng người trực tiếp, nó cho phép thu được thông tin có kết quả tốt hơn.
Với những câu hỏi liên quan đến sinh sản, người phỏng vấn cố gắng tạo nên
một trạng thái tự nhiên thoải mái để người trả lời không e ngại và có thể nhớ lại các
sự kiện trong cuộc sống, càng chi tiết càng tốt. Nhằm đạt được thông tin khách quan
và tạo thuận lợi cho việc thu thập thông tin, cách thức phỏng vấn được thực hiện
trong đề tài này là chỉ để phụ nữ hỏi.
Ngoài phương pháp thu thập thông tin định lượng, chúng tôi sử dụng cả

phương pháp thu thập thông tin định tính, đó là phỏng vấn sâu một số người
dân và cán bộ Đội lưu động Y tế - dân số huyện, cán bộ Dân số-KHHGĐ tại
địa bàn nghiên cứu nhằm thu thập thông tin giúp cho việc phân tích, lý giải
các nguyên nhân của vấn đề.

18


×