Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực hiện chính sách tiền lương trong lực lượng công an nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.11 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƢƠNG HUY TÍNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN LƢƠNG TRONG
LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN

Chuyên ngành:Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN CHIẾN THẮNG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƢƠNG ĐỐI VỚI


LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN .............................................................. 6
1.1. Khái niệm chính sách tiền lương trong lực lượng Công an nhân dân .................. 6
1.2. Căn cứ xây dựng chính sách tiền lương đối với lực lượng Công an
nhân dân ......................................................................................................................... 13
1.3. Quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc và nội dung thực hiện chính sách tiền lương
đối với lực lượng Công an nhân dân ............................................................................. 22
1.4. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tiền lương của một số nước ......................... 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN LƢƠNG
ĐỐI VỚI LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY ...................... 32
2.1. Tổng quan chính sách tiền lương đối với lực lượng Công an nhân dân........ 32
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách tiền lương của lực lượng Công an
nhân dân ......................................................................................................................... 37
2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách tiền lương đối với lực lượng Công
an nhân dân ............................................................................................... 47

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TIỀN LƢƠNG ĐỐI VỚI LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN ................ 60
3.1. Quan điểm, mục tiêu và nguyên tắc trong hoàn thiện chính sách tiền lương đối
với lực lượng Công an nhân dân hiện nay.................................................................... 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách tiền lương đối với lực lượng Công an
nhân dân ........................................................................................................................... 62
3.3. Một số kiến nghị để thực hiện giải pháp hoàn thiện chính sách tiền
lương trong lực lượng Công an nhân dân ...................................................... 70
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CSTL


Chính sách tiền lương

LLCAND

Lực lượng Công an nhân dân

ANQG

An ninh quốc gia

LLVT

Lực lượng vũ trang

KTXH

Kinh tế - xã hội

ANTT

An ninh trật tự

TTATXH

Trật tự, an toàn xã hội

CBCS

Cán bộ, chiến sĩ


CAND

Công an nhân dân

QĐND

Quân đội nhân dân

SQ, HSQ NV

Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ

SQ, HSQ CMKT

Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng đăng ký dự thi vào trường CAND từ năm 1992 đến 2016 .................... 35
Bảng 2.2. Số lượng tuyển dụng vào LLCAND từ năm 1992 đến 2015 ..........................35
Bảng 2.3. Tỷ lệ tăng quy mô của LLCAND từ năm 1993 đến 2015 ............................... 35
Bảng 2.4. Tỷ lệ trình độ học vấn của LLCAND .............................................................. 36
Bảng 2.5. Bảng lương cấp hàm của SQ, HSQ NV ........................................................... 39
Bảng 2.6. Bảng nâng lương cấp hàm của SQ, HSQ NV ..................................................40
Bảng 2.5. Bảng lương cấp hàm của SQ, HSQ NV ........................................................... 41
Bảng 2.8. Bảng lương của SQ, HSQ CMKT ...................................................................42
Bảng 2.9. Bảng phụ cấp của HSQ, CSNV .......................................................................45
Bảng 3.1. Hệ số điều chỉnh tiền lương tối thiểu của các vùng .........................................64
Bảng 3.2. Bảng nâng lương cấp hàm của SQ, HSQ NV ..................................................65
Bảng 3.3. Bảng lương SQ, HSQ CMKT trung cấp, sơ cấp ..............................................66



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách tiền lương (CSTL) ở nước ta đã trải qua nhiều lần cải cách và điều
chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội (KTXH), hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của từng thời kỳ và đã đạt được những mục tiêu nhất định. Đối với lực lượng Công an
nhân dân (LLCAND), CSTL đã góp phần rất quan trọng trong việc xây dựng
LLCAND thành lực lượng vũ trang (LLVT) cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng
bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), bảo
đảm TTATXH (TTATXH) trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Vai trò của LLVT thể hiện nổi bật trong lĩnh vực chính trị và đóng góp to lớn
vào việc phát triển KTXH đất nước, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, phòng
chống thiên tai địch họa để phục vụ cuộc sống của nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ an
ninh để đảm bảo an toàn và an ninh cho người dân và cho cả cộng đồng dân tộc trong
thời bình cũng như trong thời chiến. LLCAND là LLVT trọng yếu, nòng cốt, công cụ
sắc bén để bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để thực hiện được mục tiêu theo tinh
thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII là vấn đề luôn được Đảng, Chính phủ
và ngành Công an đặc biệt quan tâm. CSTL trong LLCAND được Đảng ta xác định
vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là điều kiện đảm bảo cho quá trình xây dựng
LLCAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự (ANTT).
CSTL đối với LLCAND hiện nay đã thể hiện được sự quan tâm, đãi ngộ của
Đảng và Nhà nước đối với LLCAND, góp phần quan trọng để LLCAND giữ vững
ANQG và bảo đảm TTATXH, góp phần mình phục vụ đắc lực cho hai cuộc kháng
chiến đi đến thắng lợi, hoàn thành cach mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong hòa
bình xây dựng, đặc biệt là giai đoạn hiện nay, LLCAND đang đứng trước nhiệm vụ

nặng nề là phải đảm bảo ổn định ANQG, giữ vững chủ quyền an ninh biên giới, hải
đảo, bảo đảm TTATXH, đem lại bình yên và cuộc sống yên vui, hạnh phúc cho nhân
dân, tạo điều kiện cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội góp

1


phần để toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam phồn vinh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bên
cạnh đó, những tệ nạn xã hội và những yếu tố mặt trái của cơ chế thị trường đang
hàng ngày, hàng giờ tác động đến các cá nhân trong xã hội, trong đó có lực lượng cán
bộ, chiến sĩ (CBCS).
Do đó, để nhằm góp phần đắc lực cho xây dựng LLCAND cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, có sức chiến đấu cao, bảo đảm giành thắng lợi
trong mọi tình huống; để CBCS toàn tâm, toàn ý trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm, bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH đòi hỏi phải có chế độ đãi ngộ vật chất
hợp lý nhưng CSTL hiện hành trong LLCAND so với yêu cầu của thực tiễn công tác và
chiến đấu của LLCAND trong tình hình mới còn những điểm chưa phù hợp như: Việc
nghiên cứu, đề xuất thực hiện các chế độ, chính sách còn chưa mang tính tổng thể,
chiến lược; các chế độ, chính sách ngày càng được hoàn thiện nhưng chưa đồng bộ;
một số chế độ, chính sách thiếu tính ổn định; có chế độ, chính sách không còn phù hợp
nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung; việc triển khai một số chế độ, chính sách tiền tiền
lương và phụ cấp còn chậm, lúng túng; việc tổ chức thực hiện còn có Công an đơn vị,
địa phương vận dụng tràn lan (thăng cấp bậc hàm trước niên hạn so với cán bộ được bổ
nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, chỉ huy có cấp bậc hàm thấp hơn khởi điểm; thực hiện chế
độ phụ cấp đặc thù…) gây thắc mắc, so bì trong CBCS, đòi hỏi phải cải cách có hệ
thống cả về lý luận và thực tiễn nhằm làm cho tiền lương thực sự là động lực thúc đẩy
CBCS hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó.
Là một chiến sĩ CAND, tôi chọn vấn đề “Thực hiện chính sách tiền lương
trong lực lượng Công an nhân dân” làm đề tài tốt nghiệp cao học của bản thân. Điều

đó, một mặt đáp ứng yêu cầu thực tiễn về vấn đề CSTL trong LLCAND; mặt khác,
nhằm giúp tôi hoàn thành khóa học Cao học Chính sách công tại Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngoài những văn bản pháp quy của Đảng và Nhà nước, việc nghiên cứu CSTL
nói chung có một số công trình nghiên cứu là đề tài cấp Bộ, Đề án của Nhà nước và của
nhiều học giả như:

2


- Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có
công, Ban chỉ đạo nghiên cứu cải cách tiền lương Nhà nước, năm 2001.
- Đề tài cấp Bộ: Luận cứ khoa học cho việc xây dựng đề án tiền lương mới, Bộ
Lao động thương binh và xã hội, năm 1998.
- Phan Vĩnh Điển: “Cải cách chế độ tiền lương trong khu vực hành chính của Việt
Nam”, Luận án Tiến sĩ, 2006.
Riêng đối với LLCAND, có một số công trình nghiên cứu đề cập về một số những
vấn đề chung về chính sách cán bộ như: hoàn thiện mô hình tổ chức và công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hoặc các chế độ phụ cấp cho cán bộ công tác ở vùng
cao, hải đảo. Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu đề cập đến CSTL đối với
LLCAND như:
- Bộ Quốc phòng - BCA, Luận cứ khoa học cho việc xây dựng Đề án tiền lương
mới của lực lượng vũ trang, 1999.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Luận cứ khoa học cho việc xây dựng Đề
án tiền lương mới, Đề tài cấp Nhà nước, 2001.
- Hà Đình Chương: “Đổi mới chính sách đãi ngộ vật chất đối với đội ngũ cán bộ,
chiến sĩ Công an nhân dân”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Đoàn Hiệp: “Một số giải pháp hoàn thiện chính sách tiền lương đối với lực
lượng Công an nhân dân hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, 2006.
- Nguyễn Thị Thúy Thanh: “Hoàn thiện chính sách tiền lương trong lực lượng Công
an nhân dân”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính quốc gia, 2009.
Các đề tài nói trên chủ yếu đề cập đến một số vấn đề chung của chính sách cán bộ
như hoàn thiện mô hình tổ chức và công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hoặc
các chế độ phụ cấp cho cán bộ công tác ở vùng hải đảo, vùng cao hoặc đã nêu thực trạng
tiền lương trong khu vực hành chính của Việt Nam nói chung cũng như CSTL trong
LLCAND nói riêng, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, yếu
kém trong việc thực hiện CSTL hiện hành.
Tuy nhiên vẫn còn những khoảng trống thời gian nghiên cứu từ năm 2009 đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu về thực hiện CSTL trong LLCAND. Đề tài mà tác

3


giả chọn sẽ cập nhật về tình hình thực hiện CSTL từ năm 2010 đến nay và đưa ra các giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện việc thực hiện CSTL trong LLCAND hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Đánh giá thực trạng thực hiện CSTL trong LLCAND, chỉ
ra những ưu, nhược điểm trong việc thực hiện CSTL. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp
chủ yếu hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả CSTL trong LLCAND hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận để thực hiện CSTL trong LLCAND.
+ Vận dụng lý thuyết về chính sách công để nghiên cứu thực hiện CSTL trong
LLCAND.
+ Đánh giá thực trạng quá trình thực hiện CSTL đối với LLCAND hiện nay; so
sánh với CSTL đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước.
+ Đề xuất những giải pháp để tăng cường hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả
CSTL đối với LLCAND trong điều kiện nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là CSTL đối với
CBCS trong LLCAND, bao gồm: tiền lương cơ bản, phụ cấp theo lương và một số chế
độ phụ cấp đặc thù cho một số đối tượng trong LLCAND.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu vào thực hiện CSTL
của Đảng và Nhà nước trong phạm vi toàn bộ hệ thống tổ chức bộ máy của LLCAND từ
năm 2010 đến nay và đề xuất giải pháp tăng cường thực hiện CSTL đối với LLCAND
trong thời gian tới. Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành
xã hội học, triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp
cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực
hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết
về chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý
luận về chính sách chuyên ngành.

4


- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích, tổng hợp, sử dụng để khai thác thông
tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu nghị
quyết của Đảng, các văn bản chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước; các công trình
nghiên cứu, các báo cáo liên quan trực tiếp đến CSTL trong LLCAND; các công trình
nghiên cứu khoa học về lý luận xây dựng LLCAND, về công tác nghiệp vụ Công an, nhất là
những dự báo chiến lược của Đảng về tình hình an ninh chính trị và TTATXH trong giai
đoạn hiện nay và trong những năm tới.
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn điển hình (là phương pháp quan trọng để rút ra
những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, tổng kết những vấn đề nâng lên thành lý luận);
phương pháp thống kê (giúp cho chúng ta nắm được các số liệu và các loại thông tin như: vấn
đề CBCS, cơ cấu, đội ngũ, mô hình tổ chức liên quan đến các tiêu chuẩn chức danh, chức vụ,

cấp bậc hàm để áp dụng, thực hiện CSTL cụ thể cho từng cấp bậc hàm và chức vụ); phương
pháp điều tra xã hội học...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Trước những biến đổi, vận động không ngừng của thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nhất là sự biến đổi nhanh chóng của tình hình an ninh thế giới và khu vực, nhiều vấn
đề mới đang được đặt ra đối với xây dựng LLCAND trong đó thực hiện CSTL là một nội
dung cơ bản đòi hỏi phải được nghiên cứu, tổng kết và giải đáp nhằm làm cơ sở khoa học
cho việc thực hiện có hiệu quả CSTL gắn liền với đặc điểm và tính chất lao động của
LLCAND trong tình hình hiện nay.
- Phân tích một cách khách quan quá trình tổ chức thực hiện CSTL trong LLCAND.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác chế độ, chính
sách trong LLCAND, giúp cho CBCS hiểu rõ về CSTL, từ đó tổ chức thực hiện có hiệu
quả CSTL trong LLCAND.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 10 tiết.

5


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƢƠNG ĐỐI VỚI
LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm chính sách tiền lƣơng trong lực lƣợng Công an nhân dân
1.1.1. Khái niệm chính sách tiền lương
1.1.1.1. Khái niệm tiền lương
a. Một số quan điểm về tiền lương
* Quan điểm về tiền lương của C. Mác (Karl Marx,1818-1887)
Lý luận về giá trị thặng dư của C. Mác dựa trên luận điểm người công nhân
bán sức lao động cho nhà tư bản và đổi lại người công nhân nhận được một khoản

tiền trả công lao động, gọi là tiền lương (C. Mác gọi là tiền công) và nhà tư bản
nhận được giá trị thặng dư do lao động thặng dư không được trả công của công nhân
tạo ra, đã chỉ ra sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, là nguồn gốc sinh ra giá
trị thặng dư và bản chất của tiền lương là giá cả hàng hóa sức lao động được chuyển
hóa dưới hình thức trả công lao động, biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao
động; tiền lương là vốn ứng trước trong chi phí sản xuất của nhà tư bản nhằm thu
được lợi nhuận (hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư). Khi tiền lương được coi
là một yếu tố của chi phí sản xuất đã che giấu việc phân chia ngày lao động của
người lao động thành hai phần: (1) thời gian lao động cần thiết để tái sản xuất sức
lao động của người lao động và (2) thời gian lao động thặng dư sinh ra giá trị thặng
dư cho nhà tư bản.
Từ luận điểm của C. Mác, tiền lương có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tiền lương là một yếu tố chi phí trong quá trình sản xuất, thuộc phạm
trù sản xuất và bị tri phối bởi các quy luật sản xuất như quy luật tăng năng suất lao
động, tỉ suất lợi nhuận,…cần được tính đúng khi tham gia quá trình sản xuất.
Thứ hai, tiền lương được hình thành từ thỏa thuận giữa người sử dụng lao động
và người lao động trên thị trường lao động (trao đổi), thuộc phạm trù trao đổi và bị tri
phối bởi quy luật giá trị.
Thứ ba, chi phí tiền lương là một yếu tố cấu thành giá trị sản phẩm hàng hóa, là
một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội được phân phối lần đầu cho người lao động
(trong lĩnh vực sản xuất) và phân phối lại cho người không trực tiếp sản xuất ra sản
phẩm hàng hóa (trong đó có tiền lương của công chức, viên chức và LLVT), nên tiền
lương là một phạm trù phân phối bị tri phối bởi quy luật phân phối theo lao động và
phân phối theo kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.

6


Thứ tư, để quá trình sản xuất xã hội liên tục, sức lao động phải được tái sản xuất
thông qua tiêu dùng các tư liệu sinh hoạt cần thiết, nên tiền lương là một phạm trù tiêu

dung bị tri phối bởi quy luật giá cả, lạm phát.
Từ cách tiếp cận “tiền lương” theo luận điểm của C. Mác nêu trên thì tiền lương
là một phạm trù KTXH tổng hợp, có tính lịch sử, xuất hiện khi có quan hệ thuê mướn
và trả công lao động và phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của sản xuất, mức sống
chung về vật chất, văn hóa và tập quán sinh hoạt của mỗi cộng động người, năng suất
lao động và giá cả từng thời kỳ; đồng thời tiền lương liên quan trực tiếp đến động lực
phát triển kinh tế, sự ổn định vững mạnh của nền tảng chính trị, pháp luật, đạo đức, sự
tiến bộ, công bằng và ổn định xã hội của một quốc gia.
* Quan niệm về tiền lương ở một số quốc gia
Tùy theo cách tiếp cận, phương thức tiếp cận nền kinh tế và trình độ phát triển
của nền kinh tế mà người ta có những quan niệm khác nhau về tiền lương.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho rằng, tiền lương (salary) là số tiền mà
người sử dụng lao động trả cho người lao động theo một số lượng nhất định không căn
cứ vào số giờ làm việc thực tế, thường được trả theo tháng hoặc nửa tháng. Còn tiền
công (wage) là khoản tiền trả công lao động theo hợp đồng lao động (chưa trừ thuế thu
nhập và các khoản khấu trừ theo quy định), được tính dựa trên số lượng sản phẩm làm
ra hoặc số giờ làm việc thực tế.
Trên thực tế, khái niệm và cơ cấu tiền lương ở các nước trên thế giới rất đa
dạng. Điều đó cho thấy sự phức tạp về tiền lương thể hiện ngay trong quan điểm về
tiền lương: Ở Pháp, sự trả công lao động bao gồm tiền lương hay lương bổng và mọi
nguồn lợi ích trực tiếp cũng như gián tiếp mà người sử dụng lao động trả cho người
lao động theo việc làm của người lao động. Ở Đài Loan, tiền lương chỉ mọi khoản
thù lao mà người công nhân nhận được do làm việc, bất luận là lương bổng, phụ
cấp, tiền thưởng hoặc dùng mọi danh nghĩa khác để trả cho họ theo giờ, ngày,
tháng, theo sản phẩm.
* Quan niệm về tiền lương ở Việt Nam
Sau đổi mới năm 1986, nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩavà theo luận
điểm của C. Mác thì ở nước ta đã xuất hiện đủ hai điều kiện để sức lao động trở thành
hàng hóa, đó là: (1) người lao động tự do sử dụng và tự do di chuyển sức lao động

của mình được pháp luật thừa nhận và (2) người lao động “bị tách rời” tư liệu sản
xuất. Tuy nhiện về luận điểm của C. Mác về điều kiện thứ hai (người lao động bị tước

7


đoạt hết tư liệu sản xuất) của chủ nghĩa tư bản thế kỷ XIX là thực tế đúng đắn, nhưng
ngày nay các nước tư bản đã có những điều chỉnh thích nghi với sự phát triển của xã
hội, phần đông công nhân là cổ đông trong các công ty cổ phần, nhưng với số lượng
cổ phần (vốn sản xuất) không đủ lớn và không có kiến thức để tự sản xuất kinh doanh
và cạnh tranh trên số vốn của mình, nên họ vẫn vừa là chủ nhỏ về sở hữu vốn sản
xuất, vừa là công nhân làm thuê. Do vậy, điều kiện để sức lao động trở thành hàng
hóa cần hiểu trong thời đại ngày nay không phải chủ yếu được lý giải ở chỗ người lao
động không có sở hữu vốn (tư liệu sản xuất), mà được lý giải bằng lợi ích kinh tế đã
điều chỉnh người lao động không tiến hành sản xuất kinh doanh và cạnh tranh trên số
vốn nhỏ bé của mình mà đi làm công ăn lương và hưởng lợi tức cổ phần theo số vốn
góp của mình sẽ có hiệu quả hơn. Khi sức lao động là hàng hóa thì tiền lương mang
bản chất kinh tế là giá cả sức lao động, tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
sức lao động.
b. Khái niệm tiền lương
Ngày nay, người ta đã đi đến thống nhất về khái niệm tiền lương, dù diễn đạt
khái niệm này có thể có những điểm khác nhau.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành các Luật và Nghị định
hướng dẫn về tiền lương. Bộ Luật lao động mới nhất được Quốc hội khóa XIII ban
hành ngày 18 tháng 6 năm 2012 quy định: “Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng
lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Tiền lương
bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ câp lương và các khoản bổ
sung khác. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu
do Chính phủ quy định” (Khoản 1, Điều 90, Bộ Luật lao động 2012).
Theo Giáo trình tiền lương – tiền công của Trường Đại học Lao động – Xã hội

(2006) thì “tiền lương là giá cả của sức lao động, được hình thành trên cơ sở thỏa thuận
giữa người lao động với người sử dụng lao động thông qua hợp đồng lao động (bằng
văn bản hoặc bằng miệng), phù hợp với quan hệ cung – cầu sức lao động trên thị
trường lao động và phù hợp với các quy định tiền lương của pháp luật lao động”. Tiền
lương được người sử dụng lao động trả cho người lao động một cách thường xuyên, ổn
định trong khoảng thời gian hợp đồng lao động (tuần, tháng, năm…).
Như vậy, có thể hiểu tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động để thực hiện một công việc một cách thường xuyên, ổn định trong khoảng
thời gian hợp đồng lao động phù hợp với quan hệ cung – cầu lao động, với quy định của
pháp luật lao động và pháp luật dân sự về thuê mướn lao động.

8


Bên cạnh đó, tiền công là một biểu hiện, một tên gọi khác của tiền lương. Tiền
công là số tiền người thuê lao động trả cho người lao động để thực hiện một khối lượng
công việc, hoặc trả cho một thời gian làm việc (thường là theo giờ), trong những hợp
đồng thỏa thuận thuê nhân công, phù hợp với quy định của pháp luật lao động và pháp
luật dân sự về thuê mướn lao động.
Từ thực tiễn đổi mới nền KTXH cũng như cơ chế quản lý và từ thực trạng
CSTL hiện hành đã hình thành một hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước
như sau:
Thứ nhất, tiền lương phải được coi là giá cả “sức lao động” được hình thành qua sự
thỏa thuận giữa người lao động với người sử dụng lao động, phù hợp với các quan hệ cung
cầu về lao động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Việc trả lương trong các doanh nghiệp cần tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường coi tiền
lương là giá cả “sức lao động”, nhưng vẫn phải đảm bảo mức tiền lương tối thiểu Nhà nước
đã quy định cho tất cả các khu vực.
Thứ hai, CSTL là một hợp phần cấu thành của hệ thống chính sách KTXH của đất
nước, giữa các chính sách có sự đan xen, tác động lẫn nhau. Vì vậy, việc cải cách CSTL phải

được tiến hành đồng thời với việc cải cách các chính sách có liên quan.
Thứ ba, kết cấu của CSTL mới phải được thay đổi căn bản, triệt để, xóa bỏ bao cấp,
từng bước thực hiện “tiền tệ hóa” tiền lương. Các yếu tố như nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, học phí, đi lại… phải là những yêu tố cấu thành trong tiền lương.
Thứ tư, phải xây dựng cơ chế kiểm soát và quản lý tiền lương chung đối với toàn
xã hội như các khu vực hành chính sự nghiệp; sản xuất – kinh doanh; LLVT và dân cử,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…
Thứ năm, muốn có một chế độ tiền lương cao, đời sống của cán bộ, công nhân,
viên chức, LLVT được cải thiện, chúng ta cần tích cực, chủ động hơn nữa công cuộc đổi
mới đất nước theo hướng “công nghiệp hóa – hiện đại hóa”; phát triển nền kinh tế vững
mạnh, có tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc. Tích cực, chủ động thực hiện cải cách
hành chính nhà nước, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm chính sách tiền lương
Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng rất phổ biến trong đời sống xã hội. Theo
cách hiểu thông thường, chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo,
quản lý đưa ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “chính sách” là hình thức tác động qua lại giữa

9


các nhóm, tập đoàn xã hội gắn trực tiếp hoặc gián tiếp với tổ chức, hoạt động của nhà
nước, của các đảng phái, thiết chế khác nhau của hệ thống chính trị nhằm thực hiện các
lợi ích, các mục tiêu, nhiệm vụ của các nhóm, các tập đoàn trong xã hội ấy. Chính sách
là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể
trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm (James Anderson, 1990).
Chính sách công thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân do đó, định
nghĩa về chính sách công phụ thuộc rất nhiều vào bản chất của nhà nước. Cho đến nay,
trên thế giới, định nghĩa về chính sách công vẫn còn đang tiếp tục được phân tích và

giải thích. Trong trường hợp ở Việt Nam thì có thể định nghĩa “chính sách công là một
tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải
pháp thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”
(Đỗ Phú Hải, 2012).
Tiền lương đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển KTXH của đất nước, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động và gia đình họ. Vì thế, giải quyết vấn đề
tiền lương một cách hợp lý sẽ là điều kiện đảm bảo sự ổn định và phát triển đất nước. Do đó,
tiền lương cũng là một trong những vấn đề công mà nhà nước cần phải ban hành chính sách
để điều chỉnh, giải quyết cho phù hợp với xu hướng phát triển và trình độ KTXH của đất
nước để đảm bảo đời sống cho người lao động.
Như vậy có thể định nghĩa khái niệm “chính sách tiền lương” là một hệ thống các
quy định pháp luật của Nhà nước về tiền lương để đảm bảo mức sống cho người lao
động nhằm góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển xã hội.
Nói cách khác, CSTL là định hướng hành động của Nhà nước đối với vấn đề tiền
lương cho người lao động nhằm bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển xã hội. CSTL còn
là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội. Tiền lương đảm bảo tái sản xuất sức lao
động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Tiền
lương là mối quan tâm hàng đầu của người lao động, là đòn bẩy quan trọng để nâng cao
năng suất lao động, tạo cơ sở quan trọng nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm, vai trò của chính sách tiền lương trong lực lượng Công an
nhân dân
1.1.2.1. Khái niệm chính sách tiền lương trong lực lượng Công an nhân dân
Chế độ, chính sách trong LLCAND là các chủ trương, quy định của Đảng, Nhà
nước về đãi ngộ vật chất (tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, nghỉ dưỡng, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế…) đối với bản thân và thân nhân SQ, HSQ, chiến sĩ, học viên, CNCA, đối với
người có công với cách mạng và hậu phương CAND góp phần xây dựng LLCAND cách

10



mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
Như vậy, có thể định nghĩa khái niệm “chính sách tiền lương trong lực lượng Công
an nhân dân” là một bộ phận quan trọng của chính sách Nhà nước. Nó bao gồm tập hợp
hệ thống các văn bản của Chính phủ quy định về tiền lương và chế độ phụ cấp nhằm mục
tiêu xây dựng LLCAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, trở thành lực lượng
nòng cốt của LLVT trong việc bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, tuyệt đối trung thành với
Đảng Cộng sản Việt Nam, với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, qua
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của CSTL nói chung thì yêu cầu đặt ra đối với CSTL đối
với LLCAND không chỉ đảm bảo yêu cầu cơ bản của CSTL mà còn phải thể hiện sự đãi
ngộ của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng lao động đặc biệt.
1.1.2.2. Vai trò của chính sách tiền lương trong lực lượng Công an nhân dân
Thứ nhất, góp phần xây dựng LLCAND dân trở thành lực lượng nòng cốt của
LLVT cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Đối với LLCAND,
CSTL đã góp phần rất quan trọng trong việc xây dựng LLCAND trở thành LLVT cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ ANQG, bảo đảm
TTATXH trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ra đời trong những ngày tháng Đảng lãnh đạo thành công cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền (19/8/1945) nhằm bảo vệ cách mạng và chính quyền non trẻ, đồng
thời được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt và toàn diện. Từ đó đến nay, trải qua hơn
70 năm xây dựng, cống hiến và trưởng thành, mặc dù trong mỗi giai đoạn lịch sử của
đất nước thì nhiệm vụ sau này càng khó khăn hơn nhiệm vụ trước nhưng LLCAND
luôn lập được những chiến công xuất sắc, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin cậy,
ủng hộ, được các nước trên thế giới đánh giá cao. Để có được sự trưởng thành, CBCS
phải tự khắc phục khó khăn, ra sức phấn đấu. Tuy nhiên, cũng phải kể đến chính sách
đãi ngộ của Đảng và Nhà nước đối với LLCAND, đặc biệt là CSTL, là tiền đề vật chất
hết sức quan trọng để xây dựng, củng cố về tổ chức và chất lượng đội ngũ CBCS; tạo
tâm lý phấn khởi, yên tâm công tác, học tập và cống hiến của từng CBCS.
CSTL thỏa đáng còn tạo sức hút mạnh mẽ đối với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật có trình độ cao ở các ngành trong xã hội hoặc sinh viên khá, giỏi tốt nghiệp các

trường đại học chuyển vào công tác trong LLCAND. Đội ngũ này được tuyển dụng và
tiếp tục được đào tạo nghiệp vụ Công an sẽ là động lực chủ yếu góp phần xây dựng
LLCAND chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

11


Tóm lại, CSTL là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng LLCAND cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng; trung thành tuyệt đối với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân… có trình độ cao, sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đập tan mọi âm
mưu và hành động xâm phạm độc lập và ANQG; ngăn chặn và đẩy lùi các tội phạm nguy
hiểm và các tệ nạn xã hội, bảo đảm TTATXH.
Thứ hai, CSTL là một trong những nhân tố quan trọng góp phần động viên
LLCAND hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là giá cả sức lao động, nó không chỉ bị
chi phối bởi sức lao động mà còn bị chi phối bởi quy luật cung cầu. Nếu cung lớn hơn
cầu về lao động thì tiền lương sẽ giảm xuống. Ngược lại nếu cung nhỏ hơn cầu về lao
động thì tiền lương sẽ tăng lên. Mặt khác, theo C. Mác, giá trị sức lao động bằng giá
trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để bù đắp sức lao động đã hao phí trong quá trình sản
xuất, những giá trị của những hao phí nuôi dưỡng con người trước và sau tuổi có khả
năng lao động, giá trị của những chi phí cho việc học hành. Những chi phí này không
chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tự nhiên và sinh lý của con người, mà còn phụ thuộc vào
trình độ phát triển KTXH, trình độ văn minh đạt được. Nếu giá cả các tư liệu sinh
hoạt thay đổi thì tiền lương danh nghĩa cũng thay đổi theo.
Động cơ để thúc đẩy con người hành động chính là nhu cầu về lợi ích, trong đó
lợi ích về vật chất là hạt nhân kích thích mạnh mẽ hứng thú và khả năng sáng tạo
không giới hạn của con người. Tuy nhiên, lợi ích vật chất của con người không phải
tự nhiên mà có được mà phải thông qua quá trình lao động, hoạt động lao động sản
xuất đem lại thu nhập để thỏa mãn nhu cầu lợi ích vật chất của con người.
Do đó, tiền lương là một dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nhằm đáp ứng. nhu

cầu của con người, là yếu tố tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người trong lao
động. Thu nhập bằng tiền (tiền lương) để có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu trong đời
sống của CBCS, từ đó cán bộ sẽ càng có trách nhiệm đối với công việc đã đem lại thu nhập
cho bản thân, đồng thời phấn đấu nâng cao trình độ CMNV để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Việc đề ra và thực hiện tốt CSTL trong LLCAND có tác động rất lớn đến hiệu quả công tác
CBCS, thúc đẩy mọi người tích cực làm việc, học tập để có trình độ học vấn và CMNV
ngày càng cao; có phẩm chất, đạo đức lối sống lành mạnh, giản dị; có năng lực hỉ huy tác
chiến thắng lợi trong bất cứ tình huống nào.
Mặt khác, vai trò của CSTL đối với LLCAND tăng cường sức phòng ngừa cho
CBCS trước những hiện tượng tiêu cực, cám dỗ vật chất tầm thường trong khi thi hành

12


công vụ, để CBCS thật sự trong sạch. Trên góc độ vĩ mô, CSTL luôn là bộ phận rất
quan trọng và là yếu tố quyết định sự thành công của chiến lược phát triển nguồn nhân
lực trong CAND.
1.2. Căn cứ xây dựng chính sách tiền lƣơng đối với lực lƣợng Công an
nhân dân
1.2.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng Công an
nhân dân
1.2.1.1. Vị trí của lực lượng Công an nhân dân
Lịch sử ra đời và phát triển của xã hội loài người từ khi xuất hiện nhà nước cho
thấy, bất kỳ giai cấp, đảng phái chính trị nào khi lên nắm quyền lãnh đạo đất nước cũng
đều tổ chức ra LLVT để bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của mình và sự toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia. Bởi thế, LLVT (bao gồm quân đội và công an) là một hiện tượng xã
hội mang tính lịch sử, là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, mang bản chất giai cấp
sâu sắc, không có LLVT phi giai cấp, trung lập hay đứng ngoài chính trị.
Là LLVT trọng yếu, nòng cốt, công cụ sắc bén bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xác định vai trò, vị trí tầm quan trọng của LLCAND trong

hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước, ngay từ khi ra đời, LLCAND luôn
được Đảng, Nhà nước quan tâm chăm lo xây dựng về mọi mặt, đã ban hành nhiều chủ
trương, giải pháp, định hướng cơ bản chiến lược để xây dựng LLCAND đáp ứng yêu
cầu, phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Vị trí của LLCAND được hiến định tại Điều 67, Hiến pháp 2013 quy định rõ:
“Nhà nước xây dựng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm
nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH”.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ X (1956) Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cần nhận rõ nhiệm vụ của Công an là bảo vệ và phục vụ nhân
dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ cho chính quyền nhân dân. Muốn làm tròn nhiệm vụ công an
phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, hết lòng phục vụ nhân
dân và dựa vào nhân dân”.
Thứ nhất, trong bộ máy Nhà nước thì Bộ Công an (BCA) là cơ quan của Chính
phủ, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối về mọi mặt của Ban chấp hành trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, Bộ chính trị, Ban bí thư, thường xuyên trực tiếp là Đảng ủy Công
an trung ương, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ
và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng BCA. (Nghị định 106/2014/NĐ-CP ngày
17/11/2014 của Chính phủ quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ
chức bộ máy CAND, Khoản 1, Điều 1).

13


Thứ hai, trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự thì CAND là lực lượng nòng cốt
của LLVT nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH của nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 4, Luật Công an nhân dân năm 2014).
1.2.1.2. Chức năng của lực lượng Công an nhân dân
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định rõ tại
Điều 67: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và

bảo đảm TTATXH”. Việc quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của LLCAND
tại các văn bản Luật Công an nhân dân, nghị định của Chính phủ nhằm cụ thể hóa
những quy định tại Hiến pháp.
Điều 14 của Luật Công an nhân dân 2014 quy định: Công an nhân dân có chức
năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH,
đấu tranh phòng, chống tội phạm; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất
quản lý nhà nước về an inh quốc gia, TTATXH; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động
của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia,
TTATXH.
1.2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng Công an nhân dân
Sự hình thành nhiệm vụ, quyền hạn của LLCAND bắt nguồn từ việc cụ thể hóa
nhiệm vụ chung của cách mạng trên lĩnh vực đấu tranh bảo vệ ANQG, bảo đảm
TTATXH và từ việc hình thành chức năng, nhiệm vụ của mình mà góp phần phát
triển đường lối nhiệm vụ chính trị của Đảng. Hiến pháp 2013, Điều 65 quy định đầy
đủ nhiệm vụ của LLVT nhân dân: “lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, Nhân dân với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và TTATXH; bảo
vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ ngĩa; cùng toàn dân xây dựng đất
nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Điều 15, Luật Công an nhân dân 2014 quy định
20 nhiệm vụ, quyền hạn của LLCAND.
Do đó, đối với xây dựng và thực hiện CSTL trong LLCAND phải đảm bảo cho
việc xây dựng tổ chức bộ máy đáp ứng có hiệu quả yêu cầu đảm bảo ANTT, phục vụ
đắc lực quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân. CSTL phải đảm bảo cho CBCS yên tâm công tác, tạo động lực để hoàn thành
tốt nhiệm vụ.

14


1.2.2. Đặc điểm công tác của lực lượng Công an nhân dân

1.2.2.1. Công tác Công an có đối tượng đa dạng và phức tạp, hoạt động của cán
bộ, chiến sĩ diễn ra trên mọi lĩnh vực, ở mọi địa bàn, trong mọi thời gian
a. Đối tượng đa dạng và phức tạp
Về mặt lý luận, xuất phát từ tính chất của cuộc đấu tranh bảo vệ ANQG, bảo
đảm TTATXH là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, chống lại âm
mưu và hành động thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch đối với nước ta và
hoạt động tinh vi của bọn tội phạm và chống lại tàn dư của chế độ xã hội cũ để xây
dựng xã hội mới. Đối tượng đấu tranh ở đây là các thế lực thù địch trong và ngoài
nước, các loại tội phạm xâm phạm ANQG và TTATXH với âm mưu giành lại quyền
thống trị đã bị mất bằng những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
Trên thực tế, đối tượng đấu tranh hoạt động trong phạm vi rộng, không những
ở trong nước mà còn trong phạm vi quốc tế; không những địa bàn thuộc chủ quyền
quốc gia mà còn cả ngoài chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
Đối tượng bảo vệ là sự lãnh đạo của Đảng, sự tồn tại của chính quyền cách
mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, tài sản Nhà nước, tính
mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân.
b. Công tác của cán bộ chiến sĩ công an diễn ra trên mọi lĩnh vực, ở mọi địa
bàn, trong mọi thời gian, tình huống phức tạp, bất ngờ
Thứ nhất, công tác của LLCAND có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Thứ hai, tính chất, đặc điểm, phạm vi hoạt động của LLCAND rất đa dạng
không có giới hạn hành chính mà đan xen trong phạm vi một hoặc nhiều tỉnh, thành
phố, huyện, xã thậm chí liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Thứ ba, trong tình hình hiện nay các thế lực thù địch quyết liệt đẩy mạnh hoạt
động “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
c. Công tác Công an là sự kết hợp lao động thể lực và lao động trí lực, cả lao
động giản đơn và lao động phức tạp
Thứ nhất, trong quá trình đấu tranh tội phạm, CBCS không những phải mưu trí,
dũng cảm mà còn phải sử dụng tổng hợp trí tuệ và sức lực ở cường độ cao, không những

phải có tri thức mà còn phải có kinh nghiệm đấu tranh. Đấu tranh chống tội phạm là quá
trình đấu trí, đấu lực và đấu pháp, là quá trình phải sử dụng tổng hợp các kiến thức:

15


chính trị, nghiệp vụ, pháp luật, khoa học kỹ thuật; phải vận dụng các quy luật của tự
nhiên, KTXH, tư tưởng… để giành thắng lợi.
Thứ hai, cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch, cùng bọn tội phạm hình sự
và các tệ nạn xã hội thực sự là một cuộc đấu trí, đấu lực ở trình độ cao, dồn d ập trên
bình diện rộng lớn và hết sức căng thẳng, quyết liệt. Công tác Công an là loại hình
lao động đặc biệt, đòi hỏi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí, lực và pháp. Những
hoạt động thường xuyên trong huấn luyện, công tác, chiến đấu của CBCS không chỉ
là hoạt động cơ bắp thuần túy mà còn là hoạt động của tư duy, trí tuệ, tiêu hao rất
lớn trí lực và năng lượng.
Thứ ba, kết quả công tác Công an tác dụng ở phạm vi rộng lớn, lâu dài, có ý
nghĩa cả về chính trị, KTXH. Vì vậy, không thể dùng đơn thuần các biện pháp cân,
đong, đo, đếm để đánh giá kết quả công tác Công an. Việc đánh giá chất lượng công
tác không thể đánh giá bằng giá trị tiền lương.
1.2.2.2. Công tác Công an là loại hình lao động chuyên ngành đặc biệt
a. Tính cơ động chiến đấu cao, thường xuyên, liên tục, lâu dài, không phân rõ
trận tuyến.
Xác định đặc điểm công tác Công an, tại hội nghị Công an toàn quốc lần thứ X (1956),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nhà nước ta có hai lực lượng vũ trang là Quân đội và Công
an, lúc chiến tranh thì Quân đội đánh giặc, khi hòa bình thì luyện tập, còn Công an thì lúc
chiến tranh có nhiều việc, khi hòa bình càng nhiều việc hơn".
Thứ nhất, xuất phát từ tính chất của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự. Cuộc
đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp nên nó
mang đầy đủ tính chất cuộc đấu tranh giai cấp.
Thứ hai, xuất phát từ âm mưu hoạt động của đối tượng đấu tranh.

Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của BCH TW khóa XI về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đảng ta đã xác định theo nguyên tắc và đã nâng
lên thành quan điểm: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; Bất kỳ
thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác trong tình hình diễn biến
nhanh chóng và phức tạp như hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối
tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu
thuẫn với lợi ích của chúng ta cần phải đấu tranh...”. Do đó, cuộc đấu tranh này là rất
quyết liệt, lâu dài.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu thực tế công tác Công an đang đòi hỏi.

16


Cuộc chiến đấu của LLCAND với các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các
vi phạm pháp luật, có bắt đầu mà không có kết thúc. Nhìn hình thức bề ngoài thì âm
thầm lặng lẽ không phân chia chiến tuyến rõ ràng, nhưng bên trong cuộc chiến đấu thì
rất quyết liệt, căng thẳng. Không phân rõ trận tuyến thể hiện ở khía cạnh vũ trang có
địch, có ta nhưng không có mặt trận tuyến (theo nguyên tắc có địch có ta thì có trận
tuyến), tuy nhiên trong công tác Công an không thể hiện rõ trận tuyến rõ ràng, cụ thể là
vật chất có thể phân định nhưng tư tưởng, tinh thần không thể phân định.
b. Chứa đựng mật nhà nước, mang nhiều yếu tố nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
Thứ nhất, bí mật là nguyên tắc và là yếu tố dẫn tới thành công trong công tác
bảo đảm ANTT của lực lượng Công an. Trong thực tế các thế lực thù địch và các đối
tượng đấu tranh của ta luôn lấy bí mật làm phương thức che giấu bản chất và hoạt động
của chống đối; chúng tìm mọi cách để tìm hiểu hoạt động điều tra của cơ quan Công an
để có phương thức đối phó và hòng trốn tránh pháp luật. Do vậy, bí mật là yêu cầu cần
quán triệt trong mọi mặt của công tác Công an và của mỗi CBCS.
Trong các biện pháp của ngành Công an được Đảng, Nhà nước cho phép bên

cạnh việc sử dụng các biện pháp công khai còn được sử dụng những biện pháp nghiệp
vụ bí mật và các phương tiện nghiệp vụ đặc biệt…nhằm phục vụ có hiệu quả công tác
bảo đảm an ninh, trật tự. Đây là điều kiện tốt cho lực lượng Công an nhân dân hoàn
thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.
Thứ hai, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi công tác Công an
luôn phải làm việc trong điều kiện có yếu tố độc hại, đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm;
môi trường làm việc bị ô nhiễm nặng, khắc nghiệt, chịu tác động bởi các yếu tố về lý,
hóa vượt mức cho phép của Bộ Y tế, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ngoài cộng đồng dân cư
như: công tác pháp y, giám định tư pháp (khám nghiệm tử thi, mổ tử thi, khai quật tử
thi); điều tra hình sự: (đội trọng án, trinh sát hình sự, trinh sát phòng, chống tội phạm
về ma túy, ngoại tuyến, lực lượng đặc nhiệm, cơ động, bảo vệ hiện trường, tiếp xúc hóa
chất); phòng chống tệ nạn xã hội: (làm việc tại các cơ sở quản lý người nghiện ma túy,
người bán dâm và người sau cai nghiện ma túy); trực tiếp làm công tác quản lý, giáo
dục, chăm sóc, khám chữa bệnh và đấu tranh với đối tượng nhiễm HIV/AIDS.
Thứ ba, môi trường lao động mang tính xã hội phức tạp, nguy hiểm. Công tác
Công an thường xuyên phải đấu tranh với nhiều loại đối tượng khác nhau có loại thô
bạo, manh động, trắng trợn, có loại tinh vi, xảo quyệt; việc phân biệt giữa phản cách
mạng với tội phạm khác; giữa hành vi của những người phạm tội với những hành vi
của người lạc hậu, những phong tục cổ hủ, người cuồng tín, mộ đạo trong các tôn

17


giáo, dân tộc,…nhiều khi rất khó khăn, phức tạp. Bản chất của hoạt động tội phạm là
những hành vi trái pháp luật, do đó thủ phạm luôn tìm mọi cách để che dấu hành
động phạm tội, che giấu bản chất nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
Để thực hiện nhiệm vụ, CBCS thường phải hoạt động đơn tuyến, trách nhiệm
và năng lực cá nhân đóng vai trò chủ yếu trong việc hoàn thành nhiệm vụ; phải tiếp
xúc va chạm với mặt trái của xã hội, chịu sự tác động của một số hiện tượng tiêu cực
xã hội, của bọn tội phạm.

1.2.2.3. Công tác Công an là lao động của lực lượng vũ trang cách mạng
a. Tính vũ trang cách mạng
Đối diện với các thế lực thù địch và các loại tội phạm thì đấu tranh vũ trang là
một trong các biện pháp đấu tranh của LLCAND; đấu tranh với các thế lực thù địch
và các loại tội phạm khác không chỉ có một mình LLCAND mà còn cả thế trận toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong đó LLCAND giữ vai trò làm nòng cốt, cũng sử
dụng các biện pháp cứng rắn, bạo lực cách mạng để trấn áp kẻ thù khi cần thiết.
Thứ nhất, là một tổ chức thống nhất, tinh gọn, có mối quan hệ chặt chẽ, có
kỷ luật nghiêm minh. Phải đảm bảo sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung thống nhất từ
trên xuống dưới luôn sẵn sàng chiến đấu và có tính cơ động chiến đấu cao. Hệ
thống tổ chức dù được tổ chức thành loại hình nào: tổ chức theo chuyên môn hoá
hệ nghiệp vụ hay được tổ chức theo cấp hành chính thì cũng phải phù hợp với
tính chiến đấu.
Thứ hai, phải đảm bảo tính thường trực chiến đấu, kịp thời giải quyết những vụ việc
có liên quan đến an ninh trật tự, chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệnh nội vụ về trực ban,
trực chiến. Hệ thống tổ chức của LLCAND dù được tổ chức thành loại hình nào: tổ chức
theo chuyên môn hoá hệ nghiệp vụ hay được tổ chức theo cấp hành chính thì cũng phải
phù hợp với tính chiến đấu của LLCAND.
Thứ ba, đội ngũ CBCS có sức khoẻ tốt, có lý lịch, phẩm chất đạo đức trong sáng,
có năng lực công tác Công an, khả năng cơ động thích ứng nhanh. Có ý thức tổ chức kỷ
luật, tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ, không sợ hy sinh để bảo vệ Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều gì khi Tổ quốc, Đảng và
Ngành cần đến.
Thứ tư, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật phải được trang bị các loại vũ khí, phương
tiện nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ hiện đại. CBCS phải sử dụng thành thạo các loại vũ khí,
phương tiện nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ cần thiết để bảo vệ ANTT.

18



b. Thần kinh thường xuyên bị căng thẳng, tỷ lệ hi sinh, bị thương, bị bệnh cao
Thứ nhất, xét về tổng thể công tác Công an có cường độ căng thẳng, thường
xuyên, liên tục, hầu như không có ngày nghỉ.
Thứ hai, công tác Công an được tiến hành với nhiều phương thức, phương pháp, biện
pháp, hình thức, phương tiện, huy động nhiều lực lượng. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đồng
thời là cuộc đấu tranh dân tộc, mang tính bí mật cao, mang tính bí mật nhà nước, ngoại giao,
đối tác, đối tượng đan xen đòi hỏi cần phải nhạy bén, tế nhị.
Thứ ba, tỷ lệ hi sinh, bị thương, bị bệnh cao, lao động công an được sếp vào những ngành
nghề có tính chất nguy hiểm nhất do tính chiến đấu thường xuyên, trực tiếp và lâu dài.
Theo số liệu của thống kê qua các thời kỳ, lực lượng CAND: Liệt sĩ: 14.762,
trong đó: Thời kỳ kháng chiến chống Pháp: 3.662; thời kỳ kháng chiến chống Mỹ:
9.761; thời kỳ sau 30/4/1975 đến trước năm 1986: 825; từ 1986 đến nay là 284. Liệt sĩ
chưa tìm thấy hài cốt cần tìm kiếm, quy tập là 1.786; Thương binh: 1013, trong đó:
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: 66; từ 1975 đến trước 1986: 106; từ 1986 đến nay: 84;
Hiện nay lực lượng CAND có 33 cán bộ là người bị nhiễm chất độc hóa học. Theo thống kê
trong năm 2015, số cán bộ, chiến sỹ hi sinh là 12 đồng chí; bị thương khi làm nhiệm vụ là 263
đồng chí; bị phơi nhiễm HIV là 25 đồng chí (Nguồn: Cục Chính sách, BCA).
c. Môi trường công tác có kỷ luật nghiêm ngặt, gò bó, hạn chế sinh hoạt cá nhân,
nhiều bộ phận phải hoạt động làm việc tập trung, xa các trung tâm kinh tế, văn hóa, giao
tiếp với xã hội hạn chế
Thứ nhất, là tổ chức vũ trang có tổ chức khoa học, tác phong làm việc chính quy, con
người trong tổ chức chính quy là con người làm việc được chuẩn hóa cao về nhiệm vụ, có lề
lối, tác phong, giao tiếp chuẩn mực; có phương pháp làm việc khoa học, quy trình làm việc
được thống nhất đồng bộ trong cả bộ máy.
Thứ hai, tính chiến đấu cao, hơn 85% lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ ANTT, thường trực sẵn sàng chiến đấu (theo một tỷ lệ nhất định) 24/24 giờ, khi cần
thiết, trong tình huống phức tạp có thể là 100% quân số cho đến khi tình hình yên trở lại,
chỉ có 15% lực lượng làm nhiệm vụ đảm bảo và phục vụ chiến đấu, nhưng vẫn phải luân
phiên trực ban, trực chiến theo quy định (khác với cán bộ, công chức, viên chức ở các
ngành dân sự làm việc theo giờ hành chính).


19


d. Thường sống xa gia đình, lưu động, thiếu thốn tình cảm, ít có điều kiện giúp
đỡ gia đình, nuôi dạy con cái; không có thu nhập nào khác ngoài lương
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, công tác Công an diễn ra trên khắp mọi địa
bàn, khu vực trong và ngoài nước, thành phố hay nông thôn, đồng bằng, miền núi và
hải đảo,… Thời gian hoạt động diễn ra thường xuyên, không kể ngày, đêm, ngày
nghỉ, lễ, tết. Cụ thể đây là cơ hội, điều kiện để hoạt động tội phạm các ngày này
diễn ra khác so với các ngày bình thường. Không có thu nhập nào khác ngoài lương:
Luật pháp quy định CBCS không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh
doanh; tính chất công việc đòi hỏi về thời gian làm việc không có điều kiện làm
thêm giờ…
e) Nguồn nhân lực trong Công an nhân dân:
Nguồn cung nhân lực cho ngành chủ yếu là do ngành tự đảm nhiệm “tự cung,
tự cấp” bằng hai nguồn chủ yếu là tuyển sinh đào tạo trong các học viện, trường
CAND và chuyển chuyên nghiệp cho số hạ sĩ quan phục vụ có thời hạn, còn tuyển
nhân lực đã qua đào tạo (sinh viên tốt nghiệp các cơ sở đào tạo dân sự và nhân lực từ
ngành ngoài vào) chiếm tỷ lệ khiêm tốn (khoảng 15%) nhưng vẫn phải qua đào tạo
nghiệp vụ công an mới có thể sử dụng.
Tóm lại, lao động công an tuy không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, song
những “sản phẩm” tạo ra là rất lớn. Đó là sự ổn định về ANTT của đất nước, gắn bó chặt chẽ
tới sinh mệnh của Đảng, sự tồn tại bền vững của chế độ xã hội, là đạo đức của xã hội và nhân
phẩm của công dân Việt Nam. Vì vậy, lao động công an không những gắn bó chặt chẽ với lao
động khác mà còn gắn bó chặt chẽ tới sinh mệnh của Đảng, gắn liền với sự tồn vong của chế
độ chính trị xã hội chủ nghĩa, sự suy thịnh của đất nước, với thành quả cách mạng phải đổi
bằng xương máu của hàng triệu người, cũng như trực tiếp phục vụ những lợi ích cao nhất của
quốc gia và nhân dân.
1.2.3. Quy định pháp luật của Nhà nước

1.2.3.1. Hiến pháp năm 2013
Quan điểm và chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng LLCAND cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại được thể chế hóa tại các văn bản chính
sách, pháp luật của Nhà nước ta là căn cứ pháp lý quan trọng giúp cho LLCAND hoạch
định CSTL nhằm xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu, tương xứng với nhiệm vụ bảo

20


×