Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

phân tích năng lực cạnh tranh của 2 ngân hàng thương mại cổ phần việt nam (acb và techcombank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.04 KB, 51 trang )

ĐỀ TÀI 8:

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
Lời mở đầu
Ngân hàng được ví như trái tim của nền kinh tế, một nền kinh tế càng phát triển thì
ngân hàng cũng sẽ càng hoàn thiện sao cho phù hợp với nhịp đập của nền kinh tế ấy. Ngày
nay, không chỉ đơn giản dừng lại các nghiệp vụ truyền thống như huy động vốn và tín dụng,
các ngân hàng vẫn đang tiếp tục làm mới mình với các công cụ tài chính hiện đại, một hệ
thống với cơ sở hạ tầng vững chắc thể hiện đúng vai trò là một định chế tài chính trung gian
quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế.
Trước một thị trường kinh tế Việt Nam mới nổi vô cùng tiềm năng, nhiều ngân hàng
đã được các chủ sở hữu trong và ngoài nước thành lập. Trong thời kỳ hội nhập, các ngân
hàng thương mại cổ phần không những phải cạnh tranh với nhau mà còn phải gặp phải sự
cạnh tranh từ ngân hàng nhà nước và ngân hàng nước ngoài. Với sự cạnh tranh khốc liệt
như vậy thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh là một điều vô cùng thiết yếu, các ngân hàng
thương mại không những phải đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân viên mà còn phải không ngừng hoàn thiện cơ sở vật chất, công nghệ thông tin
nhằm gây dựng một lòng tin vững chắc, thu hút công chúng đến với ngân hàng mình. Tuy
ngành ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn khá non trẻ, nhưng với sự nỗ lực và phát triển không
ngừng, một số ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đã có những vị thế nhất định trên
thị trường với sự tín nhiệm cao của công chúng và giành được nhiều giải thưởng cao do các
hiệp hội tài chính nước ngoài thống kê và bình chọn; không những vậy một số ngân hàng có
vốn lớn đã mạnh dạn đầu tư mở rộng chi nhánh ra nước ngoài cho thấy ngành ngân hàng
Việt Nam đang có một bước chuyển mình trong việc cạnh tranh và hoàn thiện hệ thống
ngân hàng. Với đề tài “Tìm hiểu năng lực cạnh tranh giữa 2 ngân hàng thương mại cổ
phần – Ngân hàng cổ phần thương mại Á Châu (ACB) và ngân hàng cổ phần thương
mại Kỹ thương (Techcombank)” nhóm chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn những thông tin
chi tiết về tình hình cạnh tranh ngân hàng trong thời điểm hiện nay và một số giải pháp mà 2
ngân hàng đã thực hiện để trở thành một trong những ngân hàng có uy tín cao trong hệ
thống ngân hàng Việt Nam.


Các thành viên nhóm 08:
1. Võ Thị Khánh Ngân
2. Trần Thị Hiền Đoan
3. Dương Thủy Tiên
4. Võ Minh Luân
5. Hồ Thái Hữu Hiếu
1. Cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng
1


1.1. Lý luận chung về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong điều
kiện của kinh tế thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh
tranh là môi trường tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất
lao động, hiệu quả của các tổ chức, là nhân tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã
hội. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của
mỗi tổ chức. Vì vậy, các tổ chức đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để
chiến thắng trong cạnh tranh.
1.1.2 Đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các ngân hàng thương
mại (NHTM) trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ
các NHTM khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên
thương trường với mục tiêu là để thu hút khách hàng về tổ chức của mình, tăng thị phần tín
dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy
vậy, so với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các NHTM có những
đặc thù nhất định. Cụ thể:
• Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác
động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá… mỗi
một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh

mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử
dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là
các NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn,
thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động dây chuyền.
• Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế,
chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm,
cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh
doanh của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối
tượng khách hàng chung. Chính vì vậy, các NHTM trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh
tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một
môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
• Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt
hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các NHTM mạo hiểm nguy
cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt
chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Chính vì vậy, nên
sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn
nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế.
• Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm
vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại;
2


do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và
quốc tế, như: môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc
tế… đặc biệt là, nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó
công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng này.
1.1.3 Năng lực cạnh tranh của NHTM
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng mà do chính ngân hàng tạo ra trên cơ sở
duy trì và phát triển những lợi thế vốn có, nhằm cũng cố và mở rộng thị phần; gia tăng lợi

nhuận và có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh
doanh. Trên cơ sở đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi phải tạo lập được lợi thế so
với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu
cũng như lôi kéo được khách hàng.
Thực tế cho thấy, không một ngân hàng nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả
những yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân
hàng, cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực
hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng.
Năng lực cạnh tranh được đánh giá tổng thể thông qua các chỉ tiêu sau:


Doanh thu.



Thị phần và tốc độ tăng trưởng thị phần.



Tỷ suất lợi nhuận.

Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, năng lực cạnh tranh còn được đánh giá qua các
chỉ tiêu định tính như:


Chất lượng dịch vụ ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh.



Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.




Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh.

Bên cạnh đó còn những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh:
- Các nhân tố môi trường vĩ mô:


Nhân tố môi trường chính trị - pháp lý



Xu hướng phát triển trên thế giới ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của ngân



Nhân tố văn hoá xã hội

hàng
- Các nhân tố môi trường vi mô


Đối thủ cạnh tranh hiện tại



Đối thủ cạnh tranh tiềm năng




Đối thủ cạnh tranh ngẫu nhiên
3


- Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp


Năng lực tài chính



Năng lực công nghệ



Nguồn nhân lực



Merketing



Hoạt động nghiên cứu và phát triển



Các chiến lược cạnh tranh


Một cách tổng quát năng lực cạnh tranh của NHTM được đánh giá qua các yếu tố:
năng lực tài chính; năng lực công nghệ; nguồn nhân lực; năng lực quản trị điều hành; mạng
lưới hoạt động; mức độ đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh; …trong đó, năng lực tài chính và
năng lực công nghệ được xem là những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định năng lực
cạnh tranh của NHTM.
1.2. Mức độ cạnh tranh giữa các nhóm NHTM tại Việt Nam
Cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt, đặc biệt là kể từ khi 5 ngân
hàng nước ngoài (được phép hoạt động đầy đủ chức năng như một ngân hàng trong nước).
Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài này đã dẫn đến xu hướng cạnh tranh có sự thay
đổi giữa các ngân hàng về huy động vốn, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và kinh doanh ngoại
tệ.
Huy động vốn
Huy động vốn là đầu vào để ngân hàng có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, sản
xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Nguồn vốn ổn định giúp các ngân hàng có lợi thế trong
cạnh tranh hơn.
Chỉ số HHI về huy động vốn của các ngân hàng giảm dần qua các năm cho thấy mức
độ cạnh tranh ngày càng cao giữa các ngân hàng trong huy động vốn. Thị phần huy động
vốn của các Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) đã thu hẹp lại từ 49,4% trong
năm 2009 xuống còn 42,9% trong năm 2011. Tuy nhiên, thị phần huy động vốn của 8 Ngân
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) chủ lực chưa mở rộng đáng kể so với mức giảm của
các NHTMNN. Điều này ngụ ý rằng các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn cũng đã mở rộng thị
phần huy động vốn và như vậy mức độ cạnh tranh về huy động vốn ngày càng sôi động.
Do sản phẩm chưa đa dạng và thị trường tài chính còn sơ khai nên các ngân hàng
thường sử dụng công cụ giá – lãi suất huy động – lôi kéo khách hàng để ổn định nguồn tiền
gửi. Trước khi có quy định trần lãi suất huy động VND 14%, giữa năm 2011, một số ngân
hàng đã đẩy lãi suất huy động lên tới 18%, tuy nhiên, sau đó trần lãi suất huy động VND
được quy định để kéo lãi suất thị trường xuống mức hợp lý nhưng một số ngân hàng vẫn
cạnh tranh để thu hút khách hàng với mức lãi suất cao hơn mức trần quy định. Sự cạnh tranh
bất bình đẳng như thế đã có tác động không nhỏ đến sự dịch chuyển luồng tiền gửi của dân
cư giữa các ngân hàng. Kết quả là thị phần huy động vốn đã được phân phối lại rõ rệt.

4


Thị phần huy động của các NHTMNN bị thu hẹp dưới sự canh tranh khốc liệt của
các NHTMCP. Một số NHTMCP đã phát triển nhanh chóng mạng lưới huy động và có các
chính sách marketing hiệu quả để thúc đẩy thị phần huy động vốn tiệm cận với thị phần của
NHTMNN.
Tín dụng
Chỉ số HHI về tín dụng phản ánh không có sự độc quyền nhóm, thay vào đó là mức
độ cạnh tranh tăng lên giữa các ngân hàng. Các NHTMNN chiếm thị phần tín dụng cao nhờ
có mạng lưới rộng, phủ khắp các tỉnh kinh tế trọng điểm. Cho vay các dự án kinh tế trọng
điểm của Nhà nước hay có mối quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn kinh tế là những nhân tố
xác định sự khác biệt về thị phần tín dụng. Ngân hàng ACB, Sacombank và Eximbank là
những ngân hàng quy mô nhất của khối NHTMCP và mạng lưới phủ rộng nhưng thị phần
tín dụng chưa bằng một nửa thị phần của VCB – ngân hàng có mạng lưới ít nhất so với các
NHTMNN khác. Các NHTMCP không có nhiều lợi thế như vậy nên tín dụng tập trung
nhiều vào khách hàng là cá nhân, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Để mở rộng thị phần tín dụng, các NHTMNN thường cạnh tranh với nhau để lôi kéo
khách hàng là tổng công ty lớn của Nhà nước hay các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn,
trong khi các NHTMCP cạnh tranh để giành giật các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân
và ngân hàng bán lẻ. Với tình hình nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả
và nợ xấu tăng lên, các NHTMNN dần chuyển dịch nâng cơ cấu tín dụng của khu vực khách
hàng cá nhân, doanh nghiệp nhỏ, vừa để đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả, vừa mở
rộng cơ hội trên sân chơi khu vực ngân hàng bán lẻ.
Dịch vụ ngân hàng
Thị phần doanh thu thuần năm 2011 từ dịch vụ ngân hàng của Techcombank tương
đương với thị phần của Agribank và Vietinbank, trong khi thị phần của Sacombank và ACB
bám rất sát sau đó. Điều này thể hiện sự cạnh tranh quyết liệt của các ngân hàng trong lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ. Thu nhập thuần từ lĩnh vực dịch vụ ngân hàng tăng lên và đóng
góp tỷ trọng lớn đến tổng thu nhập thuần của ngân hàng sẽ là nền tảng phát triển bền vững

cho ngân hàng đó, đặc biệt là môi trường cạnh tranh gay gắt về huy động vốn và tín dụng
càng làm thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay, dẫn đến thu nhập thuần từ lãi
giảm xuống.
Trong mảng kinh doanh dịch vụ, ngân hàng nước ngoài thực sự là đối thủ cạnh tranh
của các ngân hàng trong nước. Thị phần doanh thu dịch vụ năm 2011 của ngân hàng HSBC
còn vượt qua nhiều NHTMCP như ACB, MB và Eximbank, mặc dù ngân hàng này không
có nhiều lợi thế về quy mô hoạt động như các ngân hàng trong nước. Hợp tác chiến lược
trong kinh doanh dịch vụ bán lẻ là một giải pháp được nhiều ngân hàng áp dụng nhằm hạn
chế sự lấn át của các ngân hàng có quy mô mạng lưới phủ rộng.
Các ngân hàng nhỏ với sự hợp tác trong dịch vụ bán lẻ không phải bỏ khối lượng vốn
lớn để đầu tư công nghệ hiện đại nhưng vẫn đem lại hiệu quả trong môi trường cạnh tranh
ngày càng lớn, nhất là trong bối cảnh doanh thu từ hoạt động tín dụng bị thu hẹp do chênh
lệch lãi giữa huy động và cho vay ngày càng bị thu hẹp.
5


Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Từ năm 2009-2011, chỉ số HHI đều thấp cho thấy mức độ cạnh tranh ngày càng gay
gắt trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ (KDNT).
Nếu ngoại trừ thị phần của VCB – ngân hàng giàu kinh nghiệm trong hoạt động
KDNT và có nguồn vốn tiền đồng phong phú hỗ trợ – thì thị phần doanh thu thuần từ
KDNT của các ngân hàng nước ngoài chiếm ưu thế hơn hai NHTMNN khác là Vietinbank
và BIDV. 3 NHTMNN chỉ chiếm khoảng 20% tổng thu nhập thuần KDNT của toàn hệ
thống và 7 Ngân hàng nước ngoài chiếm tới 36 - 40% toàn hệ thống, nhưng tổng tài sản
ngoại tệ của 3 ngân hàng này vượt 1,7 lần tổng tài sản ngoại tệ của 7 ngân hàng nước ngoài.
Như vậy, khối ngân hàng nước ngoài thể hiện thế mạnh, sự linh hoạt và hiệu quả cao trong
hoạt động KDNT (ngân hàng nước ngoài có một phần hỗ trợ nguồn vốn ngoại tệ của ngân
hàng mẹ hay của các chi nhánh hoạt động tại các nước khác nhau). Nếu tính đến các yếu tố
lợi thế vốn và mạng lưới của các NHTMNN thì hiệu suất KDNT của các ngân hàng nước
ngoài còn cao hơn nhiều.

Xu hướng M&A giữa các tổ chức tài chính
Mức độ cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng về huy động vốn, tín dụng, dịch vụ
ngân hàng và KDNT đã tạo ra làn sóng các ngân hàng tìm kiếm đối tác M&A nhằm củng cố
thị phần và gia tăng quyền lực trên thị trường. Theo lô-gic thì các ngân hàng lớn sẽ thôn tín
dần các ngân hàng nhỏ để tạo ra lợi thế cộng sinh. Nếu không có mục tiêu chiến lược M&A
các ngân hàng sẽ linh hoạt sử dụng mọi hình thức cạnh tranh để giành giật khách hàng và
củng cố thị phần trên mọi mảng hoạt động. Tại Việt Nam đã có những dấu hiệu M&A các
ngân hàng theo nhiều hướng.
Vietcombank đã tìm được đối tác chiến lược, ngân hàng Mizuho của Nhật, để bán
15% cổ phần, tương đương giá bán là 576 triệu USD, nhằm nâng cao năng lực tài chính và
tạo ra những bước đột phá trong quản trị điều hành và quản trị rủi ro. Trong chiến lược củng
cố thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh theo phương thức này cũng có Vietinbank đồng
hành. Vietinbank đang xúc tiến tìm đối tác chiến lược để bán 15% cổ phần.
Không giống như Vietcombank và Vietinbank, các NHTMCP âm thầm thực hiện
chiến lược M&A để thực hiện mục tiêu gia tăng thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Việc thâu tóm NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB) của NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) đã
được NHNN chấp nhận là mục tiêu của SHB nhằm tăng quy mô vốn điều lệ và tổng tài sản.
Nếu thị phần riêng lẻ về huy động vốn của HBB và SHB năm 2011 tương ứng là 0,8% và
1,7% thì lợi ích cộng sinh từ hoạt động M&A sẽ giúp ngân hàng SHB sau sáp nhập có thị
phần huy động vốn lớn hơn 2,5% vào cuối năm 2012 (có thể sẽ vượt qua thị phần của nhiều
ngân hàng trong nhóm G12). Tương tự, thị phần tín dụng sau sáp nhập của 2 ngân hàng này
có thể vượt qua ít nhất 3 ngân hàng trong nhóm G12. Tính đến cuối năm 2011, thị phần tín
dụng của SHB là 1,2% và HBB là 0,7%. Hoạt động M&A của SHB không chỉ giúp ngân
hàng này mở rộng mạng lưới khách hàng và mạng lưới giao dịch có sẵn của HBB mà còn
giúp SHB sau sáp nhập vươn lên trên nhiều ngân hàng trong nhóm G12 với lợi thế về vốn

6


chủ sở hữu, tổng tài sản, năng lực tài chính đồng thời tạo ra được quyền lực cạnh tranh cao

hơn.
Nếu hoạt động M&A của SHB nhằm củng cố thị phần và vượt qua một số ngân hàng
phía dưới trong nhóm G12 thì hoạt động M&A của một vài ngân hàng trong nhóm G12 sẽ
cho chúng ta thấy rõ mục tiêu của họ. Mặc dù chưa chính thức xác nhận nhưng việc các
thành viên cao cấp từ ngân hàng Eximbank và NHTMCP Phương Nam đứng trong Hội
đồng quản trị của Sacombank cho thấy xu hướng sáp nhập hoặc hợp tác chiến lược giữa các
ngân hàng này. Thị phần huy động riêng lẻ của 3 ngân hàng này còn quá nhỏ so với thị phần
của các NHTMNN nhưng nếu 3 ngân hàng sáp nhập thì thị phần huy động và tín dụng tại
thời điểm năm 2011 tương đương với thị phần của VCB, trong khi thị phần doanh thu dịch
vụ ngân hàng chiếm khoảng 10,6%, vượt qua cả 3 trong 4 NHTMNN – VCB, Vietinbank và
Agribank.
Các ngân hàng lớn muốn bảo vệ thị phần và gia tăng quyền lực thị trường thông qua
hoạt động M&A, trong khi các ngân hàng có quy mô vừa thì muốn gia tăng thị phần thông
qua biện pháp cơ học là hiệu quả nhất. Các NHTMCP cố gắng tìm các ngân hàng nhỏ hơn
hoặc các ngân hàng có cùng mục đích, chiến lược để tiến hành thực hiện M&A giúp tăng
khả năng cạnh tranh và tiến độ cấu trúc ngân hàng được đẩy nhanh.
1.3. Nhận định về tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng TMCP tại Việt
Nam
Hầu hết các NHTM hiện nay đều xây dựng khá đầy đủ các nhóm sản phẩm dịch vụ
riêng dành cho doanh nghiệp và cá nhân. Tuy nhiên vẫn chưa có sự khác biệt giữa các sản
phẩm dịch vụ này, để có thể tạo nên lợi thế cạnh tranh cho từng NHTMCP.
Trong bối cảnh kinh tế cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng trong nước trên “thị
trường bán lẻ”. Dân số đông trên 86 triệu người, trong đó, dân số trẻ dưới 33 tuổi – nhóm
khách hàng thường xuyên thay đổi hành vi mua sắm – chiếm trên 60% chính là cơ sở để các
Ngân hàng nước ngoài cũng như trong nước tập trung khai thác cho các dịch vụ tín dụng
của mình trong thời gian qua. Cũng theo các chuyên gia thì, điểm yếu sẽ bộc lộ rõ nhất
trong cuộc cạnh tranh vừa qua và sắp tới của các ngân hàng trong nước chính là nhân lực.
“Giao tiếp niềm nở, trẻ trung là yếu tố rất quan trọng đối với Ngân hàng nước ngoài khi
tuyển dụng nhân sự. Nhưng nhiều ngân hàng trong nước chưa chú trọng đến yếu tố này,
khiến khách hàng cảm thấy mình không được đối đãi như “thượng đế” và một đi không trở

lại.
Tình hình chung của nhiều ngân hàng hiện này là nhân sự cấp cao thì chưa cao, nhân
sự có liên hệ trực tiếp với khách hàng thì chưa biết làm thế nào để giữ khách hàng, thậm chí
thiếu cả kiến thức nền… Nhận thức được thực trạng đó, lãnh đạo một số Ngân hàng như
ACB, Techcombank, Maritime Bank, MB… đã chú trọng đào tạo lực lượng nhân viên có
thể cạnh tranh được với ngân hàng nước ngoài.
Việc các ngân hàng xây dựng cho mình những “vũ khí cạnh tranh bí mật” đó chính là
việc “xây dựng văn hóa kinh doanh” và lấy đó làm nền tảng để xây dựng, đầu tư chiều sâu
ngay từ ban đầu cho đội ngũ nhân sự các cấp. Nếu các ngân hàng là một cỗ máy, thì cỗ máy
7


chỉ hoạt động hiệu quả và tăng trưởng bền vững nếu có hệ thống nhân lực phù hợp nên các
ngân hàng cần chú trọng tuyển chọn, đào tạo đúng người, đúng việc và thực hiện chăm lo
đời sống tinh thần, vật chất cho nhân viên như một “nghiệp vụ bắt buộc” trong quy trình vận
hành hệ thống”.
Sản phẩm chuyên biệt của Ngân hàng rất nhanh chóng bị bắt chước, do đó “sản phẩm
chuyên biệt” để tạo ra “sự khác biệt” rất khó duy trì lâu, hoặc "sự khác biệt" đó nếu có cũng
không đủ lớn để đảm bảo cạnh tranh. Thế nhưng những khách hàng nào đã đến giao dịch
với cán bộ nhân viên NHTMCP Quân Đội (MB) sẽ dễ dàng cảm nhận được sự chuyên
nghiệp, tận tụy, khác biệt và đơn giản bởi một tinh thần làm việc, lao động tập thể mang tính
kỷ luật cao của chính những nhân viên MB đã mang lại sự khác biệt ấy chứ không phải hệ
thống sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Một ngân hàng khác, NHTMCP Hàng Hải
(Maritime Bank) khi đến giao dịch, khách hàng sẽ dễ dàng nhận thấy sự thay đổi ở tất cả
các Chi nhánh, Phòng giao dịch của Maritime Bank chính bởi Maritime Bank đã và đang
thay đổi lại mô hình kinh doanh tạo nên sự khác biệt trong chính tác phong giao dịch của
các nhân viên.
Trên thực tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, do sức ép cạnh tranh
giữa các tổ chức tài chính ngày càng lớn, yêu cầu đòi hỏi của người sử dụng cũng ngày càng
cao nên các dịch vụ ngân hàng cũng không ngừng được cải tiến theo hướng hiện đại, minh

bạch. Đây là nền tảng quan trọng để các NHTMCP ở Việt Nam nâng cao chất lượng dịch
vụ, đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng và tiết kiệm chi phí cho ngân hàng.
Hiện nay, các ngân hàng thường thuê tư vấn nước ngoài để xây dựng chiến lược kinh
doanh. Tuy nhiên, bên cạnh việc xây dựng chiến lược và thiết lập một mô hình kinh doanh
chuẩn, hiện đại, phù hợp xu hướng hội nhập, cũng cần chú trọng chiến lược quản lý nguồn
nhân lực. Doanh nghiệp có mô hình hiện đại, dịch vụ tốt, hạ tầng vững chắc…, nhưng thiếu
nguồn nhân lực tốt thì khó phát triển nhanh, bền vững, khó tạo ra lợi thế cạnh tranh. Mặt
khác cần gắn kết chiến lược phát triển nguồn nhân lực với những mục tiêu chung của doanh
nghiệp, vì chính con người mới tạo ra sự khác biệt cho doanh nghiệp và tạo ra lợi thế cạnh
tranh.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, khi nền tảng của kinh doanh được xây
dựng trên quan hệ “cùng chiến thắng”, mỗi nhân viên sẽ biết tự nâng mình lên cho kịp với
yêu cầu và sự phát triển của tổ chức. Ở từng giai đoạn phát triển, mỗi nhà băng lại có những
hoạch định và chiến lược riêng. Vấn đề của các ngân hàng trong giai đoạn tới là quản trị
doanh nghiệp để điều hành chuyên nghiệp.
2.

Phân tích năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
2.1.
Năng lực tài chính
Đối với mỗi ngân hàng thì năng lực tài chính là yếu tố quan trọng để quyết định khả
năng cạnh tranh. Bên cạnh những năng lực khác có thể xem xét về khả năng cạnh tranh của
một ngân hàng như: nguồn nhân lực, chất lượng phục vụ khách hàng, sản phẩm dịch vụ,
mạng lưới phân phối, sự tiện ích, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin…thì năng lực tài
8


chính được xem là nhân tố quyết định. Bởi vì nếu như một ngân hàng muốn mở rộng mạng
lưới kênh phân phối của mình, muốn dẫn đầu công nghệ hiện đại hoặc muốn có một đội ngũ
nhân viên lành nghề…thì họ cần phải có năng lực tài chính để thực hiện tất cả điều đó.

Năng lực tài chính của NHTM không chỉ là nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh của NHTM mà còn là khả năng khai thác, quản lý và sử dụng các nguồn
lực đó phục vụ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh. Nguồn lực tài chính không chỉ thể hiện
ở số vốn (vốn được cấp, vốn điều lệ) mà còn cả tiềm lực kinh tế trong tương lai. Khả năng
khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn lực chúng ta sẽ tìm hiểu trong công tác quản lý và bộ
máy điều hành của ngân hàng ở những phần sau.Sau đây chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu về
nguồn lực tài chính của hai ngân hàng thương mại cổ phần cụ thể là NHTMCP Á Châu và
NHTMCP Kỹ thương. Năng lực tài chính thường được đánh giá qua 2 góc độ: qui mô về
vốn (yếu tố số lượng) và tỷ lệ an toàn vốn (yếu tố chất lượng).
2.1.1 Qui mô về vốn
Vốn tự có
Vốn tự có cơ bản bao gồm vốn điều lệ (vốn ngân sách cấp, vốn cổ phần thường, vốn
cổ phần ưu đãi vĩnh viễn), quỹ dự trữ, dự phòng, lợi nhuận không chia và các khoản khác
(các tài sản nợ khác theo qui định của NHNN).
Vốn tự có bổ sung bao gồm vốn cổ phần ưu đãi có thời hạn, tín phiếu vốn, trái phiếu
chuyển đổi. Theo quy định của các cơ quan quản lý ngân hàng, thì vốn tự có bổ sung không
được vượt qúa 50% vốn tự có cơ bản (Mỹ và Pháp). Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín
dụng, vốn tự có bao gồm phần giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài
sản nợ khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Đặc điểm của vốn tự có
Vốn tự có là nguồn vốn ổn định và luôn tăng trưởng trong qúa trình hoạt động của
ngân hàng.
Vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh
(thông thường từ 8% đến 10%), tuy nhiên nó lại giữ một vai trò rất quan trọng vì nó là cơ sở
để hình thành nên các nguồn vốn khác của ngân hàng đồng thời tạo nên uy tín ban đầu của
ngân hàng.
Vốn tự có quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, cụ thể vốn tự có là cơ sở để
xác định giới hạn huy động vốn của ngân hàng. Nó còn là yếu tố để các cơ quan quản lý dựa
vào để xác định các tỷ lệ an toàn trong kinh doanh ngân hàng (theo Pháp lệnh ngân hàng
năm 1990 thì một ngân hàng không được phép huy động vốn qúa 20 lần so với vốn tự có vì

nó ảnh hưởng đến năng lực chi trả của ngân hàng).
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam, một ngân hàng khi cho vay đối với một
khách hàng thì tổng dư nợ cho vay cao nhất không được phép vượt qúa 15% vốn tự có của
ngân hàng.
Chức năng của vốn tự có
Chức năng bảo vệ

9


Trong hoạt đông kinh doanh có rất nhiều rủi ro, những rủi ro này khi xảy ra sẽ gây ra
những thiệt hại lớn cho ngân hàng, đôi khi nó có thể dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản.Khi đó
vốn tự có sẽ giúp ngân hàng bù đắp được thiệt hại và đảm bảo cho ngân hàng tránh khỏi
nguy cơ phá sản.
Trong một số trường hợp ngân hàng mất khả năng chi trả thì vốn tự có sẽ được sử
dụng để hoàn trả cho khách hàng. Vốn tự có còn có chức năng bảo vệ cho khách hàng
không bị mất vốn khi gửi tiền tại ngân hàng.
Chức năng hoạt động
Vốn tự có có thể được sử dụng để cho vay, hùn vốn hoặc đầu tư chứng khoán nhằm
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, do vốn tự có chiếm tỷ trọng không lớn trong
tổng nguồn vốn kinh doanh nên lợi nhuận mà nó mang lại cũng không cao.Vì vậy chức
năng hoạt động ở đây cũng chỉ là thứ yếu.
Chức năng điều chỉnh
Vốn tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý ngân hàng thường hướng vào đó để
ban hành những quy định nhằm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để
xác định tính an toàn (ví dụ như các ngân hàng không được đầu tư vào tài sản cố định vượt
qúa 50% vốn của ngân hàng). Vốn tự có còn là căn cứ để xác định và điều chỉnh các giới
hạn hoạt động nhằm đảm bảo ngân hàng an toàn trong kinh doanh.
Vốn điều lệ cao, ngân hàng tạo được uy tín trên thị trường, lòng tin nơi công
chúng.Vốn tự có thấp đồng nghĩa với sức mạnh tài chính yếu và khả năng chống đỡ rủi ro

trong kinh doanh kém. Đó là điều kiện đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng.
Trong làn sóng cạnh tranh gây gắt, các NHTMCP không chỉ cạnh tranh với những
ngân hàng trong nước mà còn với những ngân hàng mạnh của nước ngoài đang hoạt động ở
Việt Nam. Trong nhóm ngân hàng thương mại nhà nước thì ngân hàng Vietcombank đứng
đầu với vốn điều lệ: 23,174 tỷ đồng; tiếp đó là Agribank với: 20,708 tỷ đồng; Vietinbank:
20,230 tỷ đồng. Nhóm ngân hàng liên doanh, đứng đầu là Việt Nga: 168,5 triệu USD vốn
điều lệ, tiếp đó là ngân hàng Indovina: 165 triệu USD, VID PublicBank: 62,5 triệu USD,
Việt Thái: 61 triệu USD, nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài được đánh giá là có năng
lực kinh tế rất mạnh như: HSBC, Standard Chatered…trong khi đó nhóm các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam vốn điều lệ chỉ từ 3000 – 12,355 tỷ (đứng đầu là Eximbank
12,355 tỷ đồng). Áp lực cạnh tranh đối với các NHTMCP là rất lớn nếu họ không còn ưu
thế về qui mô vốn thì họ phải tìm cách nâng cao năng lực hoạt động.
Trong sự cạnh tranh gay gắt này đòi hỏi mỗi ngân hàng phải tự nâng cao năng lực
của mình bắng cách bổ sung thêm vốn. Một áp lực đối với các ngân hàng nhỏ không đủ sức
cạnh tranh đòi buộc họ phải sáp nhập vởi các ngân hàng khác, đặc biệt những ngân hàng
niêm yết dễ có nguy cơ bị thâu tóm. Không chỉ ngân hàng nhỏ tìm cách nâng vốn điều lệ do
lo ngại bị thâu tóm và muốn nâng cao hiệu quả hoạt động, mà các ngân hàng lớn cũng tìm
cách tăng vốn để giành ưu thế trong quá trình đàm phán nếu có xảy ra mua bán, sáp nhập.
Với các ngân hàng, đồng vốn tự có càng lớn thì khả năng huy động, hạn mức tín dụng cho
vay được cấp càng cao. Do đó, các ngân hàng luôn tìm mọi cách để tăng vốn điều lệ để củng
cố nội lực, mở rộng khả năng cho vay hoặc có thể xuất phát từ vấn đề nợ xấu và lo ngại bị
10


mất vốn.Tuy nhiên, lãnh đạo các ngân hàng thừa nhận vốn sở hữu càng nhiều thì càng phải
chịu áp lực lớn từ cổ đông.Theo một chuyên gia, vì áp lực đó mà những năm trước các ngân
hàng dễ dàng nâng vốn nhưng cũng dễ dàng dùng đồng vốn đó cho vay vì áp lực lợi nhuận
và hậu quả là tăng trưởng nóng, nợ xấu cao. Như vậy, việc tăng vốn điều lệ bản thân của nó
cũng đã đem lại áp lực mới cho ngân hàng, áp lực lớn về lợi nhuận từ cổ đông và nhà đầu

tư, áp lực từ việc sử dụng vốn, nếu đồng vốn huy động không được sử dụng hiệu quả. Trong
tình hình khó khăn hiện nay, nợ xấu từ bất động sản là khá cao, nhiều doanh nghiệp bị phá
sản (theo các chuyên gia nước ngoài thì Việt Nam tính đến tháng 3/2012 đã có tới 30%
doanh nghiệp Việt Nam phá sản), việc cho vay những doanh nghiệp tốt, có khả năng chi trả
cho ngân hàng hiện không có nhiều.
Để gia tăng vốn ngân hàng có thể thực hiện qua những cách thức: bổ sung vốn từ lợi
nhuận giữ lại và các quỹ, phát hành cổ phiếu, kêu gọi vốn góp, thực hiện mua bán sáp nhập.
Tăng qui mô vốn từ lợi nhuận giữ lại
Đây được xem là cách thức tăng trưởng bền vững nhất vì đó có thể hiểu rằng đó là
nguồn tiền từ hoạt động kinh doanh có lãi của ngân hàng. Và người ta thường nhìn vào
doanh thu, lợi nhuận để đánh giá khả năng tài chính của một ngân hàng. Chủ yếu do tăng lợi
nhuận giữ lại.
Đây là lợi nhuận ngân hàng đạt được trong năm, nhưng không chia cho các cổ đông
mà giữ lại để tăng vốn.
Ưu điểm: Không tốn kém chi phí, không làm loãng quyền kiểm soát ngân hàng và
không phải hoàn trả. Phương pháp này giúp ngân hàng không phụ thuộc vào thị trường vốn
nên tránh được chi phí huy động vốn.
Hạn chế: Chỉ áp dụng với các ngân hàng lớn, làm ăn có lãi liên tục và đều đặn. Hình
thức này không thể áp dụng thường xuyên vì nó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông.
Phương pháp này phụ thuộc vào:
• Chính sách cổ tức của ngân hàng: chính sách này cho biết ngân hàng cần phải giữ lại
bao nhiêu thu nhập để tăng vốn phục vụ cho mở rộng kinh doanh và bao nhiêu thu nhập sẽ
được chia cho các cổ đông.Tỷ lệ thu nhập giữ lại quá thấp sẽ làm cho mức tăng trưởng vốn
ngân hàng sẽ chậm, dẫn đến giảm khả năng mở rộng tài sản sinh lời, tăng rủi ro phá sản.
Ngược lại, nếu tỷ lệ thu nhập giữ lại quá lớn sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông dẫn đến thị
giá cổ phiếu của ngân hàng bị giảm.
• Tốc độ tăng vốn từ nguồn nội bộ - một tỷ lệ tăng trưởng vốn từ nguồn nội bộ lý
tưởng phải đáp ứng cả hai yêu cầu: một là, ngân hàng tăng trưởng được tài sản có (đặc biệt
là các khoản cho vay); hai là, không làm suy giảm quá mức tỷ số vốn/tài sản của ngân
hàng.

Tuy nhiên việc tăng vốn điều lệ chỉ trông chờ vào nguồn lợi nhuận giữ lại trong bối
cảnh kinh tế khó khăn hiện nay là rất khó đối với các ngân hàng. Mức lạm phát cao, người
dân không muốn gửi tiền vào ngân hàng, họ giữ tiền ở những kênh an toàn hơn. Nghiệp vụ
nhận tiền gửi giảm (đây là nghiệp vụ truyền thống và là nguồn cung cấp chính của ngân
hàng), mà đầu ra là các nghiệp vụ cho vay cũng giảm do các doanh nghiệp phá sản, doanh
nghiệp không có nhu cầu vốn hoặc có nhưng không thể tiếp cận được nguồn vốn do không
11


chịu nổi mức lãi suất. Khó khăn của các doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
ngân hàng các ngân hàng. Bên cạnh đó, tình trạng nợ xấu, một số khoản nợ không thể thu
hồi được, đã làm suy giảm lợi nhuận và sự mất vốn rất dễ xảy ra.

Tình hình cạnh tranh về năng lực tài chính giữa 2 ngân hàng: NHTMCP Á Châu
(ACB) và NHTMCP Kỹ Thương (Techcombank)
Năm 2011, ACB cũng vừa thông qua tăng vốn lên từ 9.377 tỷ đồng lên 12.377 tỷ
đồng từ lợi nhuận chưa phân phối, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và từ việc chào bán cổ
phiếu ra công chúng. Nguồn tiền dùng để tăng vốn: 7.07% lợi nhuận chưa phân phối, quỹ
dự phòng bổ sung vốn điều lệ: 2.93%, chào bán ra công chúng: 20% (theo tờ trình tăng vốn
điều lệ của ACB)
Đối với Techcombank, tăng vốn điều lệ thêm 60 tỷ đồng, từ 8,788.07871 tỷ đồng lên
8,848.07871 tỷ đồng. Sử dụng 60 tỷ đồng từ nguồn lợi nhuận còn lại hoặc nguồn hợp lệ
khác phù hợp qui định pháp luật, để tăng vốn điều lệ dưới hình thức phát hành thêm
6.000.000 cổ phần.
Tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu thường
Ưu điểm: Không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ phiếu thường
không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm làm ăn thua lỗ.
Phương pháp này làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng khả năng vay nợ của ngân hàng
trong tương lai.

Nhược điểm: Chi phí cao và có thể làm loãng quyền sở hữu ngân hàng (Dulution),
giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu (Earning per share), làm giảm tỷ lệ đòn bẩy tài chính mà
ngân hàng có thể tận dụng.
Thông thường, các ngân hàng tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu hoặc chia
cổ tức bằng cổ phiếu. Nhưng trong năm 2012, tình hình kinh tế khó khăn cộng thêm sự ảm
đạm của thị trường chứng khoán, rất khó để thuyết phục cổ đông hiện hữu mua thêm cổ
phiếu hay chào bán ra công chúng thành công.
Thêm vào đó sau vụ việc Nguyễn Đức Kiên và Lý Xuân Hải bị bắt đã ảnh hưởng
không nhỏ đến giá cổ phiếu của ACB. Cổ đông của các cổ phiếu ACB, EIB, STB đã mất
khoảng 14000 tỷ đồng. so với phiên ngay trước khi bầu Kiên bị bắt, cổ phiếu ACB đã giảm
6.000 đồng/CP, tương ứng 23,2%. Vốn hóa thị trường của ACB chỉ còn 18.565,86, giảm
5.626 tỷ đồng so với phiên ngay trước khi bầu Kiên bị bắt, cổ phiếu EIB đã giảm 4.700
đồng/CP, tương ứng 22,6%. so với phiên ngay trước khi bầu Kiên bị bắt, cổ phiếu STB
giảm 2.800 đồng/CP, tương ứng 12,3%.
Thị trường chứng khoán được ví như phong vũ biểu của nền kinh tế, nó rất nhạy cảm
với thông tin và những thông tin như thế này. Hơn thế nữa ở Việt Nam việc đầu tư lướt
ván, đầu tư theo tâm lý đám đông vẫn còn phổ biến nên việc dùng kênh này để huy động
12


vốn cần được các ngân hàng thận trọng xem xét. Bởi vì trong làn sóng mua bán, sáp nhập,
nếu khả năng tài chính của ngân hàng yếu thì những ngân hàng niêm yết cần nên lo ngại bị
thâu tóm, thôn tính.Thêm vào đó, các ngân hàng có vốn chủ sở hữu cao sẽ phải chịu áp lực
và phụ thuộc lớn vào các cổ đông.
Phát hành cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn
Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm soát ngân
hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong những
năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu.
Phát hành giấy nợ thứ cấp (thời hạn tối thiểu 7 năm)

Ưu điểm: Chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân hàng. Đây
là phương pháp hiệu qủa vì trái phiếu này được các nhà đầu tư ưa chuộng trên thị trường.
Nhược điểm: Phải hoàn trả cho người mua trái phiếu khi đến hạn, lãi trả cho trái
phiếu là gánh nặng cho ngân hàng về tài chính.
Kêu gọi vốn góp trực tiếp
Ngoài biện pháp phát hành cổ phiếu để tăng vốn, các ngân hàng còn có thể kêu gọi
góp vốn, hợp tác liên kết với các ngân hàng khác, các chủ thể khác. HSBC là cổ đông chiến
lược của Techcombank, ACB liên kết và có cổ phần ở Eximbank, Sacombank. Tuy nhiên
vấn đề cần quan tâm là việc hợp tác phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, đôi bên cùng có
lợi. Nhưng vấn đề là các ngân hàng có thể bình đẳng hợp tác với nhau không khi mà họ đã
không bình đẳng về năng lực. Các tập đoàn kinh tế mạnh có thể dể dàng thôn tính với danh
nghĩa là hợp tác. Gần đây, việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng được xem là vấn đề đáng lo
ngại. Bản thân việc sở hữu chéo vốn dĩ là không vi phạm pháp luật, như trước đây việc sở
hữu chéo chủ yếu là các ngân hàng quốc doanh như Vietcombank, Vietinbank...tham gia
vào các tổ chức tín dụng khác với tư cách là cổ đông Nhà nước với mục đích giúp Nhà nước
kiểm soát hoạt động của các ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, xu hướng sở hữu chéo cổ phần
ngân hàng hiện nay đang khiến nhiều người cảm thấy lo ngại. Dường như trong hệ thống
ngân hàng đang hình thành những liên minh đan xen về lợi ích chằng chịt. Một ông chủ nắm
cổ phần đồng thời ở nhiều ngân hàng, ở nhiều công ty, tập đoàn... Các ngân hàng này lại
nắm cổ phần của nhau. Các công ty con, công ty liên kết, các tập đoàn lại nắm cổ phần của
các ngân hàng...
Việc sở hữu chéo chằng chịt này khiến cho nhiều đại gia có thể dễ dàng lách luật để
sở hữu tỷ lệ cổ phần tại các ngân hàng lớn hơn quy định (Luật các tổ chức tín dụng năm
2010 quy định một cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5% và một tổ chức không quá
15% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng). Khi tái cơ cấu, tình trạng sở hữu chéo sẽ khiến cho
việc xác định tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của từng ngân hàng để hợp nhất,
sáp nhập trở nên rất khó khăn. Việc xử lý không khéo có thể sẽ dẫn tới sự đổ vỡ hàng loạt.

13



Tăng vốn bằng cách mua bán, sáp nhập
Chẳng ngân hàng yếu nào muốn mình bị thâu tóm sau khi đã bỏ ra chi phí khá lớn để
thành lập ngân hàng, xây dựng mạng lưới, song áp lực sáp nhập đang đặt ra ngày càng gay
gắt. Đây là biện pháp khi mà các biện pháp khác không còn hiệu quả và để đảm bảo hoạt
động của toàn hệ thống ngân hàng diễn ra bình thường, không gây ảnh hưởng đến nền kinh
tế thì buộc các ngân hàng yếu, hoạt động kém hiệu quả sáp nhập với các ngân hàng khác dù
muốn hay không. Tuy nhiên quá trình đàm phán để đưa ra quyết định thống nhất thật mất
thời gian và chi phí.
Bảng dự kiến và kế hoạnh thực hiện sau khi tăng vốn điều lệ của Á Châu và
Techcombank
( Nguồn: bảng trích dự kiến và kế hoạnh thực hiện sau khi tăng vốn điều lệ của Á
Châu và Techcombank)
Đơn vị tính: Tỷ đồng; %
Á Châu
Stt

Chỉ tiêu

1
4

Tổng tài sản
Dư nợ cho vay khách hàng
(bao gồm trái phiếu DN)
Tỷ lệ nợ xấu
Lợi nhuận trước thuế
Tỷ lệ ROE
Tỷ lệ ROA
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR)

Tỷ lệ khả năng chi trả ngay

5
6
7
9
10
11

Techcombank
Năm 2011 KH 2012

Năm 2011 KH 2012

180.531
83.600

223.421
97.452

281.019
102.809

2,83%
4.221
28,87%
1,83%
11,43%
20,73%


2.66%
5.300
27,33%
1,92%
11,35%
>16%

0.85%
4203
5500
27.5%
31.8%
1.32%
1.25%
9.24%10.4%
22,8%
>15%

379.376
120.287

2.1.2 Tỷ lệ an toàn vốn
Nếu xét quy mô vốn là tiêu chuẩn về số lượng thì tỷ lệ an toàn vốn là tiêu chuẩn về
chất lượng để đánh giá năng lực tài chính của một ngân hàng. Nhà quản trị luôn quan tâm
đến lợi nhuận trên vốn đầu tư của các cổ đông trong kinh doanh, họ thường muốn giảm đến
mức thấp nhất tỷ lệ vốn so với tài sản. Ngược lại nhà chức trách luôn tìm cách duy trì tỷ lệ
vốn tương đối cao, do quan tâm đến sự ổn định của hệ thống và ngăn ngừa sự sụp đổ ngân
hàng.
Theo yêu cầu của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) và chuẩn mực an toàn hoạt
động ngân hàng của Ủy ban Basel, tỷ lệ an toàn vốn được đánh giá qua hệ số CAR (Capital

Adequacy Ratio).
Luật 2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn mà tổ chức tín dụng (TCTD) phải
duy trì, bao gồm: tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (8% hoặc cao hơn, theo
Thông tư 13 là 9%), tỷ lệ tối đa của vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Các tỷ lệ bảo đảm
14


an toàn mới được bổ sung gồm: trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa so với vốn tự có; tỷ lệ dư nợ
cho vay so với tổng tiền gửi và các tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn so với tổng dư nợ cho vay
trung, dài hạn. NHNN sẽ quy định cụ thể các tỷ lệ bảo đảm an toàn nói trên đối với từng
loại hình TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, Luật 2010 còn bổ sung quy
định NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng
quốc gia phải nắm giữ số lượng tối thiểu giấy tờ có giá được phép cầm cố tại NHNN theo
quy định của NHNN trong từng thời kỳ.
Luật 2010 cũng quy định rõ tổng số vốn của một TCTD đầu tư vào TCTD khác,
công ty con của TCTD dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần và các khoản đầu tư dưới hình
thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán phải trừ khỏi vốn tự có khi tính các tỷ lệ an
toàn.
Theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày
19/04/2005, vốn cấp I gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ và lợi nhuận không
chia. Vốn cấp II gồm 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được đánh giá lại theo
quy định của pháp luật, 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả
cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật, trái phiếu chuyển
đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành; các công cụ nợ và dự phòng chung.
Tăng quy mô vốn cấp I và tăng tỷ lệ an toàn vốn.
Muốn tăng tỷ lệ an toàn vốn thì hoặc là tăng tử số (nghĩa là tăng vốn tự có hoặc là
giảm tài sản có đã điều chỉnh rủi ro).
Trong hai hướng này, về mặt kỹ thuật và kinh tế, tăng vốn tự có dễ thực hiện hơn

giảm các tài sản có đã điều chỉnh rủi ro vì các khoản mục trong nhóm tài sản có đều liên
quan đến hoạt động ngân hàng, giảm các khoản này sẽ giảm lợi nhuận hoặc giảm phạm vi
hoạt động của ngân hàng.
Để tăng vốn tự có cần: mạnh dạn tiến hành sáp nhập các NHTM cổ phần vốn ít, hoạt
động riêng lẻ vào các ngân hàng lớn nhằm tập trung vốn, giảm phân tán manh mún khách
hàng, giảm rủi ro, đồng thời tạo ra được một đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng hoạt động
chuyên nghiệp hơn.
2.2. Năng lực cạnh tranh về hoạt động
Một ngân hàng có một năng lực tài chính vững mạnh sẽ là một bước đệm rất tốt cho
ngân hàng đó vì trong hoạt động ngân hàng thì ngân hàng có quy mô vốn lớn đem lại cho
người dân một lòng tin nhất định về sự ổn định của ngân hàng. Tuy nhiên, một ngân hàng
muốn tồn tại bền vững thì điều quan trọng nhất là phải đẩy mạnh năng lực hoat động. Một
ngân hàng tốt chắc chắn phải là một ngân hàng có năng lực hoạt động tốt, vì thông qua năng
lực hoạt động ngân hàng có thể điều tiết nguồn vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế và
tạo ra lợi nhuận cho chính ngân hàng. Năng lực hoạt động của ngân hàng được thể hiện
thông qua: hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng (hoạt động cho vay), hoạt động đầu
tư và các dịch vụ khác của ngân hàng.
15


2.2.1 Hoạt động huy động vốn
Khái niệm
Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại là hoạt động mà trong đó các
ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm mục đích kinh doanh
và đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định pháp
luật.
Tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn của ngân hàng
Huy động vốn là một nghiệp vụ không thể thiếu trong hoạt động của ngân hàng
thương mại. Đây là nghiệp vụ tạo vốn cho hầu hết các hoạt động của ngân hàng. Khi thành
lập ngân hàng đã có vốn ban đầu nhưng số vốn này đã ở dạng vật chất như trụ sở, công cụ,

dụng cụ,…Vì vậy, để đảm bảo chức năng cung cấp vốn cho nền kinh tế ngân hàng phải thu
hút vốn từ bên ngoài.
Đã từ lâu các ngân hàng thương mại đã biết khai thác nguồn vốn này. Do đây là
nguồn vốn huy động chủ yếu nên thu hút càng nhiều vốn thì NHTM càng có khả năng đạt
lợi nhuận cao hơn vì có vốn mạnh thì ngân hàng dễ dàng đẩy mạnh nghiệp vụ cho vay và
mở rộng thêm các hoạt động sinh lời khác. Bên cạnh đó, nghiệp vụ huy động còn là một
thước đo đánh giá khách quan độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng, giúp cho
khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng và dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh
hoặc tiêu dùng.
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Tiền gửi của khách hàng
• Tiền gửi của tổ chức kinh tế
Bao gồm: tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhưng khách
hàng cơ thể rút bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đảm bảo yêu cầu này.
Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và hướng đến các
dịch vụ ngân hàng, tạo mối quan hệ với ngân hàng. Tỷ trọng gửi tiền không kỳ hạn của tổ
chức kinh tế trong tổng nguồn vốn của ngân hàng cao và nguồn vốn này có tính ổn định
tương đối cao vì bao giờ các tổ chức kinh tế cũng duy trì ít nhất một số dư nhất định. Đối
với nguồn vốn này ngân hàng chỉ phải trả lãi thấp nhưng chi phí lãi rất cao. Đó là chi phí
mua và vận hành ATM, chi phí phục vụ…
Tiền gửi có kỳ hạn: là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng mà có sự thỏa thuận
về thời hạn trong đó khách hàng không được rút trước hạn.
Đây là nguồn vốn mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích sinh lời là chủ yếu
và ngân hàng phải trả lãi cao hơn tiền gửi không kỳ hạn. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn
định rất cao nhưng thường có thời hạn ngắn vì đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nguồn vốn này chiếm tỷ trọng rất
nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
16



• Tiền gửi của cá nhân và hộ gia đình
Tiền gửi không kỳ hạn
Khách hàng gửi tiền ngân hàng với mục đích an toàn là chủ yếu và hưởng các dịch
vụ của ngân hàng. Đối với nguồn vốn này chi phí trả lãi ngân hàng bỏ ra không đáng kể
nhưng chi phí trả lãi rât cao. Ở các nước phát triển thì tỷ trọng nguồn vốn này rất cao nhưng
các nước đang phát triển thì tỷ trọng này rất thấp do người dân chưa có thói quen sử dụng
các dịch vụ của ngân hàng. Nguồn vốn từ tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân và hộ gia đình
có tính ổn định thấp do nhu cầu tiêu dung của cá nhân, hộ gia đình không ổn định, khi cần
khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào do đó ngân hàng phải chuẩn bị sẵn một khoản
tiền để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích sinh lời là chủ yếu. Tiền gửi có kỳ
hạn của cá nhân và hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn huy động và là nguồn
vốn chủ yếu để ngân hang cho vay. Nguồn vốn này có tính ổn định cao nhất và ngân hàng
phải trả lãi rất cao cho nguồn vốn này.
Tiền gửi tiết kiệm
Là khoản tiền gửi chỉ dành cho cá nhân chứ không phải để thanh toán, nó được kí gởi
vào tổ chức tín dụng nhằm mục đích cất giữ hộ hoặc hưỡng lãi theo định kì. Đây là loại hình
kí thác rất đa dạng và phổ biến trong nền kinh tế trên toàn thế giới.
Tiền gửi tiết kiệm được chia thành 2 loại tiền gửi tiết kiệm có kì hạn và tiền gửi tiết
kiệm không kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền
theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kì ngày giờ làm việc nào của tổ chức nhận tiền
gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kì hạn khác với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
ở chỗ: tài khoản tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng để phát hành séc và thực hiện các
công cụ dịch vụ thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt để chi trả cho
người khác, trừ trường hợp tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của người cư trú
được sử dụng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của Chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm

hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển
khoản sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền
gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có thể rút tiền
sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tiền
gửi tiết kiệm có kì hạn khác với tiền gửi có kì hạn chỉ ở chổ khách hàng gửi tiền gửi tiết kiệm
có kì hạn chỉ có thể là cá nhân.
Có thể nói, xét về giá trị, các khoản tiết liệm thường nhỏ hơn so với các tài loại tiền
gửi khác nhưng số lượng khá nhiều, vì vậy, nếu xét về tổng thể, đây vẫn là một nguồn vốn
khá tiềm năng của các ngân hàng thương mại. Trên thực tiễn, các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm
rất phong phú và đa dạng, đây là một phương cách thu hút lượng khách hàng của các ngân
hàng thương mại, đáp ứng nhu cầu đa dạng và biến đổi thường xuyên của nhóm khách hàng
đông đảo này. Nhìn chung, đặc trưng chính của nguồn vốn này là có độ ổn định cao, tuy

17


nhiên, mặt trái kèm theo của nó là chi phí huy động vốn khá cao (chi phí giao dịch bình quân,
chi phí trả lãi, chi phí thiết lập mạng lưới chi nhánh,…)
Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Ngày nay trong hoạt động kinh doanh của cá NHTM canh tranh là yếu tố không thể
thiếu được. Các NHTM cạnh tranh nhau về lãi suất huy động cho đến lãi suất cho vay.
Trong lĩnh vực huy động vốn các NHTM phải luôn luôn tìm biện pháp để có thể huy động
được đủ nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn của mình. Các NHTM không chỉ sử
dụng các công cụ truyền thồng để huy động vốn mà còn đưa ra các công cụ mới có hiệu quả
hơn để huy đọng vốn một cách dễ dàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình và kỳ phiếu, trái
phiếu ngân hàng đã ra đời. Kỳ phiếu và trái phiếu là giấy tờ có giá xác nhận khoản nợ của
ngân hàng với người nắm giữ. Kỳ phiếu được phát hành thường xuyên và có thời hạn ngắn:
3, 6,…12 tháng. Trái phiếu thường có thời hạn lớn hơn 1 năm.
Việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có ưu thế: giúp ngân hàng huy động được đúng

số lượng vốn cần thiết và có thời hạn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng, Tuy
nhiên chi phí của nguồn vốn này tương đối cao do ngân hàng phải trả lãi cao hơn các hình
thức huy động truyền thống.
Huy động vốn qua đi vay
• Vay TCTD khác
Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể vay TCTD khác thông qua thị trường
tiền tệ liên ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn thường cao và thời hạn sử dụng thường ngắn.
Các ngân hàng cho nhau vay dưới các hình thức: vay qua đêm, vay kỳ hạn, hợp đồng gia
hạn.
• Vay NHTW
NHTW cho NHTM vay dưới hình thức chiết khấu giấy tờ có giá. Mục đích cho vay
của NHTW với NHTM là: thực thi chính sách tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
Chi phí của nguồn vốn này cao hay thấp là phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW; giả
sử khi NHTW muốn tăng mức cung tiền thì NHTW sẽ giảm mức lãi suất chiết khấu từ đó sẽ
kích thích các NHTM vay NHTW nhiều hơn do đó tăng khả năng cấp tín dụng cho nền kinh
tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và ngược lại.
2.2.2 Các yếu tố ảnh tố hưởng đến nguồn vốn huy động
Nhân tố khách quan
Môi trường chính trị - pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp
luật và các cơ quan chức năng của Chính phủ. Do đó hoạt động huy động vốn của ngân
hàng củng bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của Nhà nước, chính sách của NHTW
như: chính sách tiền tệ, lãi suất, tài chính, tín dụng…Sự thay đổi của những chính sách nảy
sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn của NHTM.
Môi trường kinh tế
18


Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả năng thu nhập,
chi tiêu, thanh toán và nhu cầu vốn và gửi tiền của dân cư và ảnh hưởng đến hoạt động huy

động của ngân hàng. Sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát,
thu nhập bình quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư và tiết kiệm của Chính phủ… sẽ
ảnh hưởng đến khả năng tiêu dung và tiết kiệm của dân cư và từ đó ảnh hưởng đến khả năng
thu hút vốn của NHTM.
Môi trường dân số
Môi trường dân số là yếu tố cũng quan trọng không kém bởi nó không chỉ tạo thành
nhu cầu và kết cấu nhu cầu dân cư về sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà còn là căn cứ để hình
thành hệ thống phân phối của ngân hàng. Môi trường dân số ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động vốn của ngân hàng do đó ngân hàng phải nghiên cứu kỹ lưỡng môi trường kinh tế
trước khi đưa ra chiến lược huy động vốn để có thể huy động được nguồn vốn phù hợp với
nhu cầu của ngân hàng về chất lượng, số lượng và thời gian…
Môi trường địa lý
Môi trường địa lý được xác định bởi quy định của quốc tế để hình thành quốc gia và
quy định từng quốc gia trong việc hình thành các tỉnh, huyện, xã, thành phố, nông thôn…
tùy từng khu vực địa lý mà ngân hàng quyết định đặt nhiều hay ít điểm huy động vốn và
quyết định chiến lược huy động ở mỗi khu vực có số dân và các điều kiện khác nhau.
Môi trường công nghệ
Hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động chịu tác động mạnh mẽ của công
nghệ, không thể tách rời khỏi sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của ngân hàng, nó mang lại cho ngân
hàng nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại hàng loạt thách thức mới. Công nghệ mới cho phép
ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp vụ, cách thức phân phối sản phẩm, phát triển các sản
phẩm mới… nhờ có công nghệ mà hoạt động huy động vốn được cải tiến, phát triển, rút
ngắn thời gian giao dịch và thực hiện nghiệp vụ chính xác… giúp ngân hàng có khả năng
thu hút được nhiều vốn, nhiều khách hàng và tăng thu nhập, uy tín cho ngân hàng.
Môi trường văn hóa – xã hội
Mỗi quốc gia đều có một nền văn hóa riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản sắc
của các dân tốc như: tập quán, thói quen, tâm lý…Đối với ngân hàng, hoạt động huy động
vốn là hoạt động chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường văn hóa. Cụ thể ở các nước phát
triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh

toán và hưởng lãi và trong tiềm thức của họ, ngân hàng là một phần không thể thiếu được, là
một phần tất yếu của nền kinh tế. Do vậy ngân hàng gặp không mấy khó khăn trong việc
huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức kinh tế. Ngược lại ở những nước đang phát
triển như Việt Nam, việc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn vì người dân
Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mặt khác ngân hàng
chưa thực sự tạo được lòng tin của người dân, thủ tục gửi tiền vẫn còn rườm rà và nhiều hạn
chế.
Nhân tố chủ quan
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
19


Ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong chiến
lược kinh doanh ngân hàng phải quyết định sẽ mở rộng hoặc thu hẹp quy mô huy động vốn,
thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng nguồn vốn, lãi suất huy động. Nếu chiến lược
kinh doanh đúng đắn ngân hàng sẽ khai thác được nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vá đáp ứng
hiệu quả cao.
Chính sách lãi suất cạnh tranh
Chính sách lãi suất cạnh tranh bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và lãi suất cạnh
tranh cho vay là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh
huy động là đặc biệt quan trọng khi lãi suất thị trường ở mức tương đối cao. Các NHTM
không chỉ cạnh tranh giành vốn mà còn cạnh tranh với các tổ chức tiết kiệm và người phát
hành các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong thời gian khan hiếm tiền tệ,
dù cho sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy những người tiết kiệm và đẩu
tư chuyển từ công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm và đầu tư từ một tổ chức tiết kiệm nay
sang một tổ chức tiết kiệm khác.
Chính sách khách hàng
Trong công tác ngân hàng, ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều nhóm để
có các phục vụ phù hợp. Với những khách hàng lâu năm, giao dịch thường xuyên, có sô dư
tiền gửi lớn, gây được tín nhiệm với ngân hàng thì ngân hàng sẽ có chính sách phù hợp về

thời hạn và lãi suất…
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng
Đây cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn
của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng đa dạng, phong phú, linh hoạt bao
nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự
khác nhau về nhu cầu và tâm lý của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng của các hình thức
huy động càng cao thì càng dễ dàng đápứng một cách tốt nhất nhu cầu của dân cư và họ đều
tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các NHTM
thường cân nhắc rất kỹ khi đưa vào hình thức huy động mới.
Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng
Một ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng khác.
Trong điều kiện kinh tế thị trường các ngân hàng phải phấn đấu nâng cao chất lượng dịch vụ
và đa dạng hóa các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tăng thu nhập của ngân
hàng. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn,
do vậy đây chính là điểm mạnh để các ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh.
Chính sách phục vụ, quảng cáo
Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như ngày nay khó có thể duy trì sự khác biệt về
sản phẩm và giá cả nên chiến lược phục vụ quảng cao trở thành yếu tố vô cùng quan trọng
để thu hút khách hàng. Thái độ phục vụ than thiện, chu đáo là điều kiện để thu hút khách
hàng, chiến lược quảng cáo phù hợp sẽ giúp ngân hàng có nhiều khách hàng mới. Do đó để
có uy tín trên thị trường, giữ vững mối quan hệ với khách hàng truyền thống và thu hút
thêm nhiều khách hàng mới ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, có
chiến lược quảng cáo hợp lý để nhiều người biết đến ngân hàng và sản phẩm do ngân hàng
cung ứng.
20


2.2.3 Hoạt động tín dụng của NHTM
Khái niệm
Tín dụng là một quan hệ vay mượn được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện

vật trên nguyên tắc người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay cả vốn lẫn lãi trong một
thời gian nhất định.
Tầm quan trọng của hoạt động tín dụng
Song song với hoạt động huy động vốn thì hoạt động tín dụng là một hoạt động cũng
không thể thiếu của một ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng ngân hàng không
những là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng
thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường mà còn là một hoạt động tạo
ra nguồn thu chính của ngân hàng.
Phân loại tín dụng của ngân hàng
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn nhận dưới nhiều
góc độ khác nhau theo các tiêu phân loại khác nhau. Trên thực tế, người ta thường đề cập
đến các hình thức tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức phân chia sau:
Phân loại theo thời gian cấp tín dụng
- Tín dụng có kỳ hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ. Tín dụng
có kỳ hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều thống nhất về điều này
nhưng thời gian cụ thể được quy định cho từng loại lại không hoàn toàn đồng nhất. Ở Việt
Nam hiện nay, theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với
quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN/ ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam thì:
+ Cho vay ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản
xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
+ Cho vay trung hạn, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn
thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của tổ
chức tín dụng.
* Thời hạn cho vay trung : từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
* Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động
còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá
15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay không
xác định rõ thời hạn trả nợ.

Phân loại theo thành phần kinh tế
21


Theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành:
• Cho vay doanh nghiệp Nhà nước.
• Cho vay kinh tế tập thể.
• Cho vay kinh tế tư nhân.
• Cho vay kinh tế cá thể.
• Cho vay kinh tế hỗn hợp.
(Năm thành phần kinh tế trên được xác định trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI)
Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được phân chia theo hai
loại: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp.
- Cho vay hoàn trả một lần: các khoản vay sẽ được hoàn trả một lần vào thời gian xác
định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thế đựoc hoàn trả theo thoả thuận trong hợp đồng,
chẳng hạn theo tháng, theo quý hoặc theo năm.
- Cho vay trả góp: việc hoàn trả được tiến hành theo định kỳ, các khoản này có thể
bằng nhau hay không bằng nhau tuỳ theo thoả thuận và được thực hiện theo nguyên tắc trả
dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
Phân loại theo mức độ đảm bảo
Các ngân hàng có thể đảm bảo hay không có đảm bảo tùy thuộc vào mức độ tín
nhiệm của ngân hàng đôí với khách hàng vay cũng như độ rủi ro của phương án xin vay.
Từ đảm bảo của khách hàng ở đây chỉ được hiểu là đảm bảo bằng tài sản thế chấp,
cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Cách đảm bảo này có mục đích giảm bớt rủi ro mất
mát trong trường hợp người vay không trả được nợ được hay không muốn trả nợ khi đến
hạn. Các tài sản được đem thế chấp thường là các bất động sản trong khi các tài sản được
đem cầm cố lại là các động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng khoán và các giấy tờ khác…
Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản đem thế chấp, cầm cố là chúng phải có tính thị trường tức
là có khả năng thanh lý được.

Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng
Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp đối với
người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay…
Cho vay gián tiếp: ngân hàng bỏ tiền ra cho vay nhưng không có liên hệ gì với người
vay như: cho vay hợp vốn đối với ngân hàng khác…
Việc phân loại có ý nghĩa giúp ngân hàng đánh giá, lùa chọn cách thức cho vay cũng
như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó nghiên cứu thể lệ và chính sách tín dụng phù hợp.
22


Trong thực tế kinh doanh ngân hàng chúng ta thường xem xét chủ yếu là các loại hình tín
dụng ngắn hạn là chủ yếu. Khi phân chia các loại hình tín dụng ngắn hạn người ta thường
nhìn dưới góc độ các “sản phẩm tín dụng” hay còn được gọi là kỹ thuật cấp tín dụng.
2.2.4 Hoạt động đầu tư của các ngân hàng
Khái niệm
Ngoài nghiệp vụ chính là tín dụng, các NHTM cũng tham gia các hoạt động đầu tư
để nâng cao tỷ lệ vốn điều lệ, và nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chính NHTM.
Quyết định 457/2005-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam quy định: Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng tối
đa không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quĩ đầu tư, hoặc 11% giá trị dự
án đầu tư. Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng
không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quĩ dự trữ của tổ chức tín dụng. Trong kết cấu của
bảng cân đối tài sản của một ngân hàng thương mại, mục đầu tư bao gồm 2 khoản :
- Đầu tư chứng khoán: trái phiếu và giấy tờ có giá khác.
- Hùn vốn, liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng khác.
Như vậy, hoạt động đầu tư chính của các NHTM là đầu tư chứng khoán và hoạt động
hùn vốn, liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng khác.
Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư
Sử dụng nguồn vốn hiệu quả là điều kiện sống còn, tiên quyết để duy trì và phát triển
một ngân hàng. Nâng cao hiệu quả đầu tư góp phần tăng cường năng lực tài chính của

NHTM, tạo ra tích luỹ và có điều kiện mở rộng đầu tư, góp phần tăng cường danh tiếng của
NHTM, tạo điều kiện tốt cho ngân hàng huy động vốn cho từ nền kinh tế cũng như từ các tổ
chức quốc tế, do vậy có khả năng tài trợ cho các nhà đầu tư. Đồng thời đầu tư có hiệu quả,
tạo ra khả năng chống đỡ rủi ro, có khả năng khắc phục được những biến động bất thường
của thị trường, tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng các loại hình dịch vụ, thực hiện tốt
chức năng trung gian tài chính của mình. Đầu tư có hiệu quả sẽ cải thiện tình hình tài chính
cảu ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh; tạo thuận lợi cho sự
tồn tại lâu dài của ngân hàng bởi vì hiệu quả đầu tư cho phép ngân hàng có những khách
hàng trung thành và những khoản lợi nhuận để bổ sung vốn đầu tư; đồng thời tạo điều kiện
cho ngân hàng củng cố, phát triển các mối quan hệ với khách hàng. Vì vậy, việc củng cố và
nâng cao hiệu quả đầu tư của các NHTM là thực sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và
phát triển lâu dài của các NHTM.

Các hoạt động đầu tư của ngân hàng
Hoạt động đầu tư chứng khoán
Là một hoạt động nhằm cung cấp cho ngân hàng tính đa dạng, lợi tức, lợi ích về thuế
và trợ giúp thanh khoản. Một NHTM cũng như cả hệ thống NHTM nhiều khi khó có thể sử
dụng tất cả các khoản tiền huy động được để thực hiện các khoản cho vay như mong muốn.
Cũng có những khi, đặc biệt là khi nền kinh tế trì trệ, một lượng vốn ngân hàng ứ đọng
không thể cho vay được, trong khi đó, để duy trì hoạt động buộc các ngân hàng phải tiếp tục
23


huy động vốn. Để hạn chế bớt thiệt hại ngân hàng cũng có thể gửi tiền gửi ra nước ngoài
hoặc đầu tư chứng khoán…Ngoài ra, hoạt động đầu tư chứng khoán còn thể hiện tính đa
dạng trong đầu tư dể phân tán rủi ro, đồng thời còn góp phần cung cấp và bổ sung cho dự
trữ. Một ngân hàng thận trọng cần thiết phải dành một phần tài sản để đầu tư vào các lĩnh
vực ngoài khu vực mà nó cho vay.
Các công cụ đầu tư chứng khoán của NHTM
- Các công cụ đầu tư trên thị trường tiền tệ: kỳ hạn dưới 1 năm, mức độ rủi ro thấp và

có thể được bán lại dễ dàng trên thị trường. Bao gồm: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc,
chứng khoán của các cơ quan, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu chấp nhận thanh toán, giấy
nợ ngắn hạn, trái phiếu ngắn hạn của chính quyền địa phương
- Các công cụ trên thị trường vốn: trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa
phương, trái phiếu công ty
Hoạt động góp vốn, liên doanh với các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính tín
dụng
Hoạt động góp vốn, liên doanh với các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính tín dụng
cũng được xem là một hoạt động đầu tư của NHTM. Các NHTM dùng vốn của mình để góp
vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác. Các tổ chức tín dụng
được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các
tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật. Mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức
tín dụng trong một NHTM, tổng mức góp vốn, mua cổ phần trong tất cả các doanh nghiệp
không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc ngân hàng Nhà nước quy định đối với từng
loại hình tổ chức tín dụng.
2.2.5 Các dịch vụ khác của ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng là một trong những ngành dịch vụ quan trọng, nhạy cảm có ảnh
Ngoài hoạt động chính là huy động vốn, hoạt động tín dụng và đầu tư, có thể liệt kê
các sản phẩm dịch vụ khác ngân hàng đang cung cấp để làm đa dạng hóa sản phẩm của
ngân hàng như: Dịch vụ tiền mặt; Thanh toán chuyển khoản: UNC,Cheque, Thẻ; Chuyển
tiền, T/T, Bankdraft; Khấu trừ tự động, uỷ nhiệm chi định kỳ; Cho thuê két sắt; Ngân hàng
tại nhà (Home banking), mobile banking,internet banking (Telephone banking), Thanh toán
điện tử (e.banking); Kiều hối; Thanh lý tài sản theo di chúc của khách hàng; Dịch vụ ủy
thác; Tư vấn; Bảo hiểm; Dịch vụ bất động sản; Thiết lập và thẩm định dự án; Dịch vụ ngân
hàng trên TTCK; Môi giới tiền tệ(Theo quyết định 351 ngày 07/04/2004 của NHNN Việt
Nam); Mua bán ngoại tệ; Thanh toán quốc tế; ... được tóm tắt thông qua sơ đồ sau:

24



2.2.6 Thực trạng về hoạt động huy động vốn ở ngân hàng ACB và Techcombank
Ngân hàng ACB
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) được đánh giá là ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt
Nam hiện nay, với quy mô tài sản ở mức 281,019 tỷ đồng tại thời điểm cuối năm 2011,
đứng thứ 5 trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. ACB có đối tác chiến lược là
Standard Chartered Bank. Với hơn 16 năm kinh nghiệm hoạt động, ACB hiện đang cung
cấp đa dạng các dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng trong nước. Hoạt động chính của
ACB bao gồm huy động vốn từ khách hàng, tín dụng khách hàng, thanh toán, bảo lãnh, dịch
vụ thẻ, hoạt động đầu tư chứng khoán và kinh doanh ngoại hối.
Hoạt động huy động vốn:
Năm 2009, cơ cấu huy động vốn gồm 59% huy động từ nguồn khách hàng và từ 7.1% từ
các tổ chức tín dụng, 18.1% từ phát hành giấy tờ có giá. Huy động vốn từ khách hàng có tốc
độ tăng trưởng cao hơn so với tăng trưởng trung bình ngành. ACB hướng đến dòng vốn ổn
định, có chất lượng tốt từ tiền gửi của khách hàng, trong đó chủ yếu là khách hàng cá nhân
và công ty TNHH.
Trong tương lai, ACB sẽ tiếp tục điều chỉnh theo hướng nâng cao chất lượng tín dụng để
tăng thu nhập từ lãi. Hiện nay, thu nhập từ hoạt động cho vay vẫn còn khá khiêm tốn so với
quy mô tổng nguồn vốn huy động.

Cấu trúc huy động vốn

25


×