Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

môi trường kinh doanh ngân hàng tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.36 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN

  

BÀI TIỂU LUẬN
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NỘI DUNG:

MÔI TRƯỜNG KINH DOANH NGÂN HÀNG TẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY
Lớp

: MG009_1_121_T08

Giảng viên: TS Trịnh Quốc Trung
Họ và tên

Mã số SV

Nguyễn Đình Khánh

030525090097

Nguyễn Đình Thanh An

030525090005

Lưu Xuân Thọ

030525090375



Hoàng Thị Kim Chi

030525090023

Nguyễn Thị Phi Phượng

030525090179

Đặng Ngọc Anh

030124080020

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10/2012


Page |2

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển nhanh, sau hơn 35 năm đổi mới và
hơn 4 năm gia nhập vào WTO Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận từ
một đất nước có nền kinh tế bao cấp cho tới nay là một nền kinh tế có sự
hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế khác trên thế giới đem lại cho các doanh nghiệp
Việt Nam không ít thách thức cũng như cơhội mới. Một trongnhữngngành nghề chịu sự
tác động lớn nhất có lẽ là ngành tài chính, ngân hàng; được xem là hệ thống tuần hoàn
máu cho nền kinh tế. Những năm 2000 trở lại đây đánh dấu sự ra đời của một loạt các
ngân hàng. Hiện nay với hơn 45 ngân hàng đang hoạt động trong tất cả các tỉnh thành

trong cả nước. Ngành ngân hàng là một trong những nghành có sự cạnh tranh mạnh mẽ
nhất hiện nay, điều đó đặt ra cho các nhà quản lý các ngân hàng phải có những chiến lược
hợp lý cho ngân hàng của mình để có thể tồn tại và phát triển được. Phân tích môi
trường kinh doanh của ngân hàng cho chúng ta thấy được những yếu tố tác động tới sự
hoạt động của ngân hàng qua đó giúp chúng ta xácđịnh chiến lược cho ngân hàng cho sự
phát triển của ngân hàng trong thời gian tới.


Page |3

1. Nghiên cứu môi trường vĩ mô.
1.1. Môi trường dân số.
Môi trường dân số là mối quan tâm của các nhà Marketing ngân hàng hiện nay.
Môi trường dân số là môi trường quan trọng bởi nó không chỉ tạo thành nhu cầu và kết
cấu nhu cầu dân cư về sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà còn là căn cứ trong việc hình
thành hệ thống phân phối của ngân hàng Đồng thời môi trường kinh doanh sẽ còn là cơ
sở để xây dựng và điều khiển các kĩ thuật Marketing ngân hàng.
1.2. Môi trường địa lí:
Môi trường địa lí được xác định bởi qui định của quốc tế để hình thành các quốc
gia và qui định của từng quốc gia trong việc hình thành vùng, khu vực , tỉnh, thành phố,
huyện xã, thôn . . . Các vùng địa lí khác nhau có có những đặc điểm rất khác nhau như
danh lam thắng cảnh , điều kiện giao thông, sông núi, tài nguyên khoáng sản , phong tục
tập quán , cách thức giao tiếp, nhu cầu về hàng hoá dịch vụ nói chung và sản phẩm dịch
vụ tài chính ngân hàng nói riêng.
1.3. Môi trường kinh tế :
Môi trường kinh tế bao gồm: những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu nhập ,
thanh toán , chỉ tiêu và nhu cầu về vốn và gửi tiền của dân cư. Vì vậy ngân hàng cần phải
biết được sự biến động của những yếu tố chủ yếu thuộc môi trường kinh tế như mức thay
đổi, tỷ lệ thay đổi và xu thế thay đổi của thu nhập bình quân đầu người. Tỷ lệ lạm phát ,
tỷ lệ xuất nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc dân , sự ổn định về

kinh tế , chính sách đầu tư , tiết kiệm của chính phủ…
Môi trường kinh tế có tác động rất mạnh mẽ đến nhu cầu và cách thức
sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách hàng. Do vậy, nó chi phối đến
hoạt động của ngân hàng như công tác huy động vốn và khả năng thoả mãn
nhu cầu vốn cùng các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng
chỉ ra hoạt động Marketing phải đưa ra được các hình thức khác nhau để thu
hút mọi nguồn vốn tạm thời thừa và sử dụng có hiệu quả chúng vào việc phát
triển kinh tế quốc dân và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Tình hình và sự thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế có tác động to
lớn đến sự phát triển kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng. Môi
trường kinh tế vừa tạo cho ngân hàng những cơ hôi kinh doanh, đồng thời cũng tạo ra cả
những thách thức đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Sự thành công hay thất bại của một chiến lược hay chương trình Marketing của
một ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào tình hình của nền kinh tế trong nước, khu vực và


Page |4

toàn cầu , phát triển , suy thoái hay khủng hoảng. Khi nền kinh tế trong nước rơi vào
trạng thái suy thoái, thu nhập giảm sút , lạm phát và thất nghiệp tăng cao , hoạt động của
các doanh nghiệp sút giảm thì nhu cầu đối với các sản phẩm dịch vụ tài chính cũng suy
giảm , môi trường kinh doanh không thuận lợi. Đây cũng là yếu tố làm thất bại các kế
hoạch Marketing của ngân hàng. Và ngược lại, khi nền kinh tế trong nước đang trong giai
đoạn tăng trưởng sẽ là cơ hội tốt trong thực hiện các kế hoạch hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nói chung.
Tình hình kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng
của từng quốc gia. Xu hướng toàn cầu hoá với phát triển của thương mại quốc tế và sự di
chuyển tự do hơn của các dòng vốn quốc tế làm cho hoạt động kinh doanh ngân hàng
cũng có những thay đổi mạnh mẽ. Các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế phát triển và trở
thành một trong những hoạt động kinh doanh chính không chỉ đối với các ngân hàng

trong nước mà còn đối với tất cả các ngân hàng trên thế giới. Do đó bộ phận Marketing
ngân hàng phải nắm bắt kịp thời sự biến động trên để chủ động đưa ra những phương
thức hoạt động ngân hàng mới và cách thức điều khiển các kĩ thuật Marketing cho phù
hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh.
1.4 Môi trường công nghệ.
Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và xã hội. Nó làm
thay đổi phương thức sản xuất , cách thức tiêu dùng và cả phương thức trao đổi của xã
hội nói chung cũng như của ngân hàng nói riêng. Phương thức trao đổi giữa khách hàng
và ngân hàng trên thị trường rất nhạy cảm với các tiến bộ về công nghệ , đặc biệt là công
nghệ thông tin. Ngân hàng là một trong những ngành rất quan tâm đến việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh. Ngày nay, hoạt động của ngân hàng
không thể tách rời khỏi sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin.
Trên thực tế, những thay đổi của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới
hoạt động kinh doanh ngân hàng. Công nghệ mới cho phép ngân hàng đổi mới không chỉ
qui trình nghiệp vụ , mà còn đổi mới cả cách thức phân phối , đặc biệt là phát triển sản
phẩm dịch vụ mới như sự phát triển của mạng lưới máy tính mạng cho phép ngân hàng
cung cấp dịch vụ 24/ 24 giờ. Những thay đổi công nghệ vừa tác động mạnh mẽ tới
phương thức sản xuất của các ngành sản xuất. vừa tác động tới cách thức sử dụng sản
phẩm dịch vụ ngân hàng của dân cư , vừa tạo ra sự ra đời và phát triển của thương mại
điện tử đã đặt ra yêu cầu mới cho ngân hàng trong việc cung ứng dịch vụ thanh toán.
Như vậy, việc nghiên cứu môi trường kĩ thuật công nghệ bao hàm những nguồn
nhân lực ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo những sản phẩm dịch vụ mới và cả kĩ thuật
liên lạc giữa ngân hàng và khách hàng nhằm khai thác những cơ hội của thị trường để
đưa ra những chính sách phù hợp . Kĩ thuật công nghệ là sức mạnh mãnh liệt nhất của
hoạt động kinh doanh ngân hàng như chuyển tiền nhanh , máy rút tiền tự động ATM,
thanh toán tự động, thẻ điện tử. . . . . Vì vậy mà thái độ của khách hàng đối với một ngân
hàng còn tuỳ thuộc rất lớn vào những kĩ thuật công nghệ mà ngân hàng sử dụng và mức
độ mà ngân hàng thoả mãn cho những nhu cầu và mong muốn của khách hàng
Mỗi kĩ thuật công nghệ thường tạo ra một hệ quả lâu dài, nhưng lại rất khó dự kiến
trước. Song cán bộ Marketing ngân hàng cần phải hiểu rõ được những kĩ thuật công nghệ



Page |5

hiện đang được áp dụng trong kinh doanh của ngân hàng trong và ngoài nước và cả xu
thế thay đổi của nó trong tương lai nhằm có thể đưa ra các quyết định phù hợp trên cả hai
giác độ : mô hình hoạt động của ngân hàng và chiến lược sử dụng tối ưu tiền vốn để đầu
tư nâng cao hiệu quả kĩ thuật công nghệ của chính ngân hàng và các ngành trong nền
kinh tế quốc dân , nhằm khai thác triệt để “vốn thời gian”, kéo dài cánh tay hoạt động của
ngân hàng và luôn giữ vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân. Quá trình tự động hoá
các dịch vụ ngân hàng giúp ngân hàng mở rộng không giới hạn về không gian và các dịch
vụ ngân hàng mới , đem lại cho khách hàng một tập hợp lợi ích và tiện ích là xu hướng
đang được xác định trong kinh doanh ngân hàng hiện nay
Đồng thời khi nghiên cứu tác động của yếu tố công nghệ , người làm công tác
Marketing phải xác định được một cách cụ thể về trình độ công nghệ hiện tại của cả
khách hàng và ngân hàng, những lợi thế về công nghệ của ngân hàng , đánh giá , xác định
rõ khoảng cách về công nghệ của ngân hàng đối với ngân hàng các nước và trong khu
vực và thế giới. Đặc biệt phải chỉ rõ được xu thế phát triển của công nghệ ngân hàng
trong nước và khu vực thế giới.
1.5. Môi trường chính trị pháp luật.
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự giám sát chặt
chẽ của luật pháp và các cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động của các ngân hàng
thường được điều chỉnh rất chặt chẽ bởi các qui định pháp luật . Môi trường pháp lí sẽ
đem đến cho ngân hàng một loạt các cơ hội mới và cả những thách thức mới, như việc
giảm bớt các hạn chế về huy động tiền gửi nội tệ , sẽ mở đường cho các ngân hàng nước
ngoài phát triển các sản phẩm về cho vay nội tệ. Còn sự nới lỏng trong quản lí của pháp
luật cũng có thể đặt cho các ngân hàng trước những nguy cơ cạnh tranh mới, như những
thay đổi trong luật ngân hàng của một nước cho phép thành lập các ngân hàng nước
ngoài sẽ đặt các ngân hàng của nước đó vào tình thế bị cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Nhà Marketing ngân hàng phải thường xuyên nắm được những thay đổi của các qui định

pháp luật để chủ động điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp với những qui định
mới. Điều quan trọng hơn là bộ phận nghiên cứu Marketing phải phân tích và dự báo
được xu hướng thay đổi của môi trường pháp luật như xu hướng toàn cầu hoá thị trường
tài chính ngân hàng sẽ tác động đến cách thức điều tiết, kiểm soát các ngân hàng trung
ương đối với ngân hàng thương mại và cả các qui định của các tổ chức tài chính thương
mại quốc tế có những liên quan đến hoạt động của ngân hàng như AFTA, WTO . . .
Môi trường pháp luật tạo cơ sở pháp lí ràng buộc và tác động đến việc hình thành
tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng . Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu Marketing
cần tư vấn pháp lí cho các chủ ngân hàng trong việc nắm chắc luật để thực hiện các hoạt
động ngân hàng đúng pháp luật, quan trọng hơn còn phát hiện những điều pháp luật
không cấm để đưa ra những quyết định chính xác, phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh ngân hàng.
1.6. Môi trường văn hoá - xã hội.
Hành vi của khách hàng và cả đối thủ cạnh tranh của ngân hàng bị chi phối khá
nhiều bởi các yếu tố văn hoá. Những hành động trái với truyền thống văn hoá thường khó
được chấp nhận . Môi trường văn hoá xã hội được hình thành từ các tổ chức và những


Page |6

nguồn lực khác nhau có ảnh hưởng cơ bản đến giá trị của xã hội như cách nhận thức,
trình độ dân trí , trình độ văn hoá , lối sống . . . Chúng có tác động rất lớn đến việc hình
thành các yếu tố tạo nên những sinh hoạt văn hoá xã hội như trường học , bệnh viện , nhà
thờ , các hoạt động văn hoá , thể dục thể thao và các sinh hoạt cú tính chất truyền thống
như lễ tết hội hè , , hội chợ, các cuộc thi . . . Các hoạt động trên có ảnh hưởng rất lớn đến
tâm lí , tình cảm , phong tục tập quán , nguyên tắc sống và cả cách thức, trình độ của các
đối tượng đã , đang và sẽ sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Trình độ văn hoá tiêu dùng và thói quen của người dân sẽ ảnh hưởng lớn tới hành
vi và nhu cầu sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Ví dụ ở Việt Nam người dân có thói quen tiêu
tiền mặt, do vậy việc phát triển các loại hình thanh toán không dùng tiền mặt của ngân

hàng trong dân cư gặp nhiều khó khăn, hoặc người dân Việt Nam có thói quen mua hàng
tại các chợ nhỏ gần đường do vậy nhu cầu về các dịch vụ thanh toán thẻ chậm phát triển ,
ở các nước đang phát triển , người dân có thói quen mua hàng tại các siêu thị thì các nhu
cầu về thanh toán thẻ, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh hơn.
Vấn đề tâm lí của người dân cũng ảnh hưởng đến hành vi và nhu cầu của người
dân về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Nếu người dân có tâm lí không tin tưởng vào
ngân hàng , thì họ không gửi tiền vào ngân hàng mà cất trữ dưới dạng tiền mặt , vàng bạc
, đá quí hoặc gửi tại ngân hàng nhưng lại rút ra ồ ạt.
Việc nghiên cứu các yếu tố văn hoá - xã hội không những để xác định rõ các tác
động của chúng tới hành vi sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và lựa chọn ngân hàng
của khách hàng , mà còn giúp các nhà Marketing ngân hàng chủ động trong việc tham gia
xây dựng các chính sách , qui định , thủ tục trong nghiệp vụ và thiết kế mô hình tổ chức
thu nhập , quản lí rủi ro, bổ sung các nguồn tài chính thiếu hụt, di chuyển tiền tệ, tư vấn
chuyên môn, thông tin
Nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng của Marketing ngân hàng là phải nghiên cứu
phân tích tìm hiểu nhu cầu mong muốn của khách hàng để xác định rõ từng đối tượng
khách hàng đang tìm kiếm những gì từ phía ngân hàng.


2. Môi trường vi mô

2.1 Các yếu tố nội lực của ngân hàng:
“Cách thức tổ chức của một ngân hàng có thể không ảnh hưởng nhiều đến kết quả
hoạt động của nó là do sự đa dạng trong phương pháp và năng lực quản lý giữa các ngân
hàng thuộc mọi quy mô và cấu trúc tổ chức. Một số nhà ngân hàng có động cơ lợi nhuận
và ý thức về kiểm soát chi phí rất cao, họ có thể thường xuyên thúc đẩy ngân hàng tiến
tới thành công về lợi nhuận mà không quan tâm đến cấu trúc tổ chức của ngân hàng.
Những nhà quản lý ngân hàng khác lại coi qui mô ngân hàng lớn hơn hoặc có thể là mức
độ an toàn cao hơn cho ngân hàng như là mục tiêu chính và do đó kết quả về lợi nhuận
của ngân hàng có thề chỉ đứng vị trí thứ hai.” (Trích Chương Ba: Tổ chức và cấu trúc của

ngân hàng và công nghiệp ngân hàng, Peter Rose). Theo quan điểm của nhóm, tổ chức và
cấu trúc của ngân hàng có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.


Page |7

Những ngân hàng lớn thực hiện nhiều chức năng khác nhau và cung cấp nhiều
dịch vụ hơn, do vậy quy mô hoạt động là một yếu tố quan trọng tác động đến cấu trúc
ngân hàng. Những ngân hàng lớn có một số lợi thế so với các ngân hàng nhỏ và trung
bình. Do phục vụ trên nhiều thị trường với nhiều loại hình sản phẩm, nhờ đó hạn chế
được những rủi ro của nền kinh tế biến động. Họ cũng có lợi thế hơn để tăng nguồn vốn
với chi phí tương đối thấp, đồng thời thường tạo lập được những vị trí tốt do họ có khả
năng chấp nhận rủi ro lớn hơn trong việc thâm nhập vào thị trường mới, có thể tiếp cận
tới nhiều nguồn vốn hơn và có năng lực quản lý cao hơn.
Với xu hướng phát triển nhanh ở những năm gần đây, các ngân hàng đều có sự
đầu tư xây dưng cấu trúc ngân hàng giúp nâng cao hiệu quả của hoạt đông quản lý các
nguồn lực trong ngân hàng. Ví dụ như phải chú ý đến hoạt động marketing và những
phản ứng từ phía cổ đông để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và những thách thức từ các
đối thủ cạnh tranh. Trình độ của nhân viên đảo bảo sự hoạt động hiệu quả trong một thị
trường công nghệ không ngừng thay đổi. đội ngũ nhân viên phải có năng lực trong việc
khảo sát nhu cầu, phát triển các dịch vụ mới…Ngoài ra còn phải kể đến phát triển hoạt
động của các chi nhánh ngân hàng. Sau đây sẽ phân tích sâu hơn về các nhân tố tiêu biểu
kể trên.
• Vốn tự có
Quy mô vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức độ
an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hang theo thong lệ quốc tế. Tại Việt Nam
vốn tự có luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản trị ngân hàng trong các
mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện. Đối với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, quy định cụ
thể có liên quan đầu tiên là Quyết định 297/1999 QĐ–NHNN quy định về tỷ lệ đảm bảo
an toàn vốn tối thiểu được xác định là 8% trong hoạt động của ngân hàng thương mại

(NHTM). Năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định 457/2005 QĐ–NHNN với tỷ lệ
đảm bảo an toàn vốn tối thiểu vẫn là là 8% nhưng đã tiếp cận tương đối toàn diện Basil I.
Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13 thay thế Quyết định 457/2005 QĐ–NHNN
nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận
Basil II.
Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, quy mô tổng tài sản của hệ thống NHTM Việt
Nam, nhất là ở nhóm NHTMCP với tốc độ tăng trưởng trung bình vào khoảng 45%/năm.
Tuy nhiên tốc độ tăng vốn tự có cuả nhóm NHTMCP lại không theo kịp tốc độ mở rộng
tổng tài sản. Điều đó dẫn đến hiện tượng an toàn vốn của nhóm ngân hàng này có xu
hướng giảm. Trong danh mục tài sản của các NHTMCP giai đoạn 2010-2011, tỷ trọng
tiền gửi và chứng khoán đầu tư tăng lên trong khi tỷ trọng tín dụng giảm xuống. Các
NHTMCP nhỏ vốn có tỷ lệ dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản trên tổng dư nợ ở
mức cao, khi thị trường bất động sản rơi vào tình trạng trầm lắng, nhiều khoản vay tới
hạn không thể thanh trả được nợ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng là 3,39% , tương đương với khoảng 20% mức
vốn tự có. Trong thực tế mặc dù hệ số CAR của nhóm NHTMCP cao hơn quy định của
NHNN nhưng không đồng nghĩa với việc khả năng chống chịu rủi ro của các ngân hàng


Page |8

được bảo đảm. Đối với nhóm NHTMNN, những năm gần đây, các ngân hàng này đã tiến
hành IPO và phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ, bán cổ phần cho các tổ chức nước
ngoài cũng như nhận sự bổ sung vốn góp từ Chính Phủ nên tỷ trọng vốn tự có trên tổng
tài sản đã tăng lên tương đối. hơn thế khi so sánh trong mối quan hệ với các NHTM trong
khu vực, mức độ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam khá thấp.
Hệ số an toàn vốn hệ thống các TCTD tại Việt Nam và một số nước trên Thế
giới

(Nguồn Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam giai

đoạn 2011-2015)
Khi kinh tế xuất hiện những bất ổn các NHTM có thể gặp những khó khăn hơn rất
nhiều so với trong giai đoạn bình thường của nền kinh tế. Việc nâng cao mức an toàn vốn
được nhiều chuyên gia ví như “tấm đệm” giúp các NHTM chống các “cú sốc” từ môi
trường kinh doanh biến động.


Page |9



Trình độ công nghệ

Ngân hàng là ngành ứng dụng công nghệ thông tin sớm nhất và nhiều nhất, đòi hỏi
những tiêu chuẩn nghiêm ngặt. một dịch vụ ngân hàng đem lại khả năng cạnh tranh cao
thì phải có tính phổ biến và khả năng tương tác cao nhưng lại luôn có sự thách thức về
an toàn bảo mật, rủi ro cao, không cho phép sai sót và nhiều yếu tố khác.
Hiện nay các NHTM đã phát triển các sản phẩm dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
điện tử với những tính năng tiện lợi có xu hướng ngày càng tăng lên. Nhiều dịch vụ thanh
toán mới hiện đại và các dịch vụ giá trị gia tăng tiện ích đi kèm đã được các ngân hàng
khai thác đưa vào hoạt động, làm phong phú thêm cho dịch vụ thanh toán, tạo ưu thế
cạnh tranh giữa các ngân hàng. Do đó các ngân hàng đã chú trọng đầu tư công nghệ, cơ
sở hạ tầng một cách hiệu quả nhằm phục vụ tốt dịch vụ thanh toán qua ngân hàng điện tử
với phạm vi ngày càng mở rộng tới các đối tượng doanh nghiệp, cá nhân và các tầng lớp
dân cư. Thực tiễn TP.HCM là một minh chứng cho thấy, đến 31/12/2011 đã có 111.861
khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng điện
tử, với số lượng giao dịch qua kênh này đã phát sinh trong năm 2011 đạt 1.732.654 món,
tổng giá trị giao dịch hơn 49.436 tỷ đồng (Số liệu tổng hợp từ 15 NHTM có hội sở chính
trên địa bàn TP.HCM).
Các sản phẩm dịch vụ cũng đa dạng như (1) Internet Banking dành cho khách

hàng cá nhân, doanh nghiệp (giao dịch chuyển khoản trong và ngoài hệ thống, chuyển
khoản liên ngân hàng qua CITAD NHNN...); (2) qua Mobile: dịch vụ SMS Banking (truy
vấn số dư tài khoản, tự động nhắn tin báo số dư khi có sự thay đổi tài khoản...), dịch vụ
Mobile Banking (chuyển tiền, thanh toán hóa đơn v.v…); (3) Phone Banking (thanh toán
tiền học phí, tiền điện thoại ...).
Các NHTM đang hợp tác với đối tác thứ ba trong việc triển khai dịch vụ thanh
toán điện tử nhằm giảm chi phí đầu tư, tăng tính cạnh tranh, tính tiện ích trong việc nâng
cao chất lượng phục vụ khách hàng, giúp ngân hàng giảm bớt việc thực hiện thanh toán
qua chứng từ thanh toán bằng giấy, tạo sự tiện lợi cho khách hàng, khách hàng không cần
tới ngân hàng những vẫn có thể thực hiện được các giao dịch thanh toán. Đồng thời việc
hợp tác với các đơn vị cung cấp dịch vụ bảo mật sẽ tạo được mức độ bảo mật cao, đảm
bảo an toàn tài sản cho khách hàng và ngân hàng.
Core banking là một hệ thống các phân hệ nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như
tiền gửi, tiền vay, khách hàng … Thông qua đó, ngân hàng phát triển thêm nhiều dịch vụ,
sản phẩm và quản lý nội bộ chặt chẽ, hiệu quả hơn. Core banking chính là biểu hiện rõ
nhất của cuộc chạy đua về công nghệ hiện đại hóa ngân hàng, giúp khách hàng có được
nhiều tiện ích khi thực hiện các thanh toán thương mại và từng bước đưa Việt Nam hội
nhập với kinh tế thế giới. NHTMCP Á Châu (ACB Bank) là một trong những ngân hàng
đã ứng dụng công nghệ corebanking sớm nhất ở Việt Nam ngay từ những năm cuối thập
niên 1990 với mục tiêu đầu tiên nâng cao năng lực quản lý nội bộ của ngân hàng. Năm
2005, Việt Nam có 7 ngân hàng triển khai core banking, nhưng đến nay đã có hơn 44
ngân hàng quốc doanh và cổ phần trong nước triển khai hệ thống này. Ngoài NHTMCP


P a g e | 10

Á Châu (ACB Bank), một số ngân hàng thương mại khác ở Việt Nam vận hành core
banking như Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đầu tư 4 triệu USD
cho việc ứng dụng hệ thống core banking, Ngân hàng Sài Gòn Công Thương (Sài Gòn
Bank), Ngân hàng TMCP Quân đội (MB Bank), Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB Bank),

Ngân hàng TMCP Toàn cầu (G-Bank), Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank),
Ngân hàng TMCP Phát triển nhà TP HCM (HD Bank), Ngân hàng TMCP Phương Nam
(Southern Bank),…
• Trình độ nguồn nhân lực
Chính chính sách tiền tệ của nền kinh tế đã đặt cho hệ thống ngân hàng một vai trò
và nhiệm vụ chuyển tải chính sách tiền tệ (qua các tài khoản giao dịch và cơ chế thanh
toán) trong đời sống kinh tế mà không định chế nào có được. Ngân hàng chứa đựng tiềm
ẩn khủng hoảng dây chuyền có thể tác động rất nhanh và lan rất rộng trong nền kinh.
Chẳng hạn như trường hợp nảy sinh sự cố tín dụng, rất dễ gây ra ảnh hưởng tâm lý bầy
đàn, nếu không có phương án can thiệp kịp thời, sẽ có khả năng kéo theo nhiều ngân
hàng khác... và nhanh chóng trở thành khủng hoảng mang tính hệ thống làm trì trệ hoạt
động cho cả nền kinh tế. Chính những điểm đặc biệt này của ngân hàng mà những con
người quản trị và điều hành ngân hàng phải thật sự am hiểu kinh tế, nền kinh tế tiền tệ và
quản trị kinh tế ngân hàng. Trong thời gian dài phía trước, lĩnh vực ngân hàng Việt Nam
đang thiếu và sẽ còn thiếu những con người chuyên nghiệp kinh tế ngân hàng để quản trị
và điều hành trong môi trường đặc biệt đó.
Với chiến lược mở rộng thị trường, các tổ chức tài chính - ngân hàng nước ngoài
vào Việt Nam mang theo rất nhiều Tư duy mới; công nghệ mới; sản phẩm, dịch vụ mới
và trình độ quản lý hiện đại… đòi hỏi nguồn nhân lực để triển khai những dịch vụ tài
chính, ngân hàng, nhưng nhìn chung hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngân
hàng cả về số lượng và chất lượng. Có thể chỉ ra một vài hạn chế lớn của các tân cử nhân
tài chính - ngân hàng: (1) Khả năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng viết; kỹ năng
làm việc theo nhóm; kỹ năng lắng nghe, kỹ năng ứng xử (2). Do không được tiếp cận với
thực tế, không ít tân cử nhân vào vị trí công việc không biết bắt đầu từ đâu, các thao tác
rất lúng túng (3). Tiếng anh


Hệ thống mạng lưới hoạt động

Dịch Vụ Ngân Hàng Bán Lẻ

Đây là một xu thế tất yếu của ngành ngân hàng Việt Nam khi mà hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu tiện ích của người dân
ngày càng đa dạng thì các NHTM đều đang cố gắng mở rộng thị phần, tiếp cận một
lượng lớn người dân chưa biết đến các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Hơn nữa dịch vụ
ngân hàng bán lẻ trên thực tế đem lại nguồn doanh thu cao, ít rủi ro cho các ngân hàng.
Trên thực tế các NHTM ở Việt Nam cũng đã bước đầu tập trung khai thác thị trường bán
lẻ thông qua việc mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm cung ứng các sản phẩm dịch vụ


P a g e | 11

ngân hàng đến các cá nhân, hộ gia đình các doanh nghiệp nhỏ và vừa; đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ ngân hàng, phát triển các loại dịch vụ mới, đa tiện ích như internet
banking, home banking, PC banking, mobile banking….
Việc tập trung mở rộng và phát triển lĩnh vực bán lẻ sẽ là nhân tố quyết định tác
động đến vai trò dẫn đầu của các NHTM trong tương lai. Khả năng cung cấp nhiều sản
phẩm hơn trong đó bao gồm nhiều sản phẩm mới thông qua sự đa dạng của các kênh
phân phối sẽ giúp các NHTM sử dụng tối ưu những thuận lợi trong lĩnh vực dịch vụ tài
chính trong tương lai. Do đó, trong năm 2012, các NHTM cần chú ý hơn nữa trong việc
mở rộng ứng dụng công nghệ ngân hàng, phát triển kênh phân phối hiệu quả, đào tạo đội
ngũ cán bộ chuyên nghiệp để tiếp thị và giới thiệu sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để phát
triển tốt dịch vụ ngân hàng bán lẻ của mình.


Tổ Chức Lại Kênh Phân Phối, Tăng Năng Suất Lao Động

Đối với các ngân hàng thương mại, việc phát triển kênh phân phối đang là một
trong những giải pháp mang tính tiên quyết cho phát triển. Tại Việt Nam, gần 50 năm
phát triển vừa qua, hầu hết các ngân hàng mới chỉ có duy nhất kênh phân phối truyền
thống - hệ thống chi nhánh, việc tổ chức lại các kênh phân phối một cách đa dạng đóng

vai trò là một trong những yếu tố làm lên thành công trong cuộc đua cạnh tranh ngày
càng gay gắt về cung cấp các sản phẩm và dịch vụ.
Hiện nay, hệ thống các chi nhánh của ngân hàng đang là kênh phân phối truyền
thống cung cấp tới khách hàng các dịch vụ khách hàng cá nhân riêng lẻ. Bên cạnh đó,
cũng xuất hiện những kênh phân phối mới thông qua sự trợ giúp của công nghệ thông tin
như ATM, Mobile Banking...với nhiều ưu điểm về thời gian và mức phí. Đa dạng hoá
kênh phân phối là việc lựa chọn một hoặc một số kênh phân phối nhằm tạo ra một hệ
thống kênh phân phối hỗn hợp, bổ khuyết lẫn nhau trong hoạt động, nhằm tăng cường
khả năng phục vụ khách hàng, tăng cường khả năng quan tâm tới từng khách hàng (cá
nhân hoá dịch vụ), giảm mức phí và giảm bớt công việc cho nhân viên tại hệ thống chi
nhánh. Hơn nữa, việc thiết lập và gắn kết các kênh phân phối mới sẽ tạo ra khả năng cho
các chi nhánh bán lẻ đem lại, từ đó tăng năng suất lao động.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng có một trong những đặc tính là nhanh tàn lụi, không
thể lưu trữ, nên việc xây dựng các kênh phân phối (mạng lưới bán hàng) trở thành một
vấn đề hết sức trọng yếu trong kinh doanh ở các ngân hàng. Xu hướng của các ngân hàng
hiện này vẫn là tiếp tục củng cố các kênh phân phối truyền thống, bao gồm: (1) Hệ thống
các Chi nhánh; (2) NH Đại lý (Thường được áp dụng đối với các NHTM chưa có chi
nhánh) và phát triển kênh phân phối hiện đại với ưu thế về nhiều mặt, bao gồm:
- Các chi nhánh tự động hoá hoàn toàn. Đặc điểm của kênh phân phối này là hoàn
toàn do máy móc thực hiện, dưới sự điều khiển của các thiết bị điện tử. Nó có những ưu
thế to lớn về chi phí giao dịch và tốc độ thực hiện nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng
đa dạng của khách hàng;


P a g e | 12

- Chi nhánh ít nhân viên: Chi nhánh ít nhân viên có vị trí quan trọng trong hệ
thống ngân hàng, nhất là các chi nhánh lưu động. Ưu điểm của chúng là chi phí thấp, hoạt
động linh hoạt;
- Ngân hàng điện tử (E Banking): Phương thức phân phối này thông qua đường

điện thoại hoặc máy vi tính. Nó cung cấp cho khách hàng rất nhiều tiện ích, tiết kiệm chi
phí và thời gian, hoạt động được ở mọi lúc, mọi nơi;
- Ngân hàng qua mạng: Được chia làm 2 loại: (i) Ngân hàng qua mạng nội bộ
(mạng LAN). Hệ thống này hoạt động dựa trên cơ sở khách hàng có tài khoản tại ngân
hàng, có máy tính cá nhân nối mạng với ngân hàng và đăng ký thuê bao với ngân hàng để
được cấp mã số truy nhập và mật khẩu. Khách hàng có thể dùng máy tính của mình truy
nhập vào máy chủ của ngân hàng để thực hiện các giao dịch, tìm kiếm thông tin; (ii)
Ngân hàng qua mạng internet. Đây là loại hình ngân hàng ở cấp cao hơn. Khách hàng
chỉ cần có máy tính cá nhân nối mạng internet là có thể giao dịch được với ngân hàng mà
không cần phải đến ngân hàng. Ngoài chức năng kiểm tra tài khoản, khách hàng có thể sử
dụng hàng loạt dịch vụ trực tuyến khác như vay, mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư chứng
khoán, chuyển ngân, mở L/C, mở thư bảo lãnh…
2.2. Các yếu tố bên ngoài:
2.2.1 Quyền năng của khách hàng (Bargaining Power of Customers)
Có thể liệt kê các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đang được các TCTD cung cấp
như: Tín dụng; Dịch vụ tiền mặt; Thanh toán chuyển khoản: UNC,Cheque, Thẻ; Chuyển
tiền, T/T, Bankdraft; Khấu trừ tự động, uỷ nhiệm chi định kỳ; Cho thuê két sắt; Ngân
hàng tại nhà (Home banking), mobile banking,internet banking (Telephone banking),
Thanh toán điện tử (e.banking); Kiều hối; Thanh lý tài sản theo di chúc của khách hàng;
Dịch vụ ủy thác; Tư vấn; Bảo hiểm; Dịch vụ bất động sản; Thiết lập và thẩm định dự án;
Dịch vụ ngân hàng trên TTCK; Môi giới tiền tệ(Theo quyết định 351 ngày 07/04/2004
của NHNN Việt Nam); Mua bán ngoại tệ; Thanh toán quốc tế; ... được tóm tắt thông qua
sơ đồ sau:


P a g e | 13

các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện có:
Nhóm Khách Hàng Thể Nhân
Hiện nay chỉ có khoảng 10 - 12% dân số Việt Nam có sử dụng dịch vụ ngân hàng,

nhưng ý kiến của nhóm đối tượng thể nhân quan trọng nhất vì: (1) Nguồn tiền gửi của họ
chính là nguồn máu nuôi sự sống của hầu hết các định chế tài chính, nghĩa là tiếp máu
cho cả nền kinh tế; (2) Sự giao dịch và hiện diện của họ cũng là nguồn doanh thu ổn định
nhất cho hệ thống ngân hàng. Hiện nay, mạng lưới máy ATM đã khá phát triển, người
tiêu dùng có thể tiếp cận dễ dàng, nhưng các ngân hàng cần thường xuyên kiểm tra lượng
tiền trong các máy ATM, nhất là không để các máy này hết tiền. Thời gian đối với người
tiêu dùng rất quan trọng cho nên cần hướng dẫn và thực hiện thủ tục nhanh, vừa làm hài
lòng người tiêu dùng vừa tiết kiệm thời gian cho ngân hàng. Nhân viên phục vụ nghiệp
vụ thanh toán, chuyển tiền cần thực hiện nhanh hơn trong hoặc ngoài địa bàn nhưng cần
phải chính xác để tránh thiệt hại cho cả ngân hàng và người tiêu dùng.
Người tiêu dùng thể nhân cũng có nhu cầu thanh toán ra nước ngoài để phục vụ
nhu cầu của họ. Đây là nghiệp vụ vẫn còn hạn chế do quản lý ngoại hối của Nhà nước
cho nên ngân hàng cần có nhân viên am hiểu thủ tục để hướng dẫn người tiêu dùng từ các
chứng từ cần thiết, hình thức thực hiện…
Nhóm khách hàng pháp nhân
Đây là thành phần người tiêu dùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, vì
họ mang lại nhiều nguồn thu từ lãi vay cho đến phí dịch vụ. Đối tượng này sử dụng nhiều
loại hình dịch vụ nhất từ gửi, rút tiền, vay vốn lưu động và dài hạn, thanh toán quốc tế.


P a g e | 14

Đặc điểm chính của nhóm người tiêu dùng này là (1) số lượng ít nhưng khối lượng nhiều
và chính vì vậy (2) mức độ tổn hại cho chính họ và cho ngân hàng đều lớn.
Cần mở rộng hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch, máy ATM để tạo thuận lợi cho
họ. Thậm chí, để thực sự thu hút có thể giao, nhận số tiền lớn tại nơi kinh doanh, vừa
đảm bảo an toàn, vừa tiết kiệm thời gian cho người tiêu dùng. Một số biện pháp ưu đãi
dành cho doanh nghiệp lớn, có uy tín cũng cần áp dụng như về lãi suất, về phí, kết nối
giao dịch qua internet, tư vấn tài chính.
Thủ tục thực hiện các hợp đồng vay vốn cần rõ ràng và nhanh chóng để không làm

ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các giao dịch
quốc tế, vấn đề thanh toán lại càng quan trọng do đó cần phải có nhân viên nắm vững và
am hiểu thủ tục để hướng dẫn thực hiện. Doanh nghiệp rất quan tâm đến nghiệp vụ thanh
toán và tài trợ thương mại quốc tế vì đó là hoạt động chính của doanh nghiệp trong ngành
xuất nhập khẩu, chiếm đến 47,8%.
2.2.2 Đối thủ cạnh tranh (Competitive Rivalry)
Hầu hết các NHTM hiện nay đều xây dựng khá đầy đủ các nhóm sản phẩm dịch
vụ riêng dành cho doanh nghiệp và cá nhân. Tuy nhiên có thể nhận thấy chúng đều khá
giống nhau. Để có thể tạo ra sự khác biệt và duy trì khả năng cạnh tranh các ngân hàng
cần xây dựng một nền tảng cạnh tranh để tạo sự khác biệt.
Theo nhận định chung của các chuyên gia kinh tế năm 2010 là năm cạnh tranh
khốc liệt của các ngân hàng trong nước trên “thị trường bán lẻ”. Dân số đông trên 86
triệu người, trong đó, dân số trẻ dưới 33 tuổi – nhóm khách hàng thường xuyên thay đổi
hành vi mua sắm – chiếm trên 60% chính là cơ sở để các Ngân hàng nước ngoài cũng
như trong nước tập trung khai thác cho các dịch vụ tín dụng của mình trong thời gian
qua. Vấn đề nhân lực là một nhân tố nền tảng trong việc cạnh tranh như “Giao tiếp niềm
nở, trẻ trung là yếu tố rất quan trọng đối với Ngân hàng nước ngoài khi tuyển dụng nhân
sự. Tình hình chung của nhiều ngân hàng hiện này là nhân sự cấp cao thì chưa cao, nhân
sự có liên hệ trực tiếp với khách hàng thì chưa biết làm thế nào để giữ khách hàng, thậm
chí thiếu cả kiến thức nền… Nhận thức được thực trạng đó, lãnh đạo một số Ngân hàng
như ACB, Techcombank, Maritime Bank, MB… đã chú trọng đào tạo lực lượng nhân
viên có thể cạnh tranh được với ngân hàng nước ngoài”.
Sản phẩm chuyên biệt của Ngân hàng rất nhanh chóng bị bắt chước, do đó “sản
phẩm chuyên biệt” để tạo ra “sự khác biệt” rất khó duy trì lâu, hoặc "sự khác biệt" đó nếu
có cũng không đủ lớn để đảm bảo cạnh tranh. Các ngân hàng cần xây dựng “văn hóa kinh
doanh” và lấy đó làm nền tảng để xây dựng, đầu tư chiều sâu ngay từ ban đầu cho đội
ngũ nhân sự các cấp. Nếu các ngân hàng coi mình là một cỗ máy, thì cỗ máy chỉ hoạt
động hiệu quả và tăng trưởng bền vững nếu có hệ thống nhân lực phù hợp nên các ngân
hàng cần chú trọng tuyển chọn, đào tạo đúng người, đúng việc và thực hiện chăm lo đời
sống tinh thần, vật chất cho nhân viên như một “nghiệp vụ bắt buộc” trong quy trình vận

hành hệ thống”.


P a g e | 15

Hiện nay, các ngân hàng thường thuê tư vấn nước ngoài để xây dựng chiến lược
kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh việc xây dựng chiến lược và thiết lập một mô hình kinh
doanh chuẩn, hiện đại, phù hợp xu hướng hội nhập, cũng cần chú trọng chiến lược quản
lý nguồn nhân lực. Doanh nghiệp có mô hình hiện đại, dịch vụ tốt, hạ tầng vững chắc…,
nhưng thiếu nguồn nhân lực tốt thì khó phát triển nhanh, bền vững, khó tạo ra lợi thế
cạnh tranh. Mặt khác cần gắn kết chiến lược phát triển nguồn nhân lực với những mục
tiêu chung của doanh nghiệp, vì chính con người mới tạo ra sự khác biệt cho doanh
nghiệp và tạo ra lợi thế cạnh tranh. Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, khi nền
tảng của kinh doanh được xây dựng trên quan hệ “cùng chiến thắng”, mỗi nhân viên sẽ
biết tự nâng mình lên cho kịp với yêu cầu và sự phát triển của tổ chức. Ở từng giai đoạn
phát triển, mỗi nhà băng lại có những hoạch định và chiến lược riêng. Vấn đề của các
ngân hàng trong giai đoạn tới là quản trị doanh nghiệp để điều hành chuyên nghiệp.
Thực tế ngân hàng thương mại tập trung ở các đô thị lớn, đặc biệt là hai trung tâm
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt các ngân hàng để đạt được chỉ tiêu đề ra và
cuộc cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng như các cuộc đua huy động, lãi
suất, tiền gửi tiết kiệm… như các chính sách khuyến mãi theo hướng khách gửi nhiều
tiền được ưu đãi lớn, người ít vốn cũng được tặng món quà nhỏ. Thậm chí, có ngân hàng
còn dành giải cho khách là 3 chiếc xe Mercedes trị giá hàng tỷ đồng hoặc thẻ tiết kiệm trị
giá 1 tỷ đồng... Đặc biệt, một số ngân hàng còn đánh vào tâm lý khách hàng là cứ gửi tiền
sẽ nhận ngay thẻ cào trúng thưởng 100% với trị giá giải thưởng lên đến tiền triệu.
Theo tiến sĩ Hà Huy Tuấn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia,
ngân hàng này đưa ra chương trình khuyến mãi hôm trước, một thời gian ngắn sau ngân
hàng đối thủ cũng đưa ra chương trình khuyến mại thậm chí hấp dẫn hơn. Kết quả là tiền
gửi có kỳ hạn rút trước hạn diễn ra khá phổ biến trong thời gian tương đối dài, gây áp lực
đến thanh khoản của hệ thống.

Dưới góc độ ngân hàng, ông Phạm Thanh Hà, Phó Tổng giám đốc Vietcombank
cho rằng, nguyên nhân trực tiếp là áp lực về chỉ tiêu, ngân hàng cổ phần xuất phát từ các
cổ đông, họ ép phải có tăng trưởng về mặt hiệu quả, quy mô, từ đó đẩy xuống Hội đồng
quản trị, rồi ban điều hành, rồi đẩy tiếp xuống nhân viên và người thực hiện cuối cùng sẽ
đẩy ra ngoài khách hàng và thị trường
"Cạnh tranh là tốt cho ngân hàng, cho khách hàng và cả cơ quan quản lý, nhưng rõ
ràng áp lực về chỉ tiêu quá nặng nề như thế thì đương nhiên cạnh tranh càng không lành
mạnh và mấy năm vừa rồi cả hệ thống ngân hàng phải chống đỡ với việc này”
2.3 Phân tích SWOT về môi trường kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng tại Việt
Nam

Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), điều này mang lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động của hệ


P a g e | 16

thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam nói riêng nhiều thuận lợi nhưng cũng
không ít khó khăn nếu như không có sự nỗ lực, cố gắng. Sự mở cửa hệ thống ngân hàng
với những quy định nới lỏng và một lộ trình giảm dần sự bảo hộ của Chính phủ đang và
sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài tham gia, mở rộng hoạt động kinh doanh
tại Việt Nam.
Các ngân hàng nước ngoài có nhiều lợi thế hơn các NHTM Việt Nam về vốn, công
nghệ, trình độ quản lý và đặc biệt là cung ứng những sản phẩm dịch vụ ngân hàng quốc tế
hoàn hảo. Do đó, khi tham gia hoạt động kinh doanh tại thị trường Việt Nam, các ngân
hàng nước ngoài sẽ đi vào phát huy những sản phẩm dịch vụ này. Trong khi đó, mảng
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế (NHQT) ở các NHTM Việt Nam ngoại trừ một số ngân
hàng như VCB, ACB, BIDV, Techcombank... thì hầu hết chưa được quan tâm chú trọng
phát triển. Ngoài ra, cùng với các sản phẩm ngân hàng quốc tế, các ngân hàng nước ngoài
sẽ đưa ra các sản phẩm dịch vụ nội địa đi kèm mang tính cạnh tranh cao dựa vào đó thu

hút thêm nhiều khách hàng lớn, mở rộng thị phần kinh doanh, tăng lợi nhuận. Tình hình
này đặt ra cho các NHTM Việt Nam phải có chiến lược phát triển lâu dài để thích nghi
với sự cạnh tranh gay gắt đó. Vì vậy, việc phân tích SWOT về môi trường kinh doanh
nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam là đặc biệt quan trọng, đây là cơ sở để các NHTM Việt
Nam phát huy những tiềm năng cũng như khắc phục những điểm hạn chế để phát triển
trở thành những ngân hàng đa năng, hiện đại.
Mô h́ình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc nắm bắt và ra
quyết định trong mọi t́ình huống đối với bất cứ tổ chức kinh doanh nào. Viết tắt của 4 chữ
Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats (nguy
cơ), SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định
hướng của một công ty hay của một đề án kinh doanh. SWOT phù hợp với làm việc và
phân tích theo nhóm, được sử dụng trong việc lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến
lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, tiếp thị, phát triển sản phẩm và dịch vụ...
SWOT gồm 4 yếu tố:

Điểm mạnh

Điểm yếu

Cơ hội

Thách thức
Điểm mạnh (S - Strength)
- Thứ nhất: Các NHTM Việt Nam trong những năm qua không những gia tăng
mạng lưới hoạt động mà tốc độ tăng của vốn điều lệ cũng rất cao
Tăng nhanh vốn điều lệ không chỉ tăng uy tín của ngân hàng với khách hàng mà
còn là cơ sở quan trọng giúp các NHTM Việt Nam phát triển, mở rộng quy mô hoạt động
kinh doanh an toàn và hiệu quả. Trong thời gian qua, nhiều NH đã có tốc độ tăng vốn rất




P a g e | 17

cao như: Sacombank sẽ tăng thêm 17% vốn điều lệ để nâng vốn điều lệ từ 10.047 tỉ đồng
lên hơn 11.700 tỉ đồng trong năm 2012.
Cả 3 ngân hàng lớn là Agribank, Vietcombank, BIDV đều đã có vốn điều lệ trên 1
tỷ USD. VietinBank cũng đạt gần 1 tỷ USD, mức vốn điều lệ của ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) lên 23.174 tỷ đồng, vốn điều lệ của ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam tăng từ hơn 20.229,7 tỷ đồng lên 26.217,7 tỷ đồng trong
2012.
Như vậy, đến năm 2012, cả 3 ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam
cũng là 3 ngân hàng Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn là BIDV, Agribank, Vietcombank
đã có vốn điều lệ trên 1 tỷ USD. Ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất hiện nay là Agribank
đạt 29.606 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, tốc độ gia tăng nhanh mạng lưới chi nhánh, với mạng lưới rộng khắp
này các NH có thể tiếp cận đến đại đa số khách hàng ở khắp mọi miền đất nước.
Agribank có mạng lưới hoạt động: gần 2.400 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn
quốc, Chi nhánh Campuchia.
Biểu đồ mạng lưới của 3 ngân hàng BIDV, Vietcombank và Vietinbank tinh đến
đầu năm 2012

- Thứ hai: Các NHTM Việt Nam đều đang từng bước hiện đại hóa, ứng dụng
những phần mềm công nghệ hiện đại trong việc quản lý ngân hàng nói chung và trong
hoạt động nghiệp vụ NHQT nói riêng.
Hiện nay, nhiều NHTMCP Việt Nam như Techcombank, VP bank, MB... rất quan
tâm và đầu tư lớn vào công nghệ ngân hàng. Chỉ trong vòng 2 năm gần đây, riêng VP
bank đã đầu tư gần 10 triệu USD cho công nghệ ngân hàng bao gồm việc nâng cấp và sử
dụng hệ thống Core Banking T24 của hãng Temenos (Thụy Sĩ) - hiện là hệ thống được
đánh giá cao nhất trong hệ thống các phần mềm ngân hàng. Với những sự đầu tư này sẽ



P a g e | 18

giúp các NH đáp ứng được sự đa dạng về nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả năng
cạnh tranh trong các nghiệp vụ NHQT.
- Thứ ba: Tích cực trong việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ NHQT
Nhiều ngân hàng đã nghiên cứu và triển khai những dịch vụ mới như bảo lãnh,
bao thanh toán trong tài trợ xuất nhập khẩu, hợp đồng ngoại hối tương lai, hợp đồng
ngoại hối quyền chọn trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Hiện nay, có khoảng 80%
NHTM Việt Nam đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực thanh toán quốc tế (TTQT).
- Thứ tư: Am hiểu khách hàng trong nước và có một lượng lớn khách hàng truyền
thống
Công tác mở rộng chăm sóc và quan hệ với khách hàng đã được nâng cao, đặc
biệt là công tác mở rộng và thu hút khách hàng là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thị
phần trong TTQT của các NHTM Việt Nam vẫn chiếm khoảng trên 80%. Trong đó, vị trí
số một là của VCB, đứng thứ hai là BIDV. Doanh số trong TTQT và doanh số mua bán
ngoại tệ của các NHTM Việt Nam cũng tăng mạnh trong những năm gần đây.
- Thứ năm: Phí dịch vụ của các NHTM Việt Nam là tương đối thấp so với các
ngân hàng nước ngoài
Xem xét biểu phí dịch vụ TTQT bằng L/C của VCB và Standard Chartered bank,
có thể thấy phí dịch vụ của của VCB chỉ vào khoảng 70% so với Standard Charter bank.
Điều này cũng là một lợi thế của các NHTM Việt Nam khi thực hiện dịch vụ, thu hút
thêm khách hàng. Tuy nhiên, trong TTQT, giá trị của những hợp đồng ngoại thương
thường có giá trị cao, vì vậy, đối với phần lớn khách hàng, tính an toàn trong giao dịch
được đặt lên hàng đầu. Họ sẽ lựa chọn NH có uy tín, thương hiệu, chất lượng sản phẩm
dịch vụ tốt, do đó, bên cạnh việc duy trì mức phí cạnh tranh với các NH nước ngoài thì
các NHTM Việt Nam cần tích cực trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo uy tín
thương hiệu. (Bảng 1)

Bảng 1: Biểu phí dịch vụ thanh toán L/C của VCB và Standard

Chartered bank
S

Dịch vụ

TT

Mức phí
VietcomBank

Thư tín dụng
1

L/C nhập khẩu

Standard
Chartered


P a g e | 19

1

Ký quỹ 100%

Phát hành L/C

.1

0.05% giá trị L/C

Min:50
USD;Max:500 USD

0.1% giá trị
L/C
Min 45
USD + Điện phí

Ký quỹ dưới 100%
Phần ký quỹ: 0.05%
Phần chưa ký quỹ:
0.05%/tháng
1
.2

Hủy L/C theo
yêu cầu

1
.3

Thanh toán
L/C

Min:20 USD;
Max:500 USD

2

L/C xuất khẩu


2

Thông báo

.1

20 USD + Phí trả
NHNN nếu có
0.2%

Với L/C dài:
Như trên +
25 USD

50 USD
0.125%
Min:25USD

20 USD

25 USD

10 USD

20 USD

L/C
2


.2

Thông báo sửa
đổi L/C

2

Xác nhận L/C

.3

0.15%/tháng/trị giá
L/C

Báo giá từng
giao dịch

Min: 50 USD
(Nguồn: VCB, Standard Chartered)
Điểm yếu (W-Weaknesses)
Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực
của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công
nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
- Thứ nhất: Năng lực của các NHTM Việt Nam còn quá thấp so với yêu cầu hội
nhập
Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn
nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương
mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà




P a g e | 20

nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân
hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và
trên 73% thị trường tín dụng.
Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp
(dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế
(8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi
ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Biểu 1: Vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam tính đến năm 2010
Đơn vị: Tỷ đồng
ST

Ngân hàng

Vốn điều lệ

Tính đến ngày

2000
1500
2708

18/02/2011
31/11/2010
31/05/2011

T
1

2
3

Phương Tây
Bảo Việt
Phát triển nhà
Đồng bằng sông Cửu
Long

(Nguồn: www.sbv.gov.vn)
Với mức vốn điều lệ thấp sẽ làm giảm khả năng triển khai các nghiệp vụ NHQT
như bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu (XNK)… ; cũng như tăng khả năng cạnh tranh với
các ngân hàng nước ngoài
- Thứ hai: Mức phát triển công nghệ của các NHTM Việt Nam chưa đồng đều
Nhiều NH đã áp dụng những công nghệ hàng đầu thế giới nhưng còn nhiều NH
vẫn áp dụng trình độ công nghệ ở mức thấp, điều này gây khó khăn cho các NH trong
việc phối kết hợp việc triển khai các sản phẩm dịch vụ đòi hỏi có sự liên minh liên kết
cao như kết nối sử dụng thẻ giữa các NH, đại lý bao thanh toán, kinh doanh ngoại tệ...
- Thứ ba: Năng lực quản lý, điều hành trong lĩnh vực nghiệp vụ NHQT còn nhiều
hạn chế
Ngoài một số NHTM Nhà nước và cổ phần lớn được thành lập cách đây nhiều
năm thì một số lượng không nhỏ các NH mới được thành lập trong thời gian gần đây đều
là từ các tập đoàn, các công ty góp cổ phần hoạt động ngoài lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Vì vậy, có thể nói các NH này còn rất thiếu kinh nghiệm quản lý, đặc biệt là trong các
nghiệp vụ NHQT, một lĩnh vực hoạt động nhiều rủi ro không chỉ giới hạn trong nước mà
triển khai ra khắp thế giới. Vì vậy, đây cũng chính là lý do mà một số các NHTM Việt
Nam chỉ tập chung vào các sản phẩm dịch vụ truyền thống và thiếu mạnh dạn đầu tư vào
các sản phẩm dịch vụ NHQT.
- Thứ tư: Chất lượng nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế chưa cao



P a g e | 21

Đội ngũ nhân viên còn thiếu kinh nghiệm trong các lĩnh vực TTQT, tài trợ XNK
chưa thực sự cung cấp cho các doanh nghiệp dịch vụ tư vấn một cách hoàn hảo về các
hợp đồng thương mại quốc tế. Trong khi đó, chế độ tiền lương chưa thỏa đáng, dễ dẫn
đến hiện tượng chảy máu chất xám mà mảng nghiệp vụ NHQT, đặc biệt là lĩnh vực
TTQT rất cần những cán bộ giỏi về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ.
- Thứ năm: Mức độ đa dạng của nghiệp vụ NHQT chưa cao, chưa đồng đều ở các
NH
Nhiều NH đã đưa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại như bao thanh toán,
cho thuê tài chính... vào hoạt động kinh doanh, tuy nhiên, mức độ áp dụng còn khiêm tốn.
Trong kinh doanh ngoại tệ, vẫn sử dụng nghiệp vụ Spot là chủ yếu, các nghiệp vụ phái
sinh chưa được sử dụng nhiều. Chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu chủ yếu theo hình thức
truy đòi. Các loại L/C được sử dụng trong thanh toán quốc tế chưa đa dạng, chưa phát
triển các L/C đặc biệt như: L/C tuần hoàn, L/C đối ứng, L/C điều khoản đỏ...
Cơ hội (O - Opportunities)
- Thứ nhất: Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ làm tăng uy tín và vị thế của các
NHTM Việt Nam trên thị trường thế giới
Việt Nam là thành viên của WTO đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và
ngành Ngân hàng nói riêng có những bước phát triển nhanh chóng. Các NHTM Việt Nam
có nhiều cơ hội tăng cường các mối quan hệ với các NH nước ngoài tạo uy tín, xây dựng
thương hiệu, mở rộng thị trường kinh doanh đến nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó thể
hiện ở số lượng NH đại lý của một số NH tăng đều qua các năm. (Bảng 4)


Bảng 4. Số lượng ngân hàng đại lý của một số NHTMVN năm 2011
Ngân hàng

BI

DV

Số lượng
ngân hàng đại lí

Vieti
nbank

Ag
ribank

Exi
mbank

1.

900

10

852

CB

160
0

V

200


65

- Thứ hai: Mở cửa nền kinh tế giúp các NHTM Việt Nam mở rộng quan hệ hợp
tác, liên doanh, liên kết với các NH nước ngoài
Trong thời gian qua, nhiều ngân hàng trong nước đã có những cơ hội trong việc
hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trong việc góp vốn, mở rộng thị trường, phát triển
các sản phẩm dịch vụ mới. Như Sacombank có đối tác chiến lược là ANZ của Australia
nắm giữ 10% vốn cổ phần và 20% thuộc về Công ty tài chính quốc tế IFC thuộc WB và
Dragon Financial Holdings của Anh. Standard Chartered bank của Anh mua 8,56% cổ
phần của ACB, hơn 21% vốn cổ phần của đối tác nước ngoài còn lại thuộc về Connaught
Investor (Jardine Mutheson Group) và IFC thuộc WB. Hay Citibank là một tập đoàn ngân


P a g e | 22

hàng nổi tiếng, đứng hàng lớn nhất thế giới của Mỹ đã ký hợp đồng hợp tác với NH Đông
Á phát triển dịch vụ bán lẻ, kết nối hệ thống thanh toán thẻ của Đông Á với hệ thống thẻ
của Citibank, với sự hợp tác này tạo điều kiện cho Citibank có điều kiện mở rộng hoạt
động dịch vụ ngân hàng hiện đại tiện ích ở Việt Nam, ngược lại phát triển khách hàng của
Citibank tại Mỹ, nhất là Việt kiều chuyển kiều hối về nước qua Đông Á, cũng như mở
rộng dịch vụ thẻ của Đông Á tại Mỹ.
Việc các NH, tập đoàn tài chính nước ngoài mở rộng hoạt động tại thị trường Việt
Nam thông qua con đường sở hữu vốn cổ phần trong các NHTM Việt Nam hay hợp tác
liên doanh phát triển sản phẩm dịch vụ đem lại nhiều lợi ích trong quá trình phát triển của
cả hai bên. Về phía các NH nước ngoài, không tốn kém chi phí để mở chi nhánh mới, có
sẵn mạng lưới, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực, số lượng khách hàng dồi dào của
các NHTM Việt Nam... Về phía các NHTM Việt Nam, không những nâng cao được năng
lực tài chính mà còn hiện đại hóa được công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực... theo tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng kinh doanh trên thị

trường quốc tế.
- Thứ ba: Hội nhập kinh tế vừa là động lực vừa là sức ép, buộc các NHTM Việt
Nam phải nâng cao năng lực phát triển nghiệp vụ NHQT
Trong điều kiện hiện nay, với sự mở cửa hệ thống ngân hàng, các NH nước ngoài
theo lộ trình sẽ dần dần được nới lỏng hoạt động và đối xử bình đẳng trong kinh doanh,
các NHTM Việt Nam không thể chỉ tập trung vào các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống
với những khách hàng truyền thống mà phải hướng vào phát triển các sản phẩm dịch vụ
mới như bảo lãnh, bao thanh toán, các hợp đồng phái sinh... để trở thành những ngân
hàng đa năng, hiện đại. Có như vậy mới tăng được khả năng cạnh tranh của mình, đồng
thời giữ được khách hàng và mở rộng thị phần kinh doanh.

Thách thức (T-Threats)
- Thứ nhất: Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng số lượng các ngân hàng có
tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý
Điều này sẽ gây áp lực rất lớn đối với hệ thống các ngân hàng trong nước. Các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài hiện hoạt động tại Việt Nam đều là những thương hiệu nổi
tiếng trên thị trường tài chính thế giới như HSBC, Citibank, ANZ... Trong khi nhiều
NHTM Việt Nam có mức vốn điều lệ chưa tới 3.000 tỷ đồng thì ngân hàng con 100% vốn
nước ngoài HSBC đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 5/01/2009 với vốn điều lệ
3.000 tỷ đồng. Các ngân hàng nước ngoài liên tục mở rộng mạng lưới hoạt động của
mình. Tại TP. Hồ Chí Minh, ngoài trụ sở chính và Sở giao dịch tại tòa nhà Metropolitan,
HSBC còn có 3 phòng giao dịch. Tại Hà Nội, HSBC cũng có 1 chi nhánh và 3 phòng
giao dịch. Cũng giống như HSBC, ANZ cũng đang mở rộng mạng lưới giao dịch tại Việt
Nam với 01 Sở giao dịch tại Hà Nội, 01 chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh và 6 phòng giao
dịch.
- Thứ hai: Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam phải chịu tác
động rất lớn của thị trường tài chính thế giới.


P a g e | 23


Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống
ngân hàng trên toàn thế giới và các NHTM Việt Nam cũng chịu sự tác động không nhỏ.
Số lượng các ngân hàng đại lý và ngân hàng có quan hệ tài khoản với các NHTM Việt
Nam sẽ giảm xuống. Nếu các NHTM Việt Nam không tỉnh táo, quan hệ với các ngân
hàng có tình hình tài chính suy yếu thì sẽ gặp rủi ro và đánh mất uy tín của mình.
Khủng hoảng tài chính thế giới kéo theo kim ngạch XNK của các nước trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng giảm mạnh. Kim ngạch XNK giảm, ảnh hưởng rất
lớn đến các nghiệp vụ NHQT của các NHTM Việt Nam.
- Thứ ba: Tỷ giá hối đoái còn biến động
Do tình hình kinh tế trong nước và thế giới có những diễn biến bất thường nên tỷ
giá của VND và các đồng tiền khác liên tục thay đổi. Thị trường ngoại tệ tiền mặt Việt
Nam phát triển khá mạnh. Thị trường ngầm tiền mặt ngoại tệ phục vụ cho bộ phận nhập
khẩu lậu qua đường biên giới cộng với nhu cầu thích sử dụng ngoại tệ tiền mặt của dân
chúng nên thị trường này rất sôi động. Tỷ giá ở thị trường này luôn cao hơn ngân hàng.
Ngoài ra, chênh lệch giá mua và giá bán ngoại tệ của các ngân hàng ở Việt Nam luôn ở
mức cao. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi có thu ngoại tệ không
muốn bán cho các ngân hàng mà bán qua thị trường chợ đen. Nguồn thu ngoại tệ của các
ngân hàng vì thế cũng khan hiếm theo. Khi không có nguồn thu ngoại tệ đảm bảo thì rất
khó khăn cho các NHTM trong việc thanh toán hàng nhập khẩu cho các nhà nhập khẩu
3. Triển vọng phát triển của hệ thống ngân hàng
Tình hình kinh tế thế giới năm 2012 vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
nhiều rủi ro, điển hình là cuộc khủng hoảng nợ công tại khu vực đồng tiền chung châu
Âu, đà tăng trưởng chậm lại của các nền kinh tế phát triển mới nổi, tỉ lệ lạm phát cao,
tình hình bất ổn chính trị và thiên tai tại một số quốc gia trên thế giới. Nền kinh tế Việt
Nam cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng chung và đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức.
Trong bối cảnh đó, khu vực châu Á và châu Á - Thái Bình Dương được xem sẽ là
động lực quan trọng giúp nền kinh tế thế giới vượt qua khủng hoảng kinh tế, tài chính
toàn cầu, đặc biệt là thúc đẩy giao thương quốc tế tăng lên gấp đôi trong 10 năm tới.

Trong đó, Việt Nam được hy vọng sẽ sớm tham gia vào danh sách "những người chơi
quan trọng trong cuộc chơi thương mại toàn cầu".
Theo ông Nick Hayward, những kết quả đó là do sự kiên trì của Chính phủ Việt
Nam với các mục tiêu năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy
trì tăng trưởng hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu lại nền kinh tế,
nâng cao chất lượng và hiệu quả cạnh tranh. Đặc biệt, quyết tâm thực hiện Nghị quyết
11/CP đã thể hiện cam kết của Việt Nam về cải cách nền kinh tế, cải thiện quản trị doanh
nghiệp nhà nước, khuyến khích tăng trưởng ổn định, bền vững... Trong đó, các hoạt động
mua bán, sáp nhập nhằm nỗ lực tái cấu trúc ngành ngân hàng cho thấy một cách rõ ràng
quyết tâm cải cách và giải quyết những vấn đề đang đặt ra của ngành này."Đây chính là


P a g e | 24

những yếu tố xúc tác cho đà phát triển của Việt Nam những năm tới. Tất nhiên là vẫn còn
rất nhiều thách thức ở phía trước song những gì Chính phủ Việt Nam đã và đang thể hiện
cho thấy cam kết của họ trong việc xử lý những vấn đề hóc búa nhất có hại cho sự phát
triển của nền kinh tế đất nước. Việc thực hiện cải cách ở Việt Nam, nhất là ở nhiều ngành
kinh tế quan trọng, đã tiến được những bước dài và đang tạo ra môi trường tốt hơn cho
nhà đầu tư nước ngoài với nhiều cơ hội lớn đang hiện diện trong nhiều ngành và nhiều
khu vực kinh tế!" - ông Nick Hayward nhấn mạnh.
Theo Đại diện thường trú của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam Sanjay
Kalra, uy tín của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với thị trường đã tăng lên thể hiện
qua kết quả điều hành chính sách tiền tệ đã theo rất sát các diễn biến kinh tế vĩ mô và trên
cơ sở đó đã đưa ra các biện pháp chính sách phù hợp. Đồng tình với quan điểm này, ông
Sanjay Kalra ủng hộ mục tiêu mà NHNN đặt ra trong năm 2012 là giữ lạm phát ở mức
một con số, duy trì ổn định tỷ giá, cố gắng đảm bảo đồng tiền không mất giá quá 3%. Bên
cạnh đó, “Chính phủ cần phải triển khai các cải cách kinh tế cần thiết khác trong khu vực
ngân hàng, khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, bởi vấn đề hiện nay
không phải là chính sách kinh tế vĩ mô mà là các vấn đề mang tính cơ cấu”, ông Sanjay

Kalra khuyến nghị.
Trên thực tế, sự kiên nhẫn của NHNN đã giúp thị trường vốn ổn định, đưa luồng
vốn lành mạnh vào thị trường giúp hàng nghìn doanh nghiệp phục hồi hoạt động cũng
như 46.000 doanh nghiệp thành lập mới trong tháng 8/2012 so với trên 35.000 doanh
nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động.
Mặc dù vẫn còn những doanh nghiệp than phiền chưa tiếp cận được vốn hay mong
muốn lãi suất cho vay hạ nữa, nhưng thực tế cho thấy, thị trường đã có những chuyển
động rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp đã thoát khỏi tình trạng thua lỗ, giảm được hàng tồn kho
và lên kế hoạch kinh doanh mới…
Đánh giá cụ thể thì:
Tăng trưởng tín dụng sẽ được cải thiện trong thời gian tới: Các động thái vùa qua
của NHNN, bao gồm giảm mặt bằng lãi suất, nới lỏng tín dụng cho bất động sản và
chứng khoán, xem xét hỗ trợ doanh nghiệp xử lý khoản vay không trả đúng hạn cho thấy
cơ quan này đang đảy nhanh quá trình khơi thông lại dòng vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Đồng thời, các yếu tố về mùa vụ và tín dụng ảo cũng không còn. Do vậy tín dụng sẽ được
cải thiện trong thời gian tới
Lãi suất giảm có thể thay đổi cơ cấu thu nhập của các NHTM: một số NH lớn hiện
nay đã tiến hành giảm lãi suất cho vay với một số lĩnh vực vay nhất định. Ngoài ra vấn đề
thanh khoản của các NH nhỏ đang được NHNN từng bước tháo gỡ, từ đó hạn chế những
NH này phụ thuộc vào nguồn vốn trên thị trường lien ngân hàng. Do đó nguồn thu nhập
lãi năm 2012 của các NH có thể bị cắt giảm, đặc biệt lãi từ hoạt động lien NH. Thay vào
đó nhiều NH sẽ đẩy mạnh các nguồn thu khác, trong đó có thu nhập từ hoạt động dịch vụ.
Kỳ vọng nợ xấu sẽ giảm: Tình hình nợ xấu sẽ được cải thiện đến thời điểm cuối
năm 2012 do 3 nguyên nhân chính sau. Thứ nhất, hầu hết các NH dều tăng cường công
tác quản lý rủi ro, đặc biệt là quy trình lien quan đến hoạt động tín dụng, trong năm nay
sau nhiều sai phạm gặp phải trong năm 2011.Điển hình là CTG với nhiều thay đổi trong


P a g e | 25


quy trình cấp tín dụng và điều chỉnh hạn mức cho các chi nhánh. Thứ hai, theo đề án “ Cơ
cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”, NHNN sẽ xem xét mua lại một
số công trình, bất động sản thế chấp vay ngân hàng sắp hoàn thành hoặc đã hoàn thành
nhưng chua bán được để phục vụ cho mục đích an sinh xã hội và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Việc làm này tạo điều kiện cho các NH có cơ hội thu hồi vốn và góp phần
làm tỷ lệ nợ xấu giamr xuống. Thứ ba, mặt bằng lãi suất đang giảm dần, kéo theo rủi ro
tín dụng cũng như rủi ro của doanh nghiệp giảm xuống và doanh nghiệp có cơ hội để cải
thiện kết quả kinh doanh để trả nợ . Thêm vào đó khi lãi suất huy động giảm một phần
dòng vốn sẽ tìm kiếm các kênh sinh lời khác như bất động sản, chứng khoán và góp phần
giúp thị trường này ấm lên, từ đó góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu
Xu hướng hợp nhất và sáp nhập tiếp tục diễn ra mạnh mẽ: Không chỉ có các NH
yếu kém mà cả các NH hoạt động tốt trong hệ thống cũng đang tìm kiếm cơ hội sáp nhập
nhằm nâng cao quy mô, khả năng cạnh tranh và sức mạnh thương hiệu


Giải pháp

NHNN đã đưa ra một số giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động
ngân hàng trong 6 tháng cuối năm, cụ thể:
Một là, điều hành lượng tiền cung ứng thông qua các công cụ chính sách tiền tệ
phù hợp với diễn biến của thị trường và chỉ đạo của Chính phủ, đảm bảo góp phần kiềm
chế lạm phát ở mức 6-8%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-16%, thặng dư
cán cân thanh toán quốc tế trên 3 tỷ USD, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý
(5,2-5,7%), không gây áp lực lạm phát cho năm 2013 và các năm tiếp theo, tạo môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế bền vững.
Hai là, theo dõi sát tình hình tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống, đảm bảo
tăng trưởng tín dụng nhưng đi đôi với an toàn hệ thống và từng TCTD; Chỉ đạo các
TCTD tập trung vốn cho vay các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh
nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ; kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các lĩnh
vực không khuyến khích so với tổng dư nợ cho vay,phấn đấu trong 6 tháng cuối năm đạt

mức tăng trưởng tín dụng 8-10%.
Ba là, theo dõi sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp theo các ngành kinh
tế để đề xuất kịp thời các giải pháp về tiền tệ, tín dụng phù hợp với chủ trương và định
hướng của Chính phủ. Chủ động làm việc ngay với các bộ, ngành, các hiệp hội ngành
hàng, các địa để phối hợp tìm các giải pháp xử lý hàng tồn kho, tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp, đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Có giải pháp hợp lý xử lý nợ xấu
của doanh nghiệp và ngân hàng tạo thêm thanh khoản cho nền kinh tế.


×