Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tìm hiểu thực trạng dạy tiết luyện tập môn Toán 8 tại trường THCS Thái Hưng, Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.58 KB, 12 trang )

Tìm hiểu thực trạng dạy tiết luyện tập môn Toán 8 tại
trường THCS Thái Hưng – Thái Bình
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dạy học không chỉ là dạy cho học sinh kiến tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ
xảo, phát triển năng lực mà còn bao hàm cả việc hình thành thế giới quan, nhân sinh
quan, phẩm chất đạo đức, khả năng thẩm mỹ, … giúp học sinh phát triển toàn diện.
Chính vì lý do đó mà ngành giáo dục chúng ta không ngừng đổi mới để đáp ứng nhu
cầu phát triển chung của xã hội.
Năm học 2002 – 2003 cả nước bắt đầu thực hiện việc thay đổi sách giáo khoa
và đổi mới phương pháp giảng dạy ở các bộ môn, nhất là môn toán. Cùng với việc
đổi mới phương pháp là việc đưa vào sách giáo khoa nhiều tiết luyện tập với sô
lượng dạng bài tập phong phú hơn. Bên cạnh việc giúp cho học sinh củng cô các kiến
thức đã học, giúp giáo viên bổ sung những thiếu sót trong tiết dạy trước cũng như mở
rộng nâng cao kiến thức cho học sinh thì cũng kéo theo nhiều khó khăn khi giảng dạy
những tiết này. Phần lớn là do tình trình độ nhận thức của học sinh trong một lớp
không đều nhau, cũng như việc đánh giá vai trò tiết luyện tập ở người dạy, người học
chưa đúng, chưa nghiêm túc. Vậy làm thế nào để phát huy hết hiệu quả của tiết luyện
tập? Dạy tiết luyện tập như thế nào để không gây nhàm chán, thu hút mọi đôi tượng
học sinh để đạt được những yêu cầu mục tiêu đặt ra? Nhận thấy điều đó nên tôi quyết
định chọn đề tài “Tìm hiểu thực trạng dạy tiết luyện tập môn Toán 8 tại trường
THCS Thái Hưng, Thái Bình” để tìm hiểu nghiên cứu nhằm phục vụ cho việc giảng
dạy của bản thân và đồng nghiệp.
II/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Đôi tượng nghiên cứu là giáo viên dạy môn Toán 8 và học sinh ở Trường THCS
Thái Hưng, Huyện Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình, cụ thể ở các lớp:
8A1: Trung bình – khá – giỏi.
8A2: Yếu – Trung bình.
8A3: Yếu – trung bình.



III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
-Tại trường THCS Thái Hưng, Huyện Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình
-Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2016 đến tháng 4/2017
-Môn học là môn Toán 8 theo chương trình chuẩn của Bộ GD-ĐT
IV/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan
Tìm hiểu khung chương trình của môn Toán 8 bậc THCS. Nghiên cứu, đề xuất
các giải pháp, sáng kiến cách dạy tiết luyện tập phát huy tính tích cực với mọi đôi
tượng học sinh ở môn toán 8
4.2. Nghiên cứu thực trạng
Tìm hiểu thực trạng dạy tiết luyện tập với đôi tượng học sinh ở môn toán 8
Trường THCS Thái Hưng
4.3. Đề xuất các giải pháp, sáng kiến kinh nghiệm để giải quyết vấn đề
Đề ra những giải pháp, sáng kiến kinh nghiệm để giúp cải thiện tình hình dạy
tiết luyện tập môn Toán 8 ở trường THCS Thái Hưng
V/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đọc và tham khảo các tài liệu, các sách lí luận như: Sách giáo khoa toán khôi 6
– 7 – 8 – 9, sách giáo viên môn toán khôi 6 – 7 – 8 – 9; Phương pháp dạy học sô học
và đại sô ở trường trung học cơ sở của Hoàng Chúng (NXB GD); Hoạt động hình
học ở trường THCS của Phạm Gia Đức – Phạm Đức Quang (NXB GD); . .
Dự giờ giáo viên, thực nghiệm bằng chính tiết dạy của mình, đàm thoại với
đồng nghiệp, học sinh.
Sử dụng phương pháp anket, tiến hành kiểm tra, thu thập thông tin về sự thay
đổi chất lượng trước và sau khi thực hiện đề tài tại các khôi lớp mà mình tiến hành
nghiên cứu




PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Định nghĩa phương pháp dạy và thủ thuật dạy.
- Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên trong chỉ đạo, tổ
chức các hoạt động học tập nhằm giúp học sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học.
- Thủ thuật dạy học: Các biện pháp đòi hỏi phải có kĩ thuật, kinh nghiệm được
dùng hỗ trợ cho việc thực hiện phương pháp dạy học có hiệu quả.
Do đặc điểm bộ môn toán nên người giáo viên phải đặc biệt chú ý sử dụng các
thủ thuật dạy học một cách hợp lý nhằm giúp cho tiết dạy đạt hiệu quả, nhất là các
tiết luyện tập . Vậy môn toán có những đặc điểm nào?
2. Đặc điểm của môn toán:
Theo Ăng-ghen “Đối tượng của toán học thuần tuý là những hình dạng và
những quan hệ số lượng của thế giới khách quan” (Trích theo Hoàng Chúng, 1978,
tr.20), tức là đặc điểm trước nhất của toán học là tính trừu tượng cao và tính thực tiễn
phổ dụng. Tính trừu tượng không phải chỉ có trong toán học mà là đặc điểm của mọi
khoa học. Nhưng trong toán học, cái trừu tượng được tách ra khỏi mọi chất liệu của
đôi tượng, chỉ giữ lại những quan hệ sô lượng dưới dạng cấu trúc mà thôi. Như vậy,
toán học có tính chất trừu tượng cao độ. Sự trừu tượng hoá trong toán học diễn ra
trên các bình diện khác nhau, tuy nhiên tính trừu tượng cao độ chỉ che lấp chứ không
làm mất đi tính thực tiễn của toán học. Toán học có nguồn gôc thực tiễn. Sô học ra
đời trước hết do nhu cầu đếm. Hình học phát sinh do sự cần thiết phải đo ruộng đất
bên bờ sông Nin (Ai Cập) sau những trận lụt hằng năm…. Do đó toán học còn có
tính phổ dụng, có thể áp dụng vào các môn học khác.
Thứ hai, cần phải nhấn mạnh tính logic và tính thực nghiệm của toán học. Khi
xây dựng toán học, người ta dùng suy diễn logic, cụ thể là phương pháp tiên đề –
xuất phất từ các khái niệm nguyên thuỷ và các tiên đề rồi dùng các quy tắc logic để
định nghĩa các khái niệm khác và chứng minh các mệnh đề khác. Nhưng do đặc điểm
lứa tuổi và yêu cầu của cấp học, bậc học, nên một sô khái niệm được trình bày trong
sách giáo khoa không phải là nguyên thuỷ, và thừa nhận (không chứng minh) một sô
mệnh đề không phải tiên đề hoặc chấp nhận một sô chứng minh chưa thật chặt chẽ:
Định lý Ta lét (Thuận, đảo), …

Vì vậy khi giảng dạy, người dạy phải nắm vững các đặc điểm trên của toán học
và phải đảm bảo sự thông nhất giữa suy đoán và suy diễn – là một đặc điểm tư duy
của toán học – nhất là khi dạy tiết luyện tập. Nhằm mang lại kết quả cao nhất mà tiết
dạy cần đạt.
3. Vai trò, vị trí và ý nghĩa của môn toán:
Môn toán có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo
dục phổ thông – phát triển nhân cách, phát triển năng lực trí tuệ, rèn luyện những đức
tính, phẩm chất của người lao động (Tính cẩn thận, chính xác, tính kỷ luật, phê phán,
và óc thẩm mỹ,..).


Môn toán cung cấp vôn văn hoá toán học phổ thông một cách có hệ thông và
tương đôi hoàn chỉnh.
Ngoài ra, môn toán còn là công cụ giúp cho việc dạy và học các môn học khác.
Do đó người dạy cần phải đảm bảo cung cấp cho học sinh đầy đủ các kiến thức
cơ bản, trọng tâm của chương trình, phải giúp học sinh thấy được vai trò, vị trí và ý
nghĩa quan trọng của môn toán trong cuộc sông cũng như đôi với những môn học
khác. Vì vậy, khi dạy tiết luyện tập giáo viên cần xây dựng bài học một cách hệ
thông, khoa học đảm bảo cung cấp đầy đủ cho học sinh các kỷ năng cơ bản mà mục
tiêu đặt ra; cũng như phải củng cô khắc sâu cho học sinh những kiến thức trọng tâm
đã học. Đây là một việc không dễ dàng thực hiện được do trình độ, tâm lý của từng
học sinh trong một lớp không giông nhau.
4. Nhiệm vụ của tiết luyện tập trong môn Toán THCS
Ngay từ tiểu học, học sinh đã quen và biết đến tiết luyện tập. Nhưng do nhận
thức chưa đúng về vai trò của tiết luyện tập – tiết luyện tập chỉ đơn thuần là tiết giải
bài tập – do đó thái độ học tập của các em chưa tích cực, dẫn đến tình trạng các em
ngán học các tiết toán, nhất là các tiết luyện tập; bởi “Không khí của lớp trong các
tiết luyện tập rất trầm lắng, các em chủ yếu theo dõi thầy (cô) giải bài, các bạn khá
giỏi làm rồi chép vào tập”, hay “ Bài tập thầy (cô) cho quá dễ, nhìn vào là biết kết
quả”.. .

Trong phân phôi chương trình toán học THCS các khôi lớp hiện nay, sô lượng
tiết luyện tập được tăng đáng kể, nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục đặt ra “Tăng thực
hành, giảm lý thuyêt”.
Tuy sô lượng tiết luyện tập được tăng đáng kể, vai trò của tiết luyện tập được
nâng cao, nhưng việc dạy tiết luyện tập nhằm đạt hiệu quả cao nhất – phát huy tính
tích cực chủ động sáng tạo của mọi đôi tương học sinh – là điều không dễ dàng.
5. Đặc điểm tâm lý của học sinh trong giờ học toán
Chúng ta đều thấy: Kích thích sự hứng thú để học sinh yêu thích học tập bộ
môn là một yếu tô không kém phần quan trọng trong việc dạy học, là mục tiêu mà bất
kỳ người thầy người cô nào cũng mong muôn đạt tới.
Trình độ nhận thức của các em học sinh trong một lớp học thực tế không bằng
nhau. Có những em học rất tôt, rất khá, giỏi môn toán, tiếp thu nhanh những gì giáo
viên cung cấp. Bên cạnh đó, cũng có những em tiếp thu rất chậm. Cho nên khi dạy
tiết luyện tập, người thầy phải tìm cách lôi cuôn tất cả các em, làm cho các em thấy
được cái hay, sự cần thiết và những lợi ích của môn toán trong cuộc sông cũng như
đôi với các môn học khác khi đề ra hệ thông bài tập hợp lý.


II. THỰC TRẠNG DẠY TIẾT LUYỆN TẬP MÔN TOÁN 8 TẠI
TRƯỜNG THCS THÁI HƯNG
1. Đặc điểm tình hình của trường THCS Thái Hưng
Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện
đổi mới PPDH, theo tinh thần tập huấn của Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Bình về
việc bồi dưỡng cho giáo viên trong toàn tỉnh tiếp cận với những phương pháp, kĩ
thuật dạy học mới, trong nhiều năm qua tại trường Trường THCS Thái Hưng tinh
thần đổi mới phương pháp dạy học của mỗi giáo viên được nâng cao. Các thầy cô
giáo ở tất cả các bộ môn như Toán, Lý Hóa, Lịch sử, Địa lý... trong trường luôn học
hỏi, tìm hiểu những PPDH tiến bộ, vận dụng những kỹ thuật mới vào trong dạy học
để làm mới bài giảng của mình, tăng sự hứng thú của học sinh trong các giờ học.
2. Thực trạng nghiên cứu

a/ Thực tế giảng dạy của giáo viên:
Trong nhiều năm qua, khi dạy tiết luyện tập tôi vẫn luôn chú ý xây dựng thành
một tiết học sinh động, tạo được hứng thú cho học sinh. Và khi tiến hành thực hiện
đề tài này tôi đã trao đổi với thầy cô, đồng nghiệp trong tổ về sự lợi ích của việc dạy
tiết luyện tập nhằm phát huy tính tích cực của mọi đôi tượng học sinh. Qua trao đội
nhận thấy rằng giáo viên có chú ý thực hiện, nhưng không thường xuyên, chỉ thực
hiện khi gặp tiết có sô lượng bài tập ít, hoặc khi có thao giảng, dự giờ. Một sô giáo
viên thì có thực hiện nhưng hiệu quả chưa cao.
Tôi tiến hành hợp tác dự giờ trong tổ khôi 6 (2 tiết), khôi 7 (2 tiết), khôi 9 (2
tiết) nhận thấy việc dạy tiết luyện tập đạt được những yêu cầu đặt ra (Không gây
nhàm chán, không nặng nề, mọi học sinh đều cảm thấy thích thú học tập,…) không
phải dễ dàng vì:
- Trình độ nhận thức của học sinh trong một lớp không bằng nhau.
- Giáo viên chưa có sự đầu tư cho tiết dạy.
- Tài liệu tham khảo phục vụ cho tiết dạy còn hạn chế.
- Hệ thông bài tập đưa ra chưa phù hợp với trình độ của học sinh (Quá cao
hoặc quá thấp).
- Sự chuẩn bị của học sinh chưa tôt.
b/ Khảo sát học sinh:
- Qua quan sát trong những tiết được dự giờ, tôi nhận thấy sự tập trung, tinh
thần học tập của học sinh ở các khôi lớp như sau:
+ Lớp 7a5 (Khá - giỏi): Không khí lớp trầm lắng, học sinh có tiếp thu bài
nhưng không hứng thú với tiết học.(Chúng tôi đã dự giờ tiết 10 – Luyện tập (Tỉ lệ
thức) : Ở từng bài tập giáo viên chưa chôt lại phương pháp chung, cũng như lưu ý
cho học sinh những sai sót cần tránh, điều đó cho thấy sự đầu tư cho tiết dạy của giáo
viên chưa cao. Hệ thông bài tập đưa ra quá rập khuôn sách giáo khoa, giáo viên chưa
khéo léo lồng ghép một sô bài tập trắc nghiệm vào nhằm giảm bớt áp lực cho học
sinh, …)
+ Lớp 7a6(Trung bình – yếu): Học sinh tiếp thu tôt, không khí lớp sinh động
hơn. Các bài tập được giáo viên xây dựng theo các dạng bài cơ bản, sau mỗi dạng bài



có chôt lại phương pháp, có lưu ý những sai sót cho học sinh. Tuy nhiên, giáo viên
chưa xây dựng được các thuật toán cho các dạng bài cơ bản,…
+ Lớp 9a1,2: Giáo viên chuẩn bị tôt cho tiết dạy từ kiến thức đến các phương
tiện hổ trợ. Do đó, học sinh học rất nhẹ nhàng. Yêu cầu của giáo viên đưa ra phù hợp
với học sinh.
- Thực tế giảng dạy tại lớp 8a1 (Trung bình – khá – giỏi); 8a2, 8a3 (yếu Trung bình)
+ Lớp 8a1: Dạy bài “Luyện tập – tiết 8” (Đại sô). Ở phần kiểm tra bài
cũ, tôi yêu cầu học sinh: Hãy chọn một trong sô các tấm giấy có ghi một vế của 7
hằng đẳng thức đáng nhớ để ghép với các tấm trên bảng tạo thành một hằng đẳng
thức đúng, sau đó gọi tên hằng đẳng thức đó và áp dụng vào làm bài tập. Học sinh đã
thực hiện được yêu cầu này. Khi đến phần luyện tập, tôi đã lựa chọn, xây dựng các
bài tập trong sách giáo khoa lại theo từng dạng cơ bản, ở mỗi dạng tôi cô gằng đưa ra
phương pháp giải chung hay thuật toán để giải dạng toán đó, cũng như khéo léo lồng
ghép một sô dạng bài toán trắc nghiệm vào (đúng sai, điền khuyết,…). Ở cuôi bài tôi
đưa ra bài học kinh nghiệm cho dạng toán tính giá trị biểu thức cho học sinh nắm
vững hơn (Các dạng còn lại các tiết luyện tập trước đã được cung cấp).
Tôi nhận thấy học sinh đều thấy thoải mái, thích thú với tiết học, tiếp thu bài
rất tôt.
+ Lớp 8a2, 8a3: Dạy bài “ Luyện tập – tiết 17” (Hình học). Ở phần kiểm
tra bài cũ, tôi đưa ra yêu cầu gồm ba phần:
1/ Phát biểu định nghĩa, tính chất hình chữ nhật? ( 2 điểm)
2/ Một bài tập trắc nghiệm xác định tính đúng sai? (3 điểm)
3/ Một bài toán chứng minh (Hoàn thành bài chứng minh bằng cách
điền khuyết). (5 điểm).
Học sinh trả lời tương đôi đúng (Học sinh trung bình), và hoàn chỉnh
(Học sinh khá – giỏi).
Sau đó tôi chôt lại một sô điểm cần chú ý qua phần kiểm tra bài cũ trên.
Trong phần luyện tập, tôi cũng đã lựa chọn xây dựng một hệ thông bài tập đa

dạng, và có một sô bài tập được đưa từ ngoài vào. Mỗi dạng bài tôi đều cô
gắng hướng dẫn học sinh phân tích bài toán theo hướng đi lên, sau đó chôt lại
phương pháp. Đến phần củng cô, thay vì đưa ra các câu hỏi để củng cô lại các
kiến thức đã học cho học sinh, tôi đã xây dựng thành một trò chơi nhỏ “Giải
đáp ô chữ” thật sự tạo được thích thú cho các em, làm cho không khí lớp sôi
nổi hẳn lên.
+ Ở một sô tiết luyện tập, tôi còn phân việc cho các em chuẩn bị, rồi tự
trình bày trước toàn thể lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên:
Tiết 14 – luyện tập _ đại sô 8:
Tổ 1: Soạn các bài tập phân tích thành nhân tử bằng phương pháp
đặt nhân tử chung.
Tổ 2: Soạn các bài tập phân tích thành nhân tử bằng phương pháp
nhóm hạng tử.


Tổ 3: Soạn các bài tập phân tích thành nhân tử bằng phương pháp
sử dụng hằng đẳng thức đáng nhớ.
Tổ 4: Soạn các bài tập phân tích thành nhân tử bằng phương pháp
tách hạng tử.
Tôi nhận thấy các em tuy có nhiều bỡ ngỡ, trình bày chưa tôt lắm nhưng
tất cả đều thấy thích thú vì mình được góp phần vào xây dựng tiết học.
- Khi tiến hành nghiên cứu vấn đề này, song song với việc trao đổi với đồng
nghiệp, thực hành bằng tiết dạy, tôi còn tiến hành đàm thoại cùng học sinh:
+ Đình Long (8a1): “Em thật sự rất thích học toán vì toán có nhiều ứng
dụng vào các môn học khác”.
+ Hưng (8a2): “Em thấy học thật vui và hấp dẫn, không khí lúc nào
cũng sôi nổi, qua tiết học nay em mới biết thêm một di tích lịch sử của nước ta”.
+ Tây (8a3): “Em học toán tệ lắm, nên trước đây tới giờ toán em rất sợ,
còn bây giờ thì thấy thích học toán hơn, lâu lắm rồi em mới làm được bài như thế
này”.

+ Vy (7a5): “Em thích học toán từ nhỏ nhưng lại rất ghét học các tiết
luyện tập vì tới các luyện tập thì em rất sợ vì nó khô khan, nặng nề quá”
Trong thời gian hạn hẹp, chúng tôi không thể đưa ra hết các ví dụ. Nhưng qua
thực tế giảng dạy, chúng ta có thể thấy được phần nào sự cần thiết của vấn đề. Thế
nhưng thực tiển lại cho thấy việc dạy tiết luyện tập để phát huy tính tích cực của mọi
đôi tượng học sinh luôn gặp nhiều khó khăn. Chúng tôi xin đưa ra một sô giải pháp,
kinh nghiệm được rút ra trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu.


III. ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP, SÁNG KIẾN NGHIÊN CỨU
III.1. Thực hành bằng tiết dạy minh hoạ
- Giáo viên phải xem xét, nghiên cứu thật kỹ tiết dạy, phải có sự đầu tư chuẩn
bị cho tiết dạy tôt. Bởi vì, dạy một tiết học bình thường đạt hiệu quả đã là khó, dạy
tiết luyện tập lại càng khó hơn nhất là với một lớp mà trình độ của học sinh không
bằng nhau.
- Để dạy một tiết luyện tập đạt hiệu quả, ta có thể thực hiện như sau:
1/ Ổn định:
Giáo viên có thể kiểm diện, sau đó cho lớp hát một bài.
2/ Kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đặt câu hỏi có nội dung và biểu điểm rõ ràng (Nên chuẩn bị ở
bảng phụ), giáo viên phải nhận xét tính đúng sai trong câu trả lời của học sinh.
Ở những lớp yếu, với cùng một nội dung kiểm tra, giáo viên nên phân ra
thành nhiều câu nhỏ dễ hiểu để học sinh trả lời.
Ví dụ:
+ Với nội dung kiểm tra các hằng đẳng thức đáng nhớ: Ở lớp 8a1 (Khá –
giỏi), giáo viên có thể yêu cầu học sinh phát biểu 4 hằng đẳng thức đáng nhớ bất kỳ
trong 7 hằng đẳng thức đã học; Còn ở lớp 8a2, 8a3(Trung bình – yếu), giáo viên có
thể cho học sinh hoàn thành dưới dạng toán trắc nghiệm điền khuyết, hay hoàn thành
bằng cách ghép giấy như đã trình bày ở trên.
+ Khi dạy bài “Luyện tập – tiết 10” _Đại sô 7: Với yêu cầu “ Nếu a.d =

c.b thì ta có các tỉ lệ thức nào?”, giáo viên có thể đưa ra yêu cầu như sau: “Nếu a.d =
c.b thì ta có các tỉ lệ thức:
a
c a ...... ...... ...... ......... b
=
; =
;
=
;
=
..... ..... b ....... b
a ......... a

Hãy hoàn thành bài tập trên bằng cách điền vào chổ (….) để tạo thành các tỉ lệ thức
đúng.”
3/ Luyện tập:
Giáo viên nên phân loại bài tập thành từng dạng bài cơ bản từ đơn giản
đến nâng cao phù hợp với từng đôi tượng học sinh. Sau mỗi dạng bài nên chôt lại
phương pháp giải để đưa ra bài học kinh nghiệm, nên tăng lượng bài tập trắc nghiệm
giúp học sinh tích cực xây dựng bài, nhận biết những sai lầm của mình, và tiết kiệm
thời gian cho giáo viên.
Ví dụ:
+ Lớp 6: Bài “Luyện tập – tiết 6”, giúp học sinh khắc sâu khái niệm tia,
tia đôi nhau, giáo viên có thể đưa bài tập – kết hợp với việc sử dụng phương tiện trực
quan minh hoạ như sau:
“Các câu sau đúng hay sai:


t


z

x

O

y

a) 3 tia.

t

z

x

O

y

b) 4 tia.

x

O

y

c) 1 tia.”
+ Lớp 8: Khi dạy bài “Luyện tập – tiết 12”, khi đưa vào bài tập “Tính

giá trị của biểu thức” ở các lớp yếu có thể chia thành các yêu cầu nhỏ:
Phân tích các đa thức thành nhân tử.
Tính giá trị của đa thức đã phân tích.
Hoặc thay vì yêu cầu học sinh: Hãy chứng minh: a3 − b3 = ( a − b ) − 3ab ( a − b )
3

giáo viên có thể yêu cầu học sinh hoàn thành bài tập sau:
3
Để chứng minh a3 + b3 = ( a + b ) − 3ab ( a + b ) một bạn học sinh đã làm như sau:
VT = ( a + b ) − 3ab ( a + b )
3

= a3 + 3a 2 b + 3ab 2 + b3 − 3a 2 b − 3ab 2
= a3 + b3 = VP
Hãy quan sát bài làm của bạn và cho biết: Bạn hoàn thành bài toán như thế nào?
3
Bằng cách làm tương tự: Hãy chứng minh: a3 − b3 = ( a − b ) + 3ab ( a − b )

4/ Củng cố:
Đây là bước khá quan trọng nhằm giúp học sinh củng cô khắc sâu các
kiến thức của bài. Giáo viên có thể củng cô từng phần hoặc củng cô cho toàn bài.
Dạng bài tập sử dụng cho phần này có thể là trắc nghiệm đúng sai, trắc nghiệm điền
khuyết, trắc nghiệm ghép câu, hay một trò chơi nhỏ (Giải ô chữ, …), đồng thời ở
phần này giáo viên cũng có thể nhắc lại các bài học kinh nghiệm đã đúc kết được
trong bài học.
5/ Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà:


Giáo viên nên đưa ra yêu cầu cụ thể, rõ ràng học sinh phải làm những
gì? Chuẩn bị những gì? Cho tiết học sau. Nếu có bài tập khó, thì nên hướng dẫn để

học sinh có thể hoàn thành.
* Một số lưu ý khi dạy tiết luyện tập:
- Yêu cầu đưa ra cho học sinh không quá cao, quá thấp so với trình độ của học
sinh.
- Không giải quá nhiều bài tập trong một tiết day.
- Xây dựng bài học từ dễ đến khó.
- Lựa chọn bài tập phù hợp với nội dung bài.
- Không nên lạm dụng các bài tập trắc nghiệm, cũng như các phương tiện hổ
trợ cho tiết dạy.


Kết quả khảo sát học sinh có thích tiết học hay không:
STT

LỚP

TS HS

1
2
3
4
5
6
7

9A2
9A1
7A5
7A6

8A1
8A2
8A3

44
40
41
47
41
42
41

RẤT
THÍCH
30
25
30
27
25
29
30

THÍCH
08
10
07
12
10
09
08


BÌNH
THƯỜNG
06
05
04
08
06
04
03

GHI
CHU

Kết quả chất lượng bộ môn:
Lớp

TSHS

8a1
8a2
8a3

41
42
41

TSHS trên TB
CL
CL

CL
đầu
KSCL
KS
năm
giữa HK HK I
I
23
28
33
15
18
21
18
20
28



TSHS dưới TB
CL
CL
CL
đầu KSCL KS
năm
giữa HK I
HK I
18
13
8

27
24
21
23
21
13


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo viên, sách giáo khoa khôi 6 ,7 ,8 , 9.
2. Phương pháp dạy học sô học và đại sô ở trường Trung học cơ sở của Hoàng
Chúng (NXB Giáo Dục).
3. Hoạt động hình học ở trường THCS của Phạm Gia Đức – Phạm Đức Quang
(NXB Giáo Dục).
4. Tài liệu BD thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004 – 2007)
môn Toán (NXB Giáo dục).



×